THANH TINH TÂM
Lê Sỹ Minh Tùng
PHẦN GIỚI THIỆU
Trước khi Thái tử Tất Đạt Đa xuất gia tìm
đạo, nhân dịp dạo chơi bốn cửa thành thì Ngài thấy những cảnh khổ như sanh, già, bệnh, chết. Từ đó trong tâm của Thái tử nẩy sanh ra ba thắc mắc:
1) Con người chúng ta từ đâu đến đây?
2) Sau khi chết thì chúng ta sẽ đi về đâu?
3) Cuộc đời nầy đầy dẫy khổ đau do đó nếu muốn thoát khổ và ra khỏi vòng sanh tử thì phải làm sao?
Vì
những thắc mắc đó mà Ngài không yên tâm sống trong cảnh cung vàng điện
ngọc, vợ đẹp con xinh mà quyết chí xuất gia cầu đạo, xả phú cầu bần để
cố tìm cho ra chân lý. Sau gần 11 năm tu hành khổ hạnh đến khi thân thể khô cằn chỉ còn xương bọc lấy da và một ngày nọ vì quá kiệt sức Ngài ngã quỵ bên dòng sông Ni Liên. Lúc ấy có một thôn nữ tên là Sujata
đến cúng dường một bát cháo sữa và sức khỏe Thái tử dần dần hồi phục. Thái tử bèn tắm gội ở dòng sông Ni Liên, vượt qua sông lớn đến núi Bát La Cấp Bồ-đề tức là núi Tiền Chánh Giác và dạo xem phong cảnh ở đây. Ngài rất hài lòng cảnh trí an tĩnh của núi nầy và có ý định chọn nơi đây để thành Chánh Giác. Khi Thái tử từ triền núi phía đông bắc lên trên đỉnh núi, mặt đất bỗng chấn động làm núi rừng rung chuyển. Sơn thần lo sợ thưa với Thái tử:
* Quả núi nầy không có phước để Ngài tu thành Chánh giác. Nếu Ngài ở lại đây, nhập Kim Cương định, sẽ sinh ra động đất thì núi nầy thế nào cũng bị sụp đổ.
Sau đó Thái
tử từ phía tây nam đi xuống, dừng lại nơi lưng chừng núi, nhìn xuống vực sâu thấy có một ngôi thạch thất. Ngài bèn vào trong ngôi thạch thất, ngồi Kiết già thì mặt đất lại chuyển động làm quả núi rung chuyển. Khi đó có vị Hộ pháp thiên thần là Tịnh Cư Thiên, một trong Tứ Thiên vương, từ trên không nói vọng xuống:
Chỗ nầy cũng không phải nơi Như Lai tu thành Chánh giác. Ngài phải đi khoảng mười lăm dặm về hướng tây nam, không xa nơi Ngài tu khổ hạnh khi trước, có một cây Tất Bạt La, bên dưới có một tòa kim cương, chư Phật quá khứ và tương lai đều thành Chánh giác tại đó cả. Như Lai nên đi đến đó.
Thái tử bèn đi đến cây Tất Bạt La, trong lòng thầm nghĩ nên dùng cỏ để trải tòa. Trời Đế Thích thấu biết liền biến thành một người cắt cỏ, gánh một
gánh cỏ đến. Thái tử bèn hỏi:
* Cỏ ông gánh đấy có cho tôi mượn được không?
Thái
tử nhận cỏ và lót ngồi dưới cội cây Tát Bạt La. Ngài ngồi suốt 49 ngày
đêm thiền định dưới cội cây Tất Bạt La và trở thành đấng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Từ đây Thái tử Tất Đạt Đa không còn nữa mà trở thành Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và cây Tất Bạt La được gọi là cây Bồ-đề tức là cây giác ngộ. Khi Phật Đà còn tại thế, cây ấy cao mấy mươi thước, bị chặt phá bao nhiêu lần nên ngày nay cây Bồ-đề là cây cháu, cây chít chớ không còn là cây mà ngày xưa Đức Phật ngồi trên đó. Mỗi năm đến ngày Đức Phật nhập diệt, cây Bồ-đề rụng hết lá, nhưng sau đó lá
xanh lại nhanh chóng phục hồi như trước.
la bo de
Sau khi Đức
Phật nhập diệt khoảng bốn trăm năm tức là vào năm 264 trước Công nguyên, vua A Dục mới lên ngôi. Vì tin theo tà đạo và muốn phá hoại di tích Phật giáo, đích thân nhà vua thống lãnh quân đội đến chặt phá cây Bồ-đề. Cây bị đào bật gốc, chặt đứt từng đoạn rồi đem đi vất cách xa chỗ ấy mấy mươi bước rồi hạ lệnh cho những người Bà La Môn thờ lửa đốt rụi để tế trời. Khi ngọn lửa còn đang phừng cháy, đột nhiên nẩy sinh ra hai gốc cây Bồ-đề trong ngọn lửa, tàng lá sum sê, xanh tốt rất mực nên người sau gọi là cây Bồ-đề tro.
Vua A Dục thấy chuyện kỳ lạ, thành tâm hối hận, dùng sữa thơm rửa sạch các rễ cây còn sót lại và đến sáng hôm sau cây Bồ-đề phục sinh như cũ. Nhà vua thấy linh dị như thế, trong lòng phát sinh tâm kính ngưỡng nên đích thân nhà vua cúng dường trọng lễ. Vương phi xưa nay tín ngưỡng ngoại đạo, lén sai đầy tớ nhân lúc trời tối quá nửa đêm đến chặt cây. Sáng hôm sau, vua A Dục thấy cây bị tàn tạ, đau đớn trong lòng, dùng sữa thơm tưới rửa thì chưa đến một ngày cành lá lại phục hồi như trước. Từ đấy vua A Dục lại càng tôn sùng
tin tưởng liền cho xây tường bao bằng đá, cao trên mười thước để bảo vệ cho cây mà vẫn còn cho đến ngày nay.
Vào cuối thế kỷ thứ sáu,
vua nước Cao Đạt là Sasànka có nghĩa là mặ trăng cũng tín ngưỡng ngoại
đạo nên đố kỵ phá hoại Phật pháp. Nhà vua ra lệnh chặt bỏ cây Bồ-đề, đem vất xuống sông và cho đào cả rễ cây mà đốt. Sau đó dùng mật đường mía tươi tưới lên cho tuyệt mầm. Mấy tháng sau vua Mãn Trụ (Pàrnavarma)
là cháu vua A Dục nghe tin ấy thì than thở:
* Ngày của Trí tuệ đã ẩn tàng rồi, chỉ còn lại mỗi cây Bồ-đề ấy mà nay cũng bị tàn phá nốt thì chúng sinh còn gì để nương tựa?
Nhà
vua nằm lăn ra đất rất đau thương rồi dùng sữa của mấy ngàn con bò mà tưới cho cây. Qua một đêm cây lại nẩy mầm lớn lên cao đến hơn mười thước. Nhà vua lại sợ có người lại phá hoại nên cho xây tường bằng vách đá xanh cao để bảo vệ mà hiện nay vẫn còn là một di tích ở Bồ-đề đạo tràng.
Từ lúc khai thiên lập địa, ở trong tam thiên đại thiên thế
giới và ở ngay trung tâm của Bồ-đề đạo tràng có một tòa Kim Cương mà bên dưới đụng tới Kim luân và bên trên đụng tới mặt đất do Kim Cương cấu
thành với chu vi khoảng một trăm bước. Thời Hiền kiếp thiên Phật tức là một ngàn vị Phật xuất thế độ sanh đều tọa thiền nơi ấy mà nhập được Kim Cương định nên mới gọi là Kim Cương tòa.
Phía bắc cây Bồ-đề,
có một khu đất, là nơi
Phật Đà tản bộ. Sau khi thành
Chánh Đẳng Chánh Giác,
Đức Phật ngồi
tĩnh tọa tại tòa
Kim Cương nhập định bảy ngày. Lúc đó có
Long vương muốn
hộ vệ Như Lai nên lấy thân mình quấn quanh
Đức Phật bảy vòng, rồi
hóa thành nhiều đầu lâu để
bảo vệ cho Ngài. Kế đó có
ngôi
tịnh xá xây dựng trên một tảng đá lớn. Trong
tịnh xá có một
Phật tượng, mắt nhìn lên trên cao bởi vì
ngày xưa sau khi
thành Phật, Ngài đứng tại đó
trải qua bảy ngày nhìn chăm chăm cây Bồ-đề, dẫu một khắc cũng không rời. Đó là
Như Lai báo đáp ơn trọng của cây Bồ-đề và cũng là
lúc Ngài
suy nghĩ lời của một Đại Phạn
Thiên vương khuyên nên
chuyển bánh xe Pháp. Sau khi
thành đạo thì có hai vị
thương gia tên là Đề Vị (Tapussa) và
Ba Lợi (Bhallika) lấy
thức ăn đi đường của mình gồm cháo mạch và mật ong dâng lên
Phật Đà.
Thọ dụng bửa ăn xong,
Đức Phật đang tính tìm vật chi để đựng
thức ăn thì bốn vị
Thiên Vương từ bốn phương hiện đến, mỗi người
đem theo một
bình bát bằng vàng, chuẩn bị hiến cho
Thế Tôn.
Đức Phật không chịu nhận vì người
xuất gia không xử dụng
vật dụng ấy.
Tứ Thiên vương lại dâng
các loại bình bát bằng bạc rồi
mã não,
lưu ly…đều bị
Thế Tôn từ chối. Bốn vị
Thiên vương mỗi người
trở về tiên cung lấy loại
bình bát bằng đá, sắc xanh hồng dâng lên.
Thế Tôn nhận cả bốn bát bằng đá, rồi nhập chung lại thành một, nên
bình bát của
Phật có bốn cái dấu.
Phía đông cây Bô-đề có ngôi
Manh Long thất. Trong nhà có con rồng
kiếp trước phạm nhiều tội nên khi ra đời đã
bị mù cả hai con mắt gọi là con rồng mù. Khi
Thái tử sắp
thành Chánh Giác có đi ngang qua
Manh Long thất,
thốt nhiên mắt rồng trở nên sáng ra liền bạch với
Thái tử:
* Thầy sắp sửa
thành Chánh Giác vì đôi mắt tôi mù
đã lâu lắm rồi, khi nào Phật ra đời thì mắt tôi liền sáng. Bửa nay, thầy đi qua, hai con mắt của tôi sáng ra nhìn thấy hết mọi thứ cho nên tôi biết thầy sắp
thành Phật.
Trong đêm
lịch sử mùng tám tháng chạp cách đây trên 2500 năm thì Ngài đã
thành đạo sau khi chứng được
tam minh và
lục đại thần thông.
Tam minh đó là:
1)
Túc
Mạng Minh: Túc là đời trước, mạng là sinh mạng còn minh là
sáng suốt. Do đó
túc mạng minh là
sáng suốt để thấu
hiểu rõ ràng những đời trước của mình. Đây là lời
giải đáp câu hỏi thứ nhất là
con người chúng ta từ
đâu mà đến?
Đức Phật đã thấy rõ
vô số tiền kiếp của mình như việc mới xảy ra hôm qua. Đời trước Ngài là ai? Tên gì? Và sống ở đâu? Từ đó
vô số kiếp
hiện ra trước mắt Ngài, một kiếp qua đi thì kiếp khác lại đến. Vì sự trực tiếp nhớ về đời
quá khứ của chính mình nên về sau
đệ tử của Phật gom góp tất cả các đời
quá khứ để làm
thành kinh Bổn Sự cho
Đức Phật.
2)
Thiên Nhãn Minh: là con mắt
sáng suốt thấy
rõ ràng những
gì rất xa một cách tường tận. Ngài đã thấy sự
sanh tử của
chúng sanh dựa trên cái nghiệp mà chính họ đã tạo ra. Sự thấy biết của Ngài như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường thấy kẻ qua người lại một cách
rõ ràng.
Đức Phật thấy rằng
con người chết rồi không phải là hết mà phải theo nghiệp để thọ sanh trong
Lục đạo Luân hồi. Đây là câu
trả lời cho
nghi vấn thứ hai là
sau khi chết chúng ta sẽ đi về đâu.
3)
Lậu
Tận Minh: Lậu là rơi rớt, tận là
chấm dứt, là hết. Do đó
lậu tận minh là biết tường tận để không còn rơi rớt vào trong
lục đạo luân hồi.
Đức Phật đã thấy
nguyên nhân nào
chúng sinh có sanh
tử và
phương cách nào
chấm dứt sự
sanh tử nầy để không còn rơi rớt,
trầm luân trong
sáu nẻo luân hồi. Đây chính là
chân lý Tứ Diệu Đế.
Con người không còn
sanh tử tức là
vĩnh viễn không còn
đau khổ và đây là câu
trả lời cho
nghi vấn thứ ba.
* Ngoài
tam minh thì
Đức Phật còn chứng cả
lục đại thần thông, đó là:
1)
Thiên nhãn thông: có
nhãn lực nhìn thấy khắp muôn loài cùng sự
sanh hóa trong
thế gian bao la rộng lớn.
2)
Thiên nhĩ thông: có nhĩ lực để nghe khắp
mọi nơi bao gồm loài người và loài vật.
3)
Tha tâm thông: có
tâm lực biết được
tâm nguyện sở cầu của kẻ khác.
4)
Túc mạng thông: có
trí lực hiểu biết các đời trước của mình.
5)
Thần túc thông: có
thần lực để bay cao hay
độn thổ.
6)
Lậu tận thông: có
trí tuệ thông suốt ba đời để không còn
đau khổ,
phiền não và
sanh tử luân hồi.
Mặc
dầu Đức Phật đạt được lục đại thần thông, nhưng
trong suốt 49 năm
hoằng pháp thì Ngài lúc nào cũng khuyên
đệ tử chỉ dùng
chánh pháp mà
hành đạo chớ không nên
lạm dụng thần thông, bởi vì khi
thần thông hết thì
lòng tin con người cũng tan biến theo, còn
chánh pháp là
chân lý tối thượng để giúp
con người đến chỗ
giác ngộ ngỏ hầu
giải thoát cho họ
ra khỏi mọi
phiền não khổ đau. Một ngày nọ
Đức Phật muốn
vượt qua sông
Hằng, lúc đó có một ông
ngoại đạo đến khoe rằng:
* Tôi có thể đi trên mặt nước để qua sông.
*
Đức Phật hỏi:
* Ông
tu luyện bao lâu mới
đạt được như vậy?
* Ông
ngoại đạo đáp:
* Phải
cần tu luyện đến 50 năm mới thành được.
*
Đức Phật dạy:
Ông dùng đến 50 năm
tu luyện để đi qua sông, còn ta chỉ cần có ba đồng để trả tiền đò thì cũng qua được sông mà thôi.
Vì
thế nếu dùng 50 năm của ông
ngoại đạo kia để làm việc
lợi ích cho
chúng sanh và
tu tâm thanh tịnh thì tốt biết bao. Thêm nữa,
thần thông cũng không thắng nỗi
nghiệp lực do đó khi
nghiệp quả đã đến thì
thần thông cũng
trở thành vô nghĩa mà thôi.
Kinh điển Phật giáo là những
bảo vật vô giá và chính là kim chỉ nam cho kẻ
tu hành, nhưng muốn
giải thoát giác ngộ con người không thể
hoàn toàn sống trong dĩ vãng hay
thế giới của
kinh điển được.
Con người cần
đọc kinh để
tìm hiểu những
ý nghĩa huyền diệu nhưng cũng
cần phải xét suy những gì hợp với
sự thật và gạt bỏ đi những gì
rườm rà phiền phức. Nói như thế có nghĩa là
chúng ta tôn trọng Chân Lý mà
Đức Phật đã chỉ dạy trong
tinh thần chứ không phải trong sách vở hay
kinh điển. Đọc quá nhiều kinh sách cũng là một
chướng ngại cho sự
tu hành vì tu là tìm
sự giải thoát chứ không phải bị
trói buộc trong những dòng chữ trong kinh.
Chúng sinh vô-biên thệ nguyện độ,
Phiền não vô-tận thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô-lượng thệ nguyện học,
Phật đạo vô-thượng thệ nguyện thành.