THANH TINH TÂM
Lê Sỹ Minh Tùng
Tôn Giả La Hầu La, Đệ Nhất Mật Hạnh (Rahula)
Trước khi
xuất gia,
Đức Phật khi còn là
Thái tử của Cung
thành Ca Tỳ La Vệ, đã kết hôn với
Công chúa Da Du Đà La của nước Câu Ly. Vào năm
Thái tử và
công chúa 19 tuổi thì hạ sanh
La Hầu La. Nhìn con Ngài rất
vui mừng, nhưng đây không phải là sự
vui mừng thông thường như
tình thương người cha khi thấy con mình mới sanh mà nỗi
vui mừng ở đây là thấy nguyện vọng đi
xuất gia của mình sẽ
thành sự thật. Bởi vì
Thái tử đã nhiều lần
xin vua cha đi
xuất gia, nhưng vua
Tịnh Phạn đều từ chối với
lý do là
trừ phi ông ta có được một cháu đích tôn mà thôi.
Vào đêm mùng tám tháng hai trong khi
mọi người ở
hoàng cung đang
an giấc thì
Thái tử
quyết chí ra đi. Ngài
vội vàng đánh thức tên giữ ngựa
Xa Nặc dậy để thắng cương con ngựa
Kiền Trắc của Ngài. Trước khi ra đi, Ngài đi dọc theo hành lang
nội cung đến trước phòng
công chúa Da Du Đà La và người con trai còn đang ngủ say.
Lúc ấy La Hầu La vừa mới sanh được 7 ngày.
Vương Phi Da Du Đà La ôm
La Hầu La trong tay và
nằm ngủ. Trước giờ
cáo biệt,
Thái tử định bế đứa con còn đang say ngủ một chút, nhưng sợ kinh động
công chúa Da Du Đà La thức dậy làm
cản trở việc ra đi của mình cho nên khi nhìn con lần cuối, Ngài nói:”Hãy đợi khi ta
thành Phật thì sẽ
trở lại thăm con”.
Đức Phật thương xót cho người vợ trẻ và đứa con trai còn nhỏ dại của mình, nhưng đối với sự
đau khổ của
nhân loại thì lòng
thương xót của Ngài còn da diết hơn.
Vì vậy Thái tử chỉ vén rèm
nhìn hai người lần cuối rồi quay lưng leo lên lưng ngựa và vượt thành ra đi. Từ đó,
La Hầu La đã mất bóng người cha
thân yêu ở
thế gian.
La Hầu La lớn lên mất
tình thương của cha, nhưng
bù lại Ngài rất được mẹ và ông nội
thương yêu với cuộc sống của một vương tôn
độc nhất vô nhị. Trong thâm cung vắng vẻ,
La Hầu La là nguồn
hy vọng của
vương phi và hai
mẹ con nương nhau cùng sống cho qua năm tháng đến khi
Đức Phật trở về.
Có người lại nói
Vương phi Da Du Đà La là phận nữ nhi khổ mệnh còn
La Hầu La là đứa bé đáng thương, nhưng đây chỉ là nói theo
tình thương của
thế gian vì những nổi
khổ tâm,
lo lắng của họ chỉ xảy ra trong một
thời gian ngắn mà thôi. Trong
thế gian nầy hễ sự
hy sinh càng lớn thì kết quả
thành công càng to. Thật vậy, về sau nhờ sự
hóa độ
của
Đức Phật,
công chúa Da Du Đà La xuất gia khai ngộ và
La Hầu La cũng
xuất gia chứng thành thánh quả. Bà ta quả xứng đáng là bậc đệ nhất
nữ lưu
vinh hạnh vậy.
Đức Phật vì
lòng từ bi mà
xả thân cầu đạo trong 11 năm trước khi Ngài thành bậc
Chánh Đẳng Chánh Giác. Sau khi
Đức Thế Tôn thành đạo được 3 năm thì Ngài từ nước
Ma Kiệt Đà ở phương Nam về lại cung
thành Ca Tỳ La Vệ để thăm cố hương.
Nghe tin Đức
Phật trở về, từ vua
Tịnh Phạn đến thần dân trong nước đều ra ngoài thành nghinh đón, chỉ trừ
vương phi Da Du Đà La và
La Hầu La là không
tham dự trong hàng người ấy.
Trải qua hơn 14 năm trời không gặp, trong lòng
vương phi Da Du Đà La thao thức mong muốn được
diện kiến Ngài, nhưng vì
lễ phép hay đúng hơn là lòng tự tôn đã giúp bà thêm
kiên nhẫn mà chờ đợi
Đức Phật sẽ đến cung mà thăm bà.
Vương phi thật xứng đáng là một người vợ hiền bởi vì trong
thời gian Đức Phật đi
xuất gia tầm đạo thì bà ta đã vì chồng mà chịu mọi nỗi khổ. Biết
Đức Phật mặc
y phục bạc màu thì bà ta ở trong cung cũng mặc giống như Ngài.
Nghe
tin Ngài
tu khổ hạnh, ăn một ngày một bữa thì ba ta cũng tập làm theo.
Lúc đó cậu bé
La Hầu La chạy đến nói với mẹ:
- Má ơi! Ba con đã về, Bà nội biểu con cho má hay.
Không đợi cho
vương phi trả lời,
La Hầu La hỏi tiếp:
- Má ơi! Người đến trong cung điện thì nhiều biết bao, làm sao biết được người nào là ba con?
Câu
nói từ miệng cậu bé mà không hề biết
hình dáng người cha mình ra sao càng làm cho
vương phi thêm
thương tâm khiến bà không cầm được nước mắt. Một tay kéo
La Hầu La bên mình còn tay kia
chỉ thẳng ra cửa trong khi mắt còn
rơi lệ, bà nói:
- Con nhìn xem! Trong số các thầy
sa môn kia thì người có vẻ
trang nghiêm nhất chính là cha của con đó.
La
Hầu La mở to đôi mắt và nhìn theo tay mẹ.
Xa cách đã trên mười năm thì
hôm nay
vương phi Da Du Đà La mới thấy lại
Đức Phật.
Thời gian thắm thoát
trôi qua như
giấc mộng. Cho dù
thời gian là liều thuốc nhiệm mầu đã làm cho tâm tư của bà trầm tư yên lặng để sống cho con thì nay chính thời điểm nầy đã khiến lòng bà bỗng nhiên
xao xuyến chẳng khác nào như ai ném đá vào mặt nước hồ thu tạo thành những gợn sóng lao xao.
Đức Phật hiểu rõ tâm tưởng của bà nên cùng
Xá Lợi Phất và
Mục Kiền Liên vào
cung
thăm viếng.
Cuộc gặp gỡ giữa một đấng
Chánh Giác và một vị
vương phi mỹ lệ không khỏi tạo sự tò mò của
nhân thế.
Đức Thế Tôn trang nghiêm, yên lặng và nhìn
vương phi mắt đầy lệ đang quỳ dưới chân
với
lòng từ bi thương xót.
La Hầu La thì quỳ bên mẹ mà tâm sự
ngổn ngang cũng
xúc động mà khóc. Đợi cho
vương phi lấy lại bình tĩnh,
Đức Phật mới chậm rãi nói với bà:
- Để cho nàng chịu nhiều
đau khổ, tuy đó là sự
thiếu sót của ta, nhưng ta đã vì tất cả
chúng sinh mà
ra đi. Hôm nay ta đã
đạt được bổn nguyện của ta trong nhiều kiếp, nàng
hãy
hoan hỷ cùng với ta.
Đức Phật nói xong, lại nhìn sang
La Hầu La rồi từ hòa
vỗ về cậu bé:
- Thật mau quá! Con thật đã lớn rồi.
La
Hầu La bây giờ chẳng biết phải gọi cha mình như thế nào. Nếu gọi là ba
thì tự miệng cậu bé chẳng dám vì đây là một bậc thánh
trang nghiêm. Còn gọi là
Phật Đà thì không biết có trúng hay không? Nhìn thấy bao nhiêu vị
Tỳ kheo,
Sa môn đi theo Đức Phật thì trong tâm cậu bé
thông minh nầy chợt nghĩ:
“Đức Phật chẳng là cha của
một mình ta mà chính Ngài là bậc
đại từ phụ của tất cả
chúng sinh. Thật là một
tư tưởng phi phàm vì với lứa tuổi ngây thơ ấy mà đã chịu nguyện đem cha riêng của mình mà hiến cho
chúng sinh làm đấng cha lành”.
Người
Sa Di Đầu Tiên
Đức
Thế Tôn ở tạm trong
hoàng cung vài ngày và trong
thời gian nầy cung điện không có yến tiệc rượu chè, không còn đờn ca múa hát mà được thay bằng 1000 vị
tỳ kheo theo Phật. Cung điện
hoàng gia bây giờ tạm thời
trở
thành tăng phòng tịnh xá.
Đức Phật biết các
tỳ kheo sở học còn
yếu kém do đó nếu để họ ở lâu trong vương cung thì sẽ dễ sanh tâm
so sánh với
đời sống đạm bạc của
tăng đoàn, nên chỉ vài ngày sau thì Ngài đưa
đại chúng về trú tại rừng
Ni Câu Đà ở cách
thành Ca Tỳ La Vệ không xa.
Tuy ở
Ni Câu Đà, nhưng
Đức Thế Tôn cũng thường về
hoàng cung trì khai
khất thực hoặc
thuyết pháp. Thấy cha, cậu bé La Hẩu La ngây thơ mà bạch với Phật rằng:
- Phật Đà! Con rất thích được
ở chung với Ngài.
Câu nói ấy đã
biểu lộ phụ tử
tình thâm thiêng liêng cao quý và
Đức Thế Tôn cũng
trả lời:
- Rồi cũng có ngày ta cho con sống gần bên ta.
Vương phi Da Du Đà La hằng ngày thường khuyến khích
La Hầu La nói năng thêm
hoạt bát lanh lẹ, nên dạy con rằng:
- Con hãy theo
phụ thân xin
tài sản đi,
cha con có những
châu báu mà
chúng ta chưa được thấy.
Do đó, cậu bé
La Hầu La thường
chạy theo Đức Phật nói:
- Phật Đà! Cho con
gia tài đi.
Một hôm,
đang lúc Đức Thế Tôn khất thực trở về lại rừng
Ni Câu Đà.
Đức Phật đi trước,
La Hầu La lẻo đẻo
chạy theo sau nói:
- Phật Đà! Cho con
gia tài đi. Cho con
gia tài đi.
Vương
phi Da Du Đà La nhìn thấy đứa con
duy nhất đi sau lưng Phật nên bà rất
sợ một ngày nào đó
La Hầu La trở thành sa môn thì
cuộc đời của bà sẽ
hoàn toàn trống rỗng và
cô độc.
Và việc gì đến sẽ đến. Khi
Đức Phật về đến rừng
Ni Câu Đà, liền gọi
Xá Lợi Phất đến nói:
-
Xá Lợi Phất! Cậu bé
La Hầu La cứ theo ta xin
gia tài. Ta không muốn cho nó thứ
tài sản và
hạnh phúc mong manh của
thế gian mà ta chỉ muốn cho nó bảo bối
vô giá mà thôi. Này
Xá Lợi Phất! Ông hãy cho nó
xuất gia
làm
Sa di đầu tiên của
tăng đoàn.
Đức Phật nói xong, gọi
Mục Kiền Liên cạo tóc cho cậu bé, dạy
lễ bái Xá Lợi Phất làm thầy và
truyền
giới Sa di cho
La Hầu La. Đây chính là vị
Sa di đầu tiên để khai nguyên cho chúng
Sa di trong
tăng đoàn của
Đức Phật trên mấy ngàn năm nay.
La Hầu La là hoài bão và cũng là
hy vọng duy nhất của
Vương
phi. Sau khi
Đức Phật rời bỏ ngôi vị ra đi và
thành Phật quả thì vương
vị sau nầy của nước
Ca Tỳ La Vệ nhất định sẽ về tay
La Hầu La, nhưng chủ trương của
Đức Phật là không để cho con ham mê vương vị tạm thời của
thế gian. Đây chỉ là những
hạnh phúc mong manh giả tạm để
lôi cuốn con người vào
vòng sanh tử. Càng
si mê thì càng
đọa lạc vào đường khổ cũng như
tội lỗi thì đồng lỏa với bóng đêm.
Đức Phật muốn đem con Ngài từ màn đêm tăm tối của
dục lạc, của
quyền uy ra trước ánh sáng
mặt trời
tươi mát và hiền diệu.
Việc
La hầu La xuất gia là một điều đau buồn cho
vương phi vì bà thương con còn hơn cả thân mình. Mười mấy năm nay cậu bé
La Hầu La là niềm
an ủi duy nhất của bà, nay
La Hầu La thân yêu nhất cũng bỏ bà ra đi thì đối với bà thật là trời sầu đất thảm. Bà đã trách
Đức Phật nhẫn tâm để cho bà chịu nhiều điều
đau khổ, nhưng
chân lý và nhân tình là hai lối đi trái ngược nhau. Kẻ
giác ngộ thì
họ hàng phục được tình cảm
yếu đuối của thế nhân để tìm cho mình được chơn
lý
pháp tánh mà
giải thoát tất cả mọi
hệ lụy của
thế gian.
La hầu La xuất gia làm
Sa di rồi thì
vương phi Da Du Đà La cũng đành chịu
không biết làm sao hơn. Vua
Tịnh Phạn thông cảm nỗi
khổ tâm của bà bèn
đến tìm Phật và
yêu cầu một điều:
- Bạch Thế Tôn! Mong rằng Ngài
quy định từ nay về sau, các người trẻ
xuất gia phải được sự
đồng ý và
cho phép của
cha mẹ.
Đức Phật hoan hỷ nhận lời.
Từ
ngày
La Hầu La xuất gia thì
vương phi Da Du Đà La chẳng còn hứng thú gì trên cõi đời nầy. Đối với bà tất cả đều khô héo,
bi thương và sầu thảm. Về sau bà
kế mẫu Ma Ha Ba Xa Ba được
xuất gia làm
tỳ kheo ni thì
vương phi Da Du Đà La cũng theo các
vương phi khác đến
Tỳ Xá Ly xuất gia.
Ban đầu, bà không
cảm thấy an lạc tí nào khi sống trong
tăng đoàn vắng lặng, nhưng nhờ
Đức Thế Tôn cảm hóa thì chẳng bao lâu bà được
khai
ngộ, khôi phục lại niềm vui và cùng
sinh hoạt bình thường an ổn tự tại
trong
Phật pháp. Chứng được
thánh quả A La Hán làm bà rất
vui mừng và cảm kích
Đức Thế Tôn.
Đức Phật cũng
hoan hỷ và đến lúc nầy thì Ngài mới
hết
trách nhiệm đối với bà.
Chú
Sa di La Hầu La còn quá nhỏ nên
không thể bắt buộc
tu hành giống như người lớn được. Ít lâu sau, khi
tăng đoàn có
hệ thống Sa di thì Ngài
Xá Lợi Phất cũng thâu nhận một chú
nhỏ là
Sa di Quân Đầu. Nhờ
vậy mà hai chú nhỏ có dịp chơi chung
với nhau. Trẻ con thì lúc nào cũng trẻ con cho nên
nếu không có người lớn thì chúng bày những trò chơi để đùa nghịch.
Vì
bị bắt buộc sống trong
tăng đoàn nghiêm túc chớ đâu phải là bổn nguyện của mình, nên
La Hầu La không thấy gì
vui vẻ. Đối với cậu bé nầy thì
tinh nghịch là điều
thú vị nên cậu thích
nói dối gạt người.
Khi
La Hầu La đang ở rừng Ôn Tuyền ngoài thành
Vương Xá, thì có rất nhiều
quan đại thần,
trưởng giả và
cư sĩ muốn
yết kiến Đức Thế Tôn, nhưng cậu thường
tìm cách nói gạt để trêu ghẹo
mọi người. Nếu
Đức Phật đang ở
tịnh xá Trúc Lâm thì
La Hầu La lại nói Ngài đang ở núi Linh Thứu. Còn
Đức Phật đang ở
núi Linh Thứu thì cậu lại
nói gạt rằng Phật ở
tịnh xá Trúc Lâm. Hai nơi ấy cách
xa nhau vài ba dặm làm cho
thiên hạ cứ
đi tới đi lui mệt nhừ mà
rốt cuộc không gặp được Phật. Khi họ
thất vọng quay về thì
La Hầu La còn
cười nhạo:
- Các ông không gặp được Phật sao?
Cậu
bé
La Hầu La rất
nghịch ngợm nhưng không nhận chịu lỗi của mình. Đây cũng là chuyện thông thường của
thế gian mà thôi vì sanh ra là con nhà
giàu có,
quyền thế trong tay thì
dĩ nhiên là sanh lòng
ỷ lại vào
tiền của và
thế lực của
cha mẹ mình để làm chuyện bất chính. Tuy là
xuất gia,
nhưng cậu bé nghĩ mình là con Phật và cháu vua
Tịnh Phạn thì
tăng chúng ai ai cũng phải
sủng ái mình nên cậu bé phát sinh
tập khí kiệu mạn.
La Hầu La gạt
mọi người một lần, hai lần, nhưng sau vài lần
thì
mọi người đều biết và
tiếng đồn La Hầu La nói dối, chọc ghẹo người
đến tai
Đức Phật.
Đức Thế Tôn không vui nên một hôm Ngài đích thân đến
rừng Ôn Tuyền để răn dạy
La Hầu La về tánh trung trực cũng như
lời nói
và
hành vi bất chánh bất thiện.
Lời Răn Của Phật
Hôm ấy,
Đức Thế Tôn đến chỗ ở của
La Hầu La với dáng
hết sức oai nghiêm.
La Hầu La không ngờ vội chỉnh y ra nghinh đón Phật. Đợi cho
Thế
Tôn an tọa, cậu đem nước đến cho Phật rửa chân.
Đức Phật không
nói một
lời nên khi vừa rửa chân xong, bèn chỉ nước dơ trong chậu hỏi
La Hầu La:
- Này
La Hầu La! Thứ nước
dơ bẩn nầy có đem uống được không?
La Hầu La kinh hãi trả lời:
- Bạch Thế Tôn! Nước rửa chân rất dơ không thể uống được.
Phật dạy:
- Ông cũng giống như thứ nước đó. Nước vốn
trong sạch, rửa chân xong bèn
trở nên
dơ bẩn. Cũng giống như ông vốn là vương tôn,
lìa bỏ mọi thứ
vinh hoa phú quý tạm bợ của
thế gian để
xuất gia làm
sa môn. Tuy chưa
thọ giới tỳ kheo, nhưng ông đã thọ
mười giới Sa di. Ông không
tinh tấn tu tập, không để
thân tâm thanh tịnh, không
giữ miệng cẩn thận lời nói mà dối gạt chọc ghẹo người. Sự nhơ bẩn
tam độc đầy dẫy trong tâm ông, giống như nước
trong sạch đã bị
dơ bẩn rồi.
La Hầu La chưa bao giờ thấy
Đức Thế Tôn nghiêm nghị như vậy, nên cúi đầu chẳng dám nhìn Phật.
Đức Phật bảo đem nước đổ đi thì lúc đó cậu bé mới dám nhúc nhích.
Đợi
La Hầu La đổ hết nước xong, Phật lại hỏi:
-
La Hầu La! Ông lấy cái chậu nầy đựng cơm được không?
La Hầu La bạch với Phật:
- Bạch Thế Tôn! Chậu đựng nước rửa
chân không thể đem đựng cơm vì chậu đã dơ và đầy chất bẩn nên không thể đựng nước uống được.
Phật lại dạy tiếp:
- Ông cũng giống như cái chậu đó. Tuy làm
sa môn thanh tịnh mà không tu giới, định, huệ nên
thân khẩu ý không
thanh tịnh mà chứa đầy chất
dơ bẩn không
chân thật.
Thức ăn đạo lý làm sao nhét vào trong tâm ông.
Phật nói xong lấy chân đá nhẹ cái chậu lăn mấy vòng,
La Hầu La thấy thế hoảng sợ. Phật lại nói:
-
La Hầu La! Ông sợ cái chậu nầy bị đá bể không?
La Hầu La vừa run vừa sợ thưa:
- Bạch Thế Tôn! Dạ không. Chậu rửa chân là đồ vật xấu có bể cũng chẳng sao.
Phật dạy rằng:
-
La Hầu La ! Ông không tiếc cái chậu nầy cũng giống như
mọi người không
thương mến ông. Ông
xuất gia làm
sa môn, không giữ
oai nghi mà
nói dối
đùa ghẹo thì ai mà thương cho được. Không ai quý tiếc gì ông,
cho đến lúc ông chết mà ông không hối cải, lại càng chìm trong mê mờ.
La hầu La bây giờ sợ
toát mồ hôi và
xấu hổ muốn
độn thổ nên
phát nguyện từ nay về sau sẽ
cố gắng sửa đổi tâm tánh.
Đức Phật răn dạy xong, lại nói một
thí dụ cho
La Hầu La nghe:
- Đời
quá khứ, có một
quốc gia nọ nuôi hai con voi lớn
dũng mãnh thiện chiến. Mỗi khi nhà vua cử binh ra trận, lại trang bị áo giáp cho chúng. Ngà voi mang giáo nhọn, bên tai giắt kiếm bén, bốn chân đều có dao
sáng
ngời và sau đuôi lại cột thêm gậy sắt. Tuy mang nhiều vũ khí như thế, nhưng mỗi khi giao chiến chúng đều cuốn vòi dấu kín, vì đó là chỗ yếu điểm nếu để trúng tên thì chết ngay. Chỉ vì muốn
giữ gìn mạng sống mà loài voi kia phải giữ kỹ chiếc vòi.
La Hầu La ! Ông cũng phải như voi kia giữ kỹ cái vòi. Phải
cẩn thận giữ gìn lời nói của mình cho nên mỗi khi mở miệng nói đùa như voi
bị thương thì
huệ mạng của ông sẽ mất. Mà không được
mọi người thương mến, không được người trí
ưa thích thì đến khi
lâm chung sẽ rơi vào ba đường khổ.
Đức Thế Tôn dùng hết tình hết ý, khẩn thiết,
nghiêm trang mà răn dạy vì thế mỗi lời mỗi câu đều in sâu vào tâm
La Hầu La. Cậu bé
phát nguyện từ nay sẽ
sửa đổi.
Cũng
như hạt lúa khi xay thành gạo, nếu còn dính bụi cám mà không vo chà sạch sẽ thì hạt gạo sẽ không
trở thành gạo trắng.
La Hầu La tuy có
bản tính tốt
ngoan ngoãn, nhưng phải có
pháp thủy của
Đức Phật tẩy rửa thì mới
trở nên thanh tịnh vô nhiễm được. Từ đó
La Hầu La trở thành một người
hoàn toàn thiện mỹ.
Khi
Đức Thế Tôn ở tại vườn
Cù Sa La thì
La Hầu La cùng với
Sa di Quân Đầu theo
sư phụ Xá Lợi Phất đến nghe
Phật thuyết pháp. Công việc hàng ngày của
La Hầu La là phải dậy sớm quét dọn trong ngoài cho sạch sẽ rồi mới
tu tập theo
lời Phật dạy. Với một khu vườn rộng lớn thì đòi hỏi rất nhiều
thời giờ để quét dọn cho sạch sẽ vì thế khi vừa làm xong công việc thì
La Hầu La lập tức đi nghe
Phật thuyết pháp. Không ngờ
lúc ấy phòng của
La Hầu La bị thầy
tỳ kheo
quản lý giao lại cho vị
tỳ kheo khác ở và những y, bát,
tọa cụ của
La Hầu La đều bị bỏ ở ngoài.
Đức Phật đã
quy định một người một phòng thì nếu phòng của mình bị người khác chiếm thì biết làm sao? Hơn nữa
La Hầu La chỉ là
Sa di mà
Đức Phật đã dạy là
Sa di phải
kính trọng tỳ kheo nên
La Hầu La không dám đến hỏi vị
tỳ kheo kia tại sao lại ở trong phòng mình. Thật là tấn thối
lưỡng nan nên
La hầu La cứ đúng ngơ ngơ ở ngoài cửa rất lâu
cho đến lúc mây đen kéo đến đầy trời
báo hiệu sắp có mưa to. Mưa càng lúc càng to,
La Hầu La không biết núp vào chỗ nào đành chui đại vào nhà xí. Tuy có hôi hám thật, nhưng chỉ còn cách ngồi ở trong đó mà thôi và đây chính là lúc
La Hầu La cảm thấy nỗi quạnh quẻ và
tình cảnh của kẻ không nhà.
Đối diện với
nghịch cảnh cay nghiệt thì đây chính là lúc
La Hầu La nỗ lực để nhớ những
lời Phật dạy.
La Hầu La thầm nghĩ lời
Đức Thế Tôn dạy rằng bất cứ trong
tình cảnh khốn khổ nào hoặc bất cứ gặp những chuyện
phiền phức gì thì người
tu hành không nên
khởi tâm oán hận.
Quả thật công phu tu tập của
La Hầu La
tiến bộ rất nhiều.
Bên ngoài thì mưa tuôn xối xả càng lúc càng to làm cho nước tràn xuống mấy chỗ trũng khiến cho một con rắn đen ở trong hang bên cạnh bị ngập nước nên bò ra. Con
rắn độc miền nhiệt đới rất nguy hiểm bò từ từ về phía nhà xí mà
La Hầu La không hề hay biết. Lúc nầy sinh mạng của chú
Sa di chẳng khác nào như chỉ mành treo chuông.
Đức Phật đang ở trong thất bỗng nhiên nhớ đến
La Hầu La tức thì Ngài dùng
thiên nhãn thấy được sự nguy hiểm sắp đến với
La Hầu La bèn
đi thẳng ra nhà xí và đằng hắng một tiếng. Tức thì bên trong nhà
xí cũng có tiếng đằng hắng, Phật bèn hỏi:
- Ai ở trong đó?
- Dạ!
La Hầu La.
Phật bảo:
- Ra mau. Ta bảo ông đi ra.
La
hầu La không ngờ
Đức Thế Tôn đã kêu mình nên vội
bước ra và quỳ bên
chân Phật mà nước mắt chảy ròng ròng. Dầu sao,
La Hầu La còn nhỏ thì tình cảm không
tránh khỏi yếu ớt.
Phật bèn hỏi vì
sao La Hầu La lại ngồi trong nhà xí.
La Hầu La thuật lại hết
mọi việc và được Phật
cho
phép được vào trong phòng của Ngài.
La Hầu La vui mừng khôn xiết chẳng
khác nào mới thoát
địa ngục mà
bước lên thiên đường.
Trẻ con tuổi nhỏ mà khi nhập
tăng đoàn phải cắt ái từ thân nên Phật
cho phép các chú
Sa di được ngủ chung phòng với
tỳ kheo hai đêm. Thầy của
La Hầu
La là
Xá Lợi Phất thường bận giúp Phật hoằng hóa bên ngoài nên ít có dịp ngó ngàng đến
La Hầu La. Nhưng sau
sự kiện nầy thì
Xá Lợi Phất thường gọi
La Hầu La đến
ở chung phòng với
tôn giả. Nhờ vậy,
tôn giả có
nhiều cơ hội để
giáo huấn cho
La Hầu La tiến triển trên
con đường Phật
pháp.
Luyện Đức
Nhẫn NhụcKhi
Đức Phật giảng kinh hay
thuyết pháp,
Xá Lợi Phất đều dẫn
La Hầu La đi nghe và khi
Xá Lợi Phất tịnh tọa thì
La Hầu La cũng
tịnh tọa một bên.
Xá Lợi Phất thường hay thuyết pháp giáo hóa chúng sinh và thường dạy cho
La Hầu La những
kinh nghiệm vì pháp và vì
mọi người.
Xá Lợi Phật quả thật là vị ân
sư tôn quý của
La Hầu La.
Một hôm,
La Hầu La đi theo Xá Lợi Phất khất thực tại thành
Vương Xá thì trên đường gặp một tên
lưu manh lấy cát ném vào bát
Xá Lợi Phất và lấy gậy đánh lên đầu
La Hầu La.
La Hầu La bị thương, máu nhỏ giọt xuống y, tên
lưu manh thấy vậy chẳng những không biết lỗi mà còn chửi:
- Mấy lão trọc, chỉ biết đi
xin ăn mà miệng cứ xưng là
từ bi nhẫn nhục. Nay ta đánh lỗ đầu mày thì xem mày làm gì được ta.
La Hầu La lúc ấy được 18 tuổi đã lộ ra vẻ tức
giận căm gan, nhưng
Xá Lợi Phất an ủi:
-
La Hầu La! Nếu thật là
đệ tử Phật,
cần phải có
tinh thần nhẫn nhục thì
trong
tâm không chứa niềm
sân hận mà phải đem
lòng từ bi thương xót
chúng sinh.
Đức Phật thường dạy
chúng ta, lúc
vinh dự đừng sanh lòng cao
hứng, còn khi bị làm nhục cũng đừng
oán hận. Này
La Hầu La! Nên
điều phục tâm tức giận và cố giữ chắc sự nhẫn nại bởi vì trên
thế gian không có gì
sánh bằng người có sức nhẫn nại.
La Hầu La nghe
Xá Lợi Phất khai thị xong thì
lẳng lặng đến bên ao nước lấy tay khoát nước rửa
sạch vết thương rồi xé một chút vải băng lại.
Xá Lợi Phất theo dõi tình hình trong lòng vừa thương vừa yên dạ.
La Hầu La nhẫn nại,
an nhiên theo
Xá Lợi Phất đi
khất thực xong, trên đường về mới nói với thầy:
- Con nghĩ đến vết thương trên đầu thì
lúc ấy khó mà bỏ qua. Nhưng trên đời nầy sao lắm kẻ hung ác, đến đâu cũng gặp toàn những việc đáng chán.
Con không giận đời, chỉ nghĩ đến cái cõi đời nầy nhiều người không
biết điều.
Đức Phật dạy
chúng ta nên có lòng
đại từ bi với họ, để mặc hạng người
cuồng bạo nhục mạ
chúng ta.
Sa môn tỳ kheo giữ hạnh nhẫn, chứa đức cao mà người cuồng ngu
trở lại khinh chê, lại đi
kính trọng mấy kẻ hung dữ
độc ác.
Đức Phật dạy
chân lý từ bi thì họ nói là hôi như
xác chết.
Chân lý huyền diệu như trời mưa
cam lồ mà loài chó hoang lại
chỉ ưa đồ
dơ bẩn và ưa ở những nơi hôi hám. Những
chân lý Phật dạy, những
lời nói từ bi của Ngài mà đem nói với những hạng người hung dữ không có một chút căn lành ấy thật chẳng có
hiệu quả gì.
Đây là lần đầu tiên
La Hầu La đem việc
tu hành và
ý nghĩ của mình bày tỏ với
sư phụ.
Xá Lợi Phất nghe xong rất
hoan hỷ rồi đem những lời của
La Hầu La về bạch lại với Phật. Phật cũng rất
an lòng, khen
La Hầu La ngày nay
rất ngoan. Đối với người hung ác thì nên có
thái độ như thế và Phật lại dạy thêm:
- Người không biết nhẫn sẽ không tiếp thọ được
Phật pháp, giận đời oán người là điều
trái với pháp
thì thường
luân hồi trong đường ác. Hạnh
nhẫn nhục mới là hạnh
an ổn và mới có thể
tiêu trừ tai nạn. Người
trí huệ thấy được
nhân quả sâu xa
để khắc phục tâm
sân hận mà
tu pháp nhẫn nại.
Tinh thần của
Phật pháp và chân nghĩa của
Phật pháp thì không giống như lối nhìn của người đời.
Những
gì thế gian cho là cao quý thì
Phật pháp cho là hạ tiện, còn
Phật pháp cho là tốt, là phải thì người đời không chịu làm theo. Thói thường thì trung không
ưa nịnh, tà chẳng thích chánh, ác không thích đi
chung với thiện. Người
tham dục thì ghét người vô dục. Trong
tình cảnh
ấy, người
tu hành chỉ còn một cách là
tu nhẫn nại. Nhẫn nại là duyên
trợ đạo tốt nhất, có thể khiến người tu mau chóng
thành thánh quả. Nhẫn
như chiếc thuyền bè trên sông biển có thể
vượt qua mọi
sóng gió. Nhẫn là liều thuốc nhiệm mầu
cứu mạng con người trong cơn nguy khốn, tu
thành chánh giác,
vượt qua ba cõi và được người trời kính ngưỡng. Đó là
những sự
quý báu của đức nhẫn nại.
Do
nhân duyên La Hầu La bị kẻ côn đồ
vô cớ hành hung lỗ đầu mà trong lúc
tuổi trẻ bồng bột lại có thể nhẫn nhịn như một ông thánh khiến
sư phụ rất
an tâm.
Đức Phật cũng
mừng thầm mà thuyết đoạn pháp trên.
Xá Lợi Phất nghe xong
vô cùng cảm động.
La Hầu La cũng
rơi lệ và lại càng cảm kích thêm.
Chứng
Thánh Quả
La Hầu La đối với chuyện bị chiếm phòng mà tự nguyện nhường cho và trên
đường đi bị kẻ khác đánh
trọng thương mà có thể nhẫn được thì đoạn đường đi đến
khai ngộ thật chẳng còn xa.
La Hầu La thông minh khéo léo và
tinh tấn tu hành. Lúc còn nhỏ làm
Sa di thì chỉ thích chọc ghẹo
thiên hạ gây điều
phiền não thế mà xuân hạ thu đông qua mau, nay
La
Hầu La vừa đúng 20 tuổi với dáng
uy nghiêm của một vị
sa môn. Sự
trưởng thành về
đạo đức và phát triển về
trí tuệ đã làm cho Phật
hài lòng và chính
Đức Thế Tôn cho phép La hầu La được
thọ giới tỳ kheo.
Tuy tuổi còn trẻ, nhưng
La Hầu La đạo mạo như một người lão thành. Đối
với những cuộc nhóm hợp đông đảo trong
sinh hoạt của
tăng đoàn thì
La hầu La ít khi tham dự mà chỉ dùng
thì giờ để
dụng công tu tập mà thôi.
Cho dù
La Hầu La dụng công chuyên cần tu tập mà vẫn chưa
khai ngộ.
Nguyên nhân chính là vì
La Hầu La chưa quên được cái
vinh dự lớn của mình, cái nầy nhà Phật gọi là tự ngã. Vì
xuất thân là cháu vua
Tịnh Phạn
và lại là con của Phật nên ai ai cũng đều
ái mộ và khen ngợi ông ta. Tai được nghe luôn những
lời khen tặng thì vị
tu hành trẻ tuổi nầy rất dễ động tâm. Thật vậy những
ngôn từ hoa mỹ chẳng khác nào như
ác quỷ ma vương đã khiến cho
La Hầu La dụng công tinh tấn đến đâu cũng không
đạt được quả vị.
Thậm chí có nhiều vị
tỳ kheo đã hỏi Phật về chuyện
khai ngộ của
La hầu La:
- Bạch Thế Tôn!
Tỳ kheo La Hầu La nghiêm
trì giới luật,
tinh tấn tu hành, không phạm một lỗi nhỏ. Vì muốn
khai ngộ,
La Hầu La đã tận tình buông sạch
vậy mà tại sao
tỳ kheo vẫn chưa trừ hết
phiền não và
giải thoát hoàn toàn?
Đức Thế Tôn trả lời một cách
chắc chắn rằng:
-
Giữ giới tịnh tâm, giữ thân đoan chánh thì
nhất định có thể dứt sạch
ô
nhiễm và
nhất định sẽ được
chứng quả.
Đối với việc
La Hầu La chưa
khai ngộ thì
Đức Phật không mấy bận lòng bởi vì Ngài đã
hoàn toàn tin tưởng vào
đức độ của con mình và biết chắc ngày đó sẽ đến.
Mấy
phen dường như
khai ngộ mà vẫn chưa
khai ngộ,
La hầu La bèn đem chỗ
tâm đắc của mình mà bạch với Phật. Phật dạy
La Hầu La từ đây về sau nên
thường cùng bạn bè
đàm luận về
đạo lý ngũ uẩn hòa hợp và tự mình nên
tư duy về
ngã mạn,
vô ngã,
vô pháp cùng các pháp khổ,
pháp vui.
Một
ngày nọ, vào sáng sớm,
Đức Phật cùng với
La Hầu La cùng đi ra khỏi
tịnh xá Kỳ Viên để vào thành
Xá Vệ khất thực. Trên đường đi, Phật quay lại bảo
La Hầu La:
-
La Hầu La! Ông hãy
quan sát sắc
vô thường,
thọ tưởng hành thức cũng
vô thường. Ông xem
thân tâm của
mọi người và tất cả sự vật trên
thế gian đều nên khởi quán
vô thường và không nên
chấp trước.
La Hầu La nghe vài câu
đơn giản như thế
tự nhiên tâm địa sáng tỏ. Tức thì
tôn giả cáo biệt Phật, ngưng việc
khất thực và
trở về tịnh xá để
ngồi kiết già mà
tận tâm suy nghĩ về
ý nghĩa thâm thúy của những lời Phật vừa mới dạy.
Tôn giả lại dùng
từ bi quán trừ tâm
sân hận, dùng
bất tịnh quán trừ tâm
tham dục, dùng sổ túc quán trừ
tâm tán loạn, dùng
trí huệ đối với
ngu si.
Tôn giả
vào sâu trong
thiền định và
cơ duyên đã chín mùi,
tôn giả khai ngộ ngay hôm ấy.
Đức Phật khất thực trở về đến chỗ
La Hầu La đang
tọa thiền, lại chỉ dạy thêm:
- Nên
dùng sức đồng thể đại bi,
lòng từ vô duyên để đối xử với người và sự việc.
Tâm lượng rổng rang có thể
dung nạp tất cả
chúng sanh, mới có
thể diệt ác, đếm
hơi thở quán tâm thì có
thể đạt được giải thoát.
La Hầu La từ tòa
đứng dậy,
đảnh lễ Phật thưa:
- Bạch Thế Tôn!
Phiền não con đã hết, con đã
chứng ngộ xong.
Đức Phật rất
hoan hỷ còn hơn sự
hoan hỷ của
La Hầu La, Ngài khen ngợi:
- Trong các
đệ tử ta,
tỳ kheo La Hầu La là
Mật hạnh đệ nhất.
Mật hạnh có nghĩa là trong
ba ngàn oai nghi, tám muôn
tế hạnh La Hầu La đều biết và đều có thể làm hết.
Nghĩ
đến thuở
ban đầu,
La Hầu La theo Phật để xin
gia tài thì ngày nay,
tôn
giả đã
chứng ngộ tức là đã được Phật trao cho
pháp tài vô tận.
Ngày xưa lúc còn là
Sa di nhỏ tuổi mới vào
tăng đoàn đã làm bận lòng
Đức Phật bao nhiêu thì ngày nay
tôn giả đã
xa lìa mọi
dục lạc trên
thế gian
và
đạt được niềm vui chơn chánh của pháp mầu. Đây
quả thật là một
thí dụ quý báu cho tất cả
chúng sinh trong khi
tu đạo. Cái tự ngã
chính thật là
kẻ thù số một của chính mình vì nếu muốn được
đạo quả viên thành thì phải tự
quên mình mà chỉ nghĩ đến tất cả
chúng sinh mà thôi. Thật vậy
hạnh phúc lớn nhất trên
thế gian nầy là làm cho người được
hạnh phúc và đây chính là
thực hành đúng đắn nhất về
lòng từ bi của
chúng ta.
Nhập DiệtThời
Đức Phật còn
tại thế thì có những nhân vật oanh liệt như
Xá Lợi Phất,
Mục Kiền Liên,
Đại Ca
Diếp,
Ca Chiên Diên, Phú Lâu Na…còn
La Hầu La thì không thấy
tôn giả có những
câu chuyện hoằng dương
đạo pháp phi thường gì cả. Thật ra một người nghiêm túc trong
mật hạnh trì giới thì chỉ muốn
im lặng tu tập và
im lặng không
tranh đua với
thế gian. Có
quan niệm cho rằng vì
tôn giả
có
liên hệ huyết thống với
Đức Thế Tôn nên Ngài
đặc biệt hạn chế sự giáo hóa của
tôn giả. Nhưng nếu nhìn kỹ lại thì
con người của
La Hầu La
có
tư cách nhu thuận, bẩm chất kiên cường, nhưng trong
sinh hoạt của một vị
tỳ kheo thì
tôn giả không phải là một người sôi nổi.
Trong kinh sử của
Phật giáo không thấy ghi lại những
sự tích thuyết pháp hay nghị luận với
ngoại đạo của
tôn giả. Quả như lời
Đức Phật đã nói thì
tôn giả là một người nghiêm túc trong
tế hạnh, trong
giới luật và xứng đáng là vị đệ nhất
mật hạnh.
La Hầu La nhập diệt khi nào
cũng như năm tháng đản sanh của
tôn giả thì không được kinh sách ghi
rõ ràng. Thật ra
Ấn Độ là một nước không mấy chú trọng về
lịch sử, còn Trung Hoa thì các nhà
phiên dịch thường hay phóng đại cũng như tưởng tượng huyền hoặc. Vì
thế sự tích về
cuộc đời Đức Thế Tôn và các vị thánh
đệ tử được ghi chép trong
kinh điển thì ít hay nhiều cũng có phần
thêm bớt.
Căn
cứ theo ký sử có thể khảo cứu qua
kinh điển thì
tỳ
kheo ni Da Du Đà La, tức là
mẫu thân của
tôn giả La Hầu La,
nhập diệt vào năm 78 tuổi và
La Hầu La nhập diệt được kể là sớm hơn.
Vào một buổi chiều,
tỳ kheo ni Da Du Đà La đã suy tư đến rất nhiều việc. Bà nghĩ đến các vị như
Ma Ha Ba Xa Ba,
Liên Hoa Sắc và ngay cả
La Hầu La đều đã
nhập diệt. Bà và
Đức Phật cùng một tuổi và
Đức Thế Tôn thì sẽ
nhập diệt hai năm nữa tức là khi
Đức Phật được 80 tuổi. Nghĩ đến chuyện
nhập diệt cùng một lúc với
Đức Phật là một điều bất kính mặc dù
hiện tại bà ta đối với
Đức Phật chỉ có Pháp tình mà không có tình riêng gì khác. Sau cùng bà
quyết định nhập diệt sớm là tốt nhất.
Tỳ kheo ni Da Du Đà La được
Đức Phật chuẩn ý thì hướng về
Đức Thế Tôn đảnh lễ cảm tạ rồi hiện
thần thông bay lên
hư không mà đi. Chính trong đêm hôm đó bà ở trong phòng chủ động mà
nhập diệt.
Căn cứ vào ký sử
nhập
diệt của
tỳ kheo ni Da Du Đà La thì
La Hầu La đã
nhập diệt trước cả bà
và
Đức Phật. Nếu
dựa vào đó thì
tôn giả La Hầu La không thọ quá 60 tuổi.
Hay nói một cách
đại khái là
tôn giả chỉ sống trên năm mươi năm là cùng. Đương nhiên, đối với một vị thánh thì xem cái chết dù sớm hay muộn là chuyện thường tình. Đến lúc phải bỏ cái
sắc thân hư huyển giả tạo nầy và thoát ra khỏi cảnh
sanh tử luân hồi thì không có gì là buồn mà ngược lại đó là một
hạnh phúc.
La Hầu La vào năm 20 tuổi đã
khai ngộ chứng quả A La Hán vì thế cái
mục đích tối hậu của
đời người tôn giả đã
đạt được thì khi
nhập diệt nhất định là Ngài sẽ
an nhiên tự tại mà ra đi về cõi thánh.