THANH TINH TÂM
Lê Sỹ Minh Tùng
Nghiệp có thể chuyển được chăng?
Con người từ trong
quá khứ đã tạo biết bao
Nghiệp Báo, mà cứ mỗi nghiệp chính là một nét vẽ, một vết mực điểm tô
dần dần để
hoàn thành bức tranh cho
cuộc đời của họ ở
đời sau. Một
lời nói thiện vừa thốt ra thì
lập tức một niềm vui đã hình thành và ngược lại, một
hành vi ác vừa
thực hiện xong thì Luật
Nghiệp Quả vô hình cũng
lập tức kiến tạo một nỗi khổ để
sắp đặt cho họ phải
thọ lãnh ở
đời sau. Do đó bao nhiêu
hạnh phúc, khổ đau,
cay đắng hay
vinh quang đều đã được hình thành xong từ
kiếp trước.
Như vậy khi
con người vừa mới kết tinh vào noãn bào của người mẹ thì hài nhi đã
cưu mang một
định mệnh do chính nó tạo ra từ
kiếp trước. Vâng, cái
định mệnh vô hình nầy sẽ
quyết định mọi thưởng phạt cho
cuộc đời của nó khi nó lớn lên. Nhưng đây là một
định mệnh không do
thần linh áp
đặt mà do chính nó tự tạo lấy cho mình. Vậy
con người có thể thay đổi được cái
định mệnh nầy không? Hay là với những nghiệp đã hình thành,
con người bị
sức mạnh của nghiệp cuốn trôi khó mà chống lại?
Để
trả lời nghi vấn nầy, trong
kinh A Hàm, Phật có dạy:
- Người gây nhân
bất thiện, dù đời trước hay sau, nếu họ biết
tu tâm,
tu
thân và tu giới thì quả sẽ đổi thay. Còn nếu người gây nhân
bất thiện mà không biết
tu tâm,
tu thân và tu giới thì gây nhân nào sẽ thọ quả nấy. Đó là nhân nào quả nấy và nếu gây nhân mà biết chuyển nghiệp thì quả cũng đổi thay.
Chính
Đức Phật đã cho
chúng ta một
nhận định rõ ràng về cuộc sống để
chúng ta không còn bận tâm về sự
may rủi thành bại trong đời. Nhưng làm thế nào để chuyển nghiệp?
Tâm hồn của
chúng ta đã
tích lũy biết bao khuynh
hướng vị kỷ,
tham lam, thù hận,
đố
kỵ, hơn thua…từ bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp. Vì
chúng nó là
Ý nghiệp của đời
quá khứ nên đời
hiện tại tất cả những khuynh hướng
bất thiện nầy
thúc đẩy chúng ta tiếp tục tạo tác những
hành vi bất thiện để đưa
chúng ta mãi mãi vào
con đường tối tăm tội lỗi. Vậy muốn chuyển nghiệp
chúng ta phải
cố gắng chuyển hóa nội tâm của mình trước đã, rồi hành động và
hoàn cảnh sẽ
dần dần thay đổi
theo sau.
Trong
xã hội có nhiều người
nhận thấy cuộc đời của họ không được
may mắn, khổ nhiều hơn
vui và thường gặp cảnh trái ý nghịch lòng. Vì tin sâu vào luật
Nghiệp Quả nên họ
công nhận rằng
trong đời quá khứ họ ít làm việc phước mà tạo quá nhiều
nghiệp bất thiện. Vì khao khát muốn chuyển nghiệp, họ
đi chùa cầu nguyện sự
gia bị của
thần thánh. Họ
cúng dường một mà muốn hưởng
phước đức tới mười. Họ cũng
chịu khó làm những
việc thiện khác, nhưng
nội tâm tham lam,
ích kỷ vẫn còn nguyên vẹn. Đối với họ thì làm
việc thiện vì muốn
quả báo tốt cho chính họ chứ không phải
tình thương chân thật đối với
con người. Chính họ đã xây lâu đài
phước thiện trên bãi cát vì nó không
xuất phát từ
nội tâm thuần thiện nào cả. Theo luật
Nghiệp Quả thì
đời sau họ sẽ gặp nhiều
may mắn, nhưng trong họ
bản chất
tham lam,
ích kỷ vẫn còn và chính
bản chất tham lam ích kỷ nầy sẽ
thúc
đẩy họ làm các
việc bất thiện khác.
Vậy
tu tâm hay
chuyển hóa nội tâm là
cố gắng loại bỏ cho được lòng
tham lam, tính
sân hận và tật si mê…Tham thì có nội tham như tham ăn, tham uống, tham mặc, tham sống lâu…và ngoại tham như
tham tiền, tham sắc,
tham danh, tham lợi…Ăn thì lúc nào cũng
muốn ăn ngon, ăn no đủ, còn ngủ thì phải ngủ cho đủ giấc, hay nệm ấm gường êm… Ai đụng đến chút
tự ái là
nổi điên và hễ thấy vật đẹp, cao quý thì muốn chiếm lấy. Đây là tâm trạng chung của
con người vì tham, sân, si đã
ăn sâu vào trong
tiềm thức của
chúng ta từ bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp. Do đó
chuyển hóa nội tâm là phải
can đảm từ bỏ cho được tham, sân, si
để tâm được
sáng suốt. Một khi tâm được
sáng suốt thì
thân khẩu ý trở thành thanh tịnh và
dĩ nhiên con người sẽ không còn tạo nghiệp nữa.
Phật dạy
tu thân là thân nầy không làm
điều ác dù lớn hay nhỏ đều phải tránh xa. Còn điều thiện thì phải
cố gắng hoàn thành. Còn tu giới là người
Phật tử phải giữ tròn
ngũ giới, đó là không được
sát sanh, không được trộm cướp, không được
vọng ngữ, không được uống rượu và không được
tà dâm. Tuy nói
tu tâm,
tu thân và tu giới nhưng chủ yếu vẫn là
tu tâm. Nếu
chúng sinh tu tâm được
viên mãn thì mọi
nghiệp chướng không còn do đó
nghiệp khổ sẽ
chấm dứt và
cuộc đời sẽ được an vui tự tai.
Đức Phật dạy
nguyên nhân của mọi
đau khổ là
vô minh và
ái dục,
hay nói một cách khác chính lòng
tham lam,
sân hận,
si mê là nguồn gốc của mọi
tranh chấp, oan trái để rồi đem đến những sự
lo âu sầu muộn và
bất mãn.
Con đường chuyển hóa nội tâm thiết thực là
chúng ta phải biết giữ mình theo Giới, Định, Huệ để có
thể diệt trừ tham, sân, si thì
đời sống sẽ được
tự tại bởi vì tham thì có thể
phá giới, sân thì có thể phá định, còn si thì có thể phá tuệ.
Một số người nói rằng
điều kiện của
một đời sống
hạnh phúc là có
sức khỏe, có tiền tài và có
địa vị trong
xã hội, nhưng
một đời sống
hạnh phúc chân thật chưa chắc đã
hoàn toàn dựa vào những
điều kiện
vật chất như thế. Chẳng hạn như một người
mạnh khỏe lại
dùng sức mạnh của mình làm những điều
tội lỗi thì chẳng được
ích lợi gì. Còn người
giàu sang mà sống
bỏn xẻn,
ích kỷ,
tham lam vô độ thì chính họ chẳng tìm được
hạnh phúc cho chính mình mà còn làm hại đến kẻ khác. Người có
địa vị lại
lạm dụng quyền hành thì chỉ rước thêm oan trái oán thù mà thôi. Như thế thì tiền
tài danh vọng chưa phải là
yếu tố chính cho
một đời sống
hạnh phúc mà
điều kiện tiên quyết để đem lại an vui là phải có
tinh thần sáng suốt và
lành mạnh. Được
tinh thần sáng suốt lành mạnh nầy thì sẽ không còn bị
dục lạc, oán thù hay mê loạn
chi phối. Vì thế Phật lại dạy rằng:
- Người
tùy theo thế tình thức là
chạy theo tham
cầu danh vọng. Khi được
công danh hiển đạt, thì
thân thể đã già yếu. Kẻ
tham danh lợi ở đời mà không lo
học đạo thì chỉ
uổng công nhọc xác mà thôi.
Ví như cây hương đốt, khi được người ta ngửi thấy
mùi thơm
thì thân hương đã
hóa thành tro bụi, vì lửa nung đốt cháy liền thân hương vậy.
Mặc dù
tôn chỉ của
đạo Phật là giúp
chúng sinh chứng ngộ Niết Bàn, nhưng phát huy
lòng từ bi, có nghĩa là đem vui
cứu khổ, vẫn là
cứu cánh để
chúng sanh đạt được tâm thanh tịnh. Bởi vì nếu trong
hiện tại tâm
chúng ta được
thanh tịnh, không còn
phiền não khổ đau thì đây chính là
Niết Bàn trong cuộc sống nầy vậy.
Thật vậy,
mục đích của
đạo Phật là không dùng những triết lý hay
phương pháp tạm bợ để giúp
con người khai trừ những khổ đau
hệ lụy trong
nhất thời mà
mục đích của
đạo Phật là giúp
con người giải thoát hoàn toàn ra khỏi mọi
nô
lệ của
phiền não và khổ đau.
Muốn
chuyển hóa nội tâm được
chu toàn thì trước hết
chúng ta phải phá tan cái
bản ngã của mình. Trong
kinh A Hàm, Phật dạy rằng một khi
chúng ta
chứng được “ngã không” nên khi làm việc
lợi ích cho người thì làm với một
tâm niệm vô tư, không dính mắc. Có nghĩa là khi làm
việc thiện thì đừng nghĩ đến
lợi lạc cho mình mà hướng tâm về sự
lợi lạc cho
chúng sanh do đó
việc thiện đó sẽ mang nhiều
thiện quả về sau. Ví dụ như khi
chúng ta đi chùa lạy Phật thì
thường hay cúng dường chút ít tiền hay
hoa quả, nhưng khi
bái Phật thì
chúng ta thường
cầu nguyện cho con trai
có vợ đẹp, con gái có chồng
giàu sang, làm ăn mua may bán đắt,
bà con thân quyến được
bình an mạnh giỏi…Như vậy
chúng ta đi chùa với
tinh thần bản ngã là
cầu lợi cho mình nên không đúng với
lời Phật dạy.
Mục đích tới chùa
lạy Phật là để bớt tham mà
chúng ta đi chùa lạy Phật mà lại càng tham hơn thì một ngày nào đó cái
bản ngã mê lầm của
chúng ta sẽ biến
đạo Phật thành ra
mê tín di đoan. Vì thế
chúng ta nên làm việc
phước đức với lòng
vô ngã, tức là làm
việc thiện mà không cần
quả báo cho mình hay hướng
lòng từ bi về người khác, thì
Luật Nhân Quả chẳng những sẽ
đền bù cho ta nhiều
phước đức ở
đời sau mà còn tạo cho ta một nhân cách cao thượng và một
tâm hồn trong sáng để
tiếp tục hưởng
phước thiện và làm
việc thiện.
Chúng ta quỳ dưới chân
Đức Phật, đầu ta
cúi
sát đất để
biểu lộ rằng
chúng ta vô cùng nhỏ bé kém cỏi, còn
Đức Thế Tôn thì
vòi vọi như núi cao biển rộng. Trong giây phút
thiêng liêng
đó, cái
ngã mạn tự cao âm thầm bên trong bị lay động
dữ dội bởi vì
chúng ta ý thức được sự
thấp kém của mình bởi
trước mắt chúng ta là
đấng cao cả sáng chói như
ánh mặt trời rực rỡ. Thông thường, do lòng
đố
kỵ và
ích kỷ,
chúng ta ít chịu
chấp nhận cái hay của người khác vì người khác
nổi bật sẽ làm
chúng ta bị
lu mờ.
Chúng ta thờ ơ trước những
ưu điểm của kẻ khác và
vui mừng khi
tìm thấy khuyết điểm của người vì người
lu mờ thì ta sẽ
nổi bật. Do tâm
vị kỷ chúng ta dễ dàng rơi vào cạm bẩy “tán kỷ, hủy tha”, tức là chê người, khen mình. Đây là cội nguồn phát sinh ra
phiền não và tạo nghiệp cũng
tại vì cái
ngã mạn mà thôi. Phải đổi tính
vị kỷ nầy bằng
tinh thần vị tha thì cuộc sống sẽ an
vui
tự tại. Thấy họ giỏi thì khen, thấy họ giàu thì mừng, thấy họ khổ thì giúp đỡ thì
tâm không còn
phiền não và
lòng từ bi
xuất hiện để giúp
chúng ta tạo thêm
thiện nghiệp.
Giáo lý đạo Phật là giúp
con người tẩy
trừ phiền não để tâm được
thanh tịnh. Tâm có
thanh tịnh thì
trí tuệ mới phát sinh để giúp
chúng sinh đi
thong dong trong
con đường chánh đạo. Mà gốc của
phiền não chính là tham, sân, si. Ví dụ có người khoe rằng vì nhờ
tu thiền hay
niệm Phật nên có thể xuất hồn đi
ngao du khắp
thế giới hay gặp được Phật và Bồ Tát…Ngày xưa trong số
đại đệ tử của Phật không ai giỏi
thần thông bằng
tôn giả Mục Kiền Liên, nhưng
thần thông đâu có
thắng nghiệp lực cho nên chính
tôn giả cũng phải bị bọn
ngoại đạo lăn đá đến chết. Do đó
chúng ta không
quan tâm đến chuyện
xuất hồn đi
ngao du sơn thủy bởi vì nếu
phiền não chưa dứt thì dù có
ngao du ở đâu rồi cũng phải
trở về trần gian để
thọ lãnh quả báo đau khổ như thường.
Do đó người
tu Phật không cần
phép mầu cao siêu huyền bí, mà điều
căn bản là phải tự
xét mình để thấy rằng thân làm, khẩu nói và
ý tưởng suy nghĩ của mình có hợp với
Phật pháp hay không? Nói một cách khác khi
đối diện với
ngoại cảnh thì
chúng ta luôn luôn tự
hỏi nếu việc đó Phật và
Bồ Tát có làm thì
chúng ta làm, còn nếu họ không làm thì
chúng ta đừng nghĩ tới. Không làm điều ác tức là không gây nghiệp, mà không tạo nghiệp thì khỏi lo
đau khổ và chặt đứt dây
luân hồi.
Chuyển nghiệp có nghĩa là chuyên làm
việc thiện và tránh xa điều ác. Nhưng muốn
thực hiện hiệu quả điều nầy thì tâm của
chúng ta phải
bền vững kiên trì để không
chạy theo ngoại cảnh ngay cả tám thứ gió
phong trần cũng không lung lay thay đổi được. Tám gió đó là:
1)Khi có nhiều
tiền của, hoặc do mình làm ra, hoặc được biếu tặng, tâm có
vui mừng chăng?
2)Đang có
tiền của mà làm ăn lỗ lã, hay bị trộm cướp, hoặc
oan gia phá tan, tâm có buồn chăng?
3)Người
vô cớ làm nhục, tâm có buồn tức chăng?
4)Được
danh tiếng tốt đồn khắp
xa gần có thấy
hài lòng không?
5)Được khen tâm có thấy vui chăng?
6)Bị chê
trước mặt hay sau lưng, lòng có buồn chăng?
7)Gặp cảnh khốn khổ, thiếu ăn thiếu mặc, nhà cửa hư hại, có thấy nao lòng chăng?
8)Gặp cảnh thật vui, thật
sung sướng, lòng có tham đắm chăng?
Nếu
tám thứ gió nầy thổi đến mà tâm
chúng ta như như bất động, đó là
đắc đạo, là
thành chánh quả. Nhưng
chúng ta là
phàm phu chớ không phải
thánh
nhân do đó nếu muốn tâm mình được
như như bất động thì nên
cố gắng theo
thời gian đánh tan từng ngọn gió một thì
chắc chắn một ngày nào đó
tâm của
chúng ta sẽ được
thanh tịnh, có nghĩa là
đạt được cảm ứng ngoại bất
chấp tướng nội
bất động tâm. Ví dụ như
hiện tại chúng ta đang
bị giặc bên trong
nổi loạn và giặc bên ngoài bao vây. Trước hết phải chận giặc bên ngoài, tức là đừng cho
lục trần quyến rũ mê hoặc chúng ta, rồi sau đó vận dụng
trí tuệ để dẹp giặc bên trong, tức là đừng để
lục căn bị sức
lôi cuốn của
dục vọng từ bên ngoài.
Chúng ta đóng sáu cửa thành bên trong lại, tức là
kiềm chế kiểm soát lục căn của mình đừng để cho nó
chạy theo ngũ dục lục tình, thì giặc bên ngoài không có nội ứng mà tiến vào bên trong được. Khi giặc trong ngoài biến mất thì
chúng ta mặc tình
ung dung tự tại để tìm lại cuộc sống an vui và
hạnh phúc. Vì mỗi người
chúng ta đều có
thể tánh bất sanh bất diệt gọi là
chơn như hay
Phật tánh.
Lý do mà
chúng ta không
sáng suốt là vì cái
Phật tánh nầy bị
các chủng tử
nhiễm tịnh che lấp làm cho
vọng tưởng khởi dậy
liên miên. Càng bớt nhiều
vọng tưởng thì càng dễ dàng khôi phục cái
Phật tánh nầy
để tâm trở thành thanh tịnh.
Thời nay người tu không
quan tâm đến việc
chứng ngộ bản tâm thanh tịnh của mình để loại
trừ phiền não.Thậm chí có người lấy thời khóa
tụng kinh làm
sự
nghiệp tu hành. Khi Phật còn
tại thế, chính
Đức Phật và các vị
đại đệ tử A La Hán chỉ
tọa thiền chứ không có
tụng kinh. Sau khi
Đức Phật nhập
diệt, chư Tổ dạy ra sự
tụng kinh là muốn mượn
phương tiện cho
Phật tử kiềm chế vọng tưởng của họ. Trong khi
tụng kinh, tay gỏ mõ, tay đánh chuông, ý duyên vào lời kinh thì
thân khẩu ý được
thanh tịnh. Nếu
tụng kinh được nửa giờ thì được
thanh tịnh nửa giờ…Nhưng người tu không
tụng
kinh với
chủ ý ấy mà lấy sự
tụng niệm làm
sự nghiệp.
Cả đời tu thì sáng một thời
công phu, chiều một thời
tịnh độ, còn bày ra
cầu an cầu siêu, loanh qoanh lẩn quẩn. Tâm mình thì chất đầy
phiền não,
vọng tưởng
mà lại đi
cầu an cho người. Chính mình không siêu nổi cho mình thì làm
sao mà siêu cho kẻ khác được. Muốn siêu thì tâm phải
thanh tịnh,
tinh khiết có nghĩa là không còn tham, sân, si,
ái dục, do đó tự mình đã không mang
lợi ích gì cho mình mà còn hướng dẫn người đi
sai lầm nữa. Thật là đáng
thương xót.
Tụng kinh là việc tốt, là
việc thiện, chỉ có việc không tốt là không hiểu được ý kinh để
áp dụng tu hành. Nếu biết nương theo kinh để thấy được tánh giác của mình là
chánh tín và nếu biết nương theo kinh để cho
thân khẩu ý được
thanh tịnh là
chánh đạo.
Kinh
Phật có câu:”Bồ Tát sợ nhân,
chúng sanh sợ quả” cho nên một khi
chúng ta gây ra một
nghiệp căn nào thì nó sẽ
tồn tại mãi mãi cho đến khi hội đủ
nhân duyên thì nó sẽ thành cái quả và đó là kết quả của mọi sự khổ vui của
chúng ta trong đời nầy. Nhưng nếu
chúng ta muốn chuyển nghiệp thì phải
cố gắng làm việc tốt,
việc thiện thì
nhân duyên xấu không có cơ hội kết cấu với
nghiệp bất thiện để
biến thành quả xấu mà tạo cảnh khổ cho
chúng ta. Vì thế muốn chuyển nghiệp
viên mãn là phải
tùy duyên để tiêu nghiệp cũ bằng cách không được gây thêm nghiệp mới. Bởi vậy
cổ nhân mới có câu:
Tùy duyên tiêu cựu nghiệp
Thiết mạt tạo tân ương.
Phật lại dạy rằng:
-
Quan sát tứ đại trong thân nầy, mỗi cái đều có tên riêng như đất, nước, gió, lửa, thì không có cái nào có tên là cái ta cả. Cái ta cũng không có thì thân nầy cũng
giả dối,
không thật.
Thêm nữa, trong kinh
Tăng Nhất A Hàm,
Đức phật cũng phân tích
rõ ràng là trong thân người ta có ba trăm sáu mươi lóng xương, năm trăm mạch máu, năm trăm sợi gân, chín mươi ngàn lỗ chân lông và tám mươi ngàn hộ trùng.
Nếu
quan sát kỹ,
chúng ta thấy
rõ ràng không có gì là ta và của ta cả. Chẳng hạn như khi nhìn một ngón tay thì
chúng ta thấy nó dài thon và đẹp, nhưng khi nhìn
xuyên qua lớp da bọc ngoài thì thấy các lóng xương được cột lại bởi các sợi dây gân, chung quanh bọc một mớ thịt bầy nhầy và bên ngoài được phủ lên bởi một lớp da. Khi nhìn thì
chúng ta chỉ nhìn giả tướng
bề ngoài chớ không chịu nhìn cái thật thể của nó.
Đáng lẽ bác sĩ phải là những kẻ
giác ngộ hơn ai hết vì hàng ngày họ được nhìn rất tường tận biết bao nhiêu
thân thể của bệnh nhân. Nhưng họ đâu có thấy
thân thể là
bất tịnh, là giả tạo nên họ cũng như bao nhiêu người khác vẫn còn đắm say
sắc dục và
dĩ nhiên phải chịu khổ đau như
mọi người.
Vì
chúng sinh không chịu
quán chiếu để thấu rõ sự
giả
dối của vật thể mà
mù quáng chạy theo ái dục để tạo nghiệp nên khi nói
về
Lý Không của sự
thọ dụng,
Đức Phật có dạy rằng:
- Tất cả sự
thọ dụng tức là Không. Như
thọ dụng bao nhiêu món
ăn ngon, lúc buông đũa rồi tức là Không, khi đi ra ngoài nhiều người theo hầu, đến lúc
tới nơi không còn ai hầu nữa tức là Không. Cả ngày ham đi chơi bời
phóng túng, nhưng lúc về nhà rồi tức là Không.
Thật vậy, nếu
chúng ta làm
việc lành đã xong thì sự mệt nhọc kia
chấm dứt, tức là Không, nhưng
nghiệp lành vẫn còn đó. Làm việc ác thì
cũng thế, lúc ai làm ta tức giận,
chúng ta chửi mắng họ cho
thỏa lòng. Khi mắng xong tức
là Không, nhưng
nghiệp ác khẩu vẫn còn. Do đó, khi
đối diện với việc ác thì đừng tưởng làm rồi là Không, mà
nghiệp ác đeo đuổi
đời đời kiếp kiếp là Có.
Vậy chuyển nghiệp là
cố gắng giải thoát cái
bản ngã vị kỷ thấp hèn để có
một đời sống
đạo đức xả kỷ,
quên mình để sống
trọn vẹn vì
mọi người chung quanh.
Đời sống xả kỷ
vị tha được coi là một
đức hạnh cao đẹp nhất của
con người. Cho dù
chúng ta chưa chứng được
trạng thái vô ngã thực sự, nhưng từng giây từng phút, từng
tâm niệm,
chúng ta biết
từ bỏ những
lợi ích của mình để lo cho
lợi ích của
mọi người thì cái tự ngã đang từ từ bị
tiêu diệt.
Thật vậy,
đạo Phật có mặt để đem
lợi ích cho
cuộc đời, chớ không phải để
cuộc đời đem
lợi ích lại cho
đạo Phật.
Do
đó một
Phật tử chân chính là người
thấm nhuần giáo lý Đức Phật, rồi sau đó quay lại sống với
mọi người bằng
lòng từ bi
vô ngã.
Phật pháp là
con đường để sống, là ánh
sáng trí tuệ hướng dẫn
mọi người sống đúng với
chân lý và
chắc chắn sẽ mang lại an vui
tự tại cho mình và cho tất cả
mọi người.
Ở Trung Hoa đời nhà Đường có nhà thơ rất
nổi tiếng
là Lý Bạch. Vì nghe danh
Thiền Sư Ô Sào là một
cao tăng đắc đạo nên tìm tới
tham vấn. Ô Sào có nghĩa là con quạ đen vì
thiền sư thích ngồi trên cháng ba của một cây
cổ thụ trên
một nắm cỏ giống như một ổ quạ nên từ đó người đời gọi Ngài là
Thiền Sư Ô Sào.
Nhà thơ Lý Bạch đứng
dưới đất nhìn lên hỏi:
- Bạch
Hòa thượng, xin
Hòa Thượng dạy cho tôi một
phương pháp tu ngắn và gọn để tôi có thể tu được.
Thiền Sư Ô Sào ở trên nói xuống:
Chư ác mạc tácChứng thiện
phụng hànhTự tịnh kỳ ý
Thị chư
Phật giáoCó nghĩa là:
Tất cả các
nghiệp ác chớ có làm
Nên làm tất cả các
việc lànhCố gắng làm cho tâm ý được
thanh tịnhĐó là lời dạy của chư Phật.
Lý Bạch nghe qua, cười và nói:
-
Hòa Thượng nói
bài kệ đó con nít tám tuổi cũng thuộc lòng, vậy
Hòa Thượng đem dạy tôi để làm gì?
Thiền Sư Ô Sào nói:
- Ông
nói đúng, con nít tám tuổi cũng thuộc nhưng ông già tám mươi tuổi làm cũng chưa xong.
Tuy
đạo Phật là đạo ban vui
cứu khổ, nhưng
con người phải
sáng suốt để chọn
con đường sống cho mình.
Con đường thiện
mang đến sự
an lạc,
hạnh phúc và ngược lại
con đường ác dẫn đến sự
phiền não, khổ đau. Cốt tủy của
đạo Phật vẫn là
tâm thanh tịnh để
gạn lọc tham, sân, si,
phiền não cho mình trước, rồi mới trải lòng thương giúp đỡ cho người, làm cho
mọi
người được an vui
hạnh phúc. Khi xưa
chúng ta làm
việc thiện với
hy vọng quả báo tốt ngày sau cho mình thì
dĩ nhiên kiếp sau chúng ta sẽ được hưởng phước báu nhưng tâm vẫn còn nặng tính
tham lam,
ích kỷ để dẫn dắt chúng
trở lại làm việc ác. Ngày nay
chúng ta cũng làm nhiều
việc thiện nhưng với
tâm hồn trong sáng,
vị tha.
Chúng ta thi ân mà không cần
quả báo, làm
việc thiện chỉ
cầu lợi ích cho
chúng sanh chớ không cầu phước riêng cho mình thì
tinh thần vô ngã,
vị tha của nhà Phật đã nẩy nở rộng lớn để
che lấp chỗ
tham lam,
ích kỷ trong tâm
chúng
ta.
Sự
hạnh phúc và khổ đau của
chúng ta trong đời nầy chẳng qua chỉ là
Nghiệp Quả mà
chúng ta đã tạo ra
trong đời quá khứ mà thôi. Cái
định mệnh vô hình nầy không phải là do
thần linh sắp đặt, hay là ông trời áp xuống mà chính là do tự tay
chúng ta tạo ra. Mỗi nghiệp
chúng ta đã tạo ra từ đời trước chính là cái vui hay cái khổ mà
chúng ta nhận lãnh ở đời nầy. Thế thì nếu mình tạo nghiệp được thì chính mình
có thể sửa nghiệp được, nhưng muốn chuyển nghiệp thì trước hết phải
chuyển tâm. Tâm có
trong sáng thì hành động mới thanh cao, ngược lại tâm
ngã mạn thì hành động
đen tối.
Sau cùng, người
tu Phật là người
sáng suốt để lìa xa mọi
hành vi bất thiện và không làm việc ác bởi vì sống trong
thế gian nếu gặp cảnh thuận thì
con người sẽ nổi tánh
tham còn gặp cảnh nghịch thì lòng sân nổi dậy. Do đó cho dù
chúng ta
có gặp cảnh thuận hay cảnh nghịch thì tâm vẫn khởi động niệm như thường. Vì thế khi gặp bất cứ
hoàn cảnh tốt hay xấu thì đó cũng chỉ là cách
tăng thượng duyên cho
chúng ta mà thôi. Nếu gặp cảnh khó khăn thì cứ nghĩ đây là sự
thử thách của Phật hay
Bồ Tát thì tâm của
chúng ta sẽ
thanh tịnh.
Thêm nữa, có
buông xả thì tâm mới được
thanh tịnh. Nếu
chúng ta cứ ôm
giữ khư khư vào lòng bao nhiêu
phiền não, tức là không bớt được tham-sân-si, thì khó lòng mà
đạt được tâm thanh tịnh.
Phật pháp là đoạn
phiền não, nếu
như học Phật mà vẫn còn
phiền não tức là đi ngược lại hướng đi của
Phật pháp. Do đó
chúng ta luôn luôn làm
việc lành, việc tốt, tránh xa việc ác, việc xấu và cố giữ tâm của mình cho được
thanh tịnh là
chúng ta đã tự
giải thoát ra khỏi mọi
hệ lụy đau
khổ của
thế gian để tìm về
cảnh giới an vui,
tự tại và
hạnh phúc viên mãn.