THANH TINH TÂM
Lê Sỹ Minh Tùng
Tôn Giả Mục Kiền Liên (Đệ Nhất Thần Thông)(Maha Moggalyana)
Trong một kiếp quá khứ, Ngài Mục Kiền Liên sinh sống bằng nghề đánh cá và thường ở bờ biển để đánh tôm chài cá mà sinh sống qua ngày. Một ngày kia khi đang đánh cá thì thiện tâm chợt phát hiện trong tâm nên Ngài thức tỉnh mà thấy rằng nghề
nghiệp của mình đã gây ra rất nhiều tội nghiệp lớn. Từ đó những ý niệm
hướng thiện đã giúp Ngài nhận thấy là tuy sống trong đời nầy mà cần phải tạo công đức cho đời sau cho nên chàng ngư phủ quyết định đổi nghề. Chẳng bao lâu sau Ngài thấy trong thành xuất hiện một vị Bích Chi
Phật, mỗi ngày qua đường với dáng điệu oai nghi, đi đứng trầm tĩnh và phong độ thật trang nghiêm đáng kính bèn thỉnh về nhà để cúng dường. Nhưng vị Bích Chi Phật ấy tuy bên ngoài hiện thần thông mà không giỏi thuyết pháp. Vị nầy chỉ dùng thần thông hóa độ, ngoài ra không còn pháp
môn nào khác. Thường thường sau khi thọ thực xong, vị nầy bay bổng lên
hư không, đi tới đi lui và lên xuống rất nhẹ nhàng. Ngư phủ trong vùng
hết sức cảm phục và ai ai cũng nguyện sau nầy sẽ có được thần thông như vậy. Nhờ sức tinh tấn tu tập và do nhân duyên đó mà đời nay tôn giả
Mục Kiền Liên quy y theo Phật được danh xưng là đệ nhất thần thông.
Trong hàng đệ tử của Phật, có nhiều vị đạt được thần thông phi thường,
nhưng Ngài Mục Kiền Liên được Phật tặng cho danh hiệu đệ nhất thần thông là vì trong lúc đi hóa độ Ngài thường hiện thần thông để hoằng dương đạo pháp và chống đối với ngoại đạo. Mặc dù Đức Phật tuy không cho phép các đệ tử của mình làm phép lạ để mê hoặc người, bởi vì Ngài dạy rằng với giáo lý mầu nhiệm của Ngài thì đủ sức để chuyển mê khai ngộ và cứu chúng sanh ra khỏi vòng luân hồi sanh tử. Nhưng riêng đối với Ngài Mục Kiền Liên thì Ngài chẳng những cho phép mà còn khen ngợi.
Mục
Kiền Liên dáng người cao lớn, mặt vuông tai dài biểu lộ tính cứng rắn.
Tôn giả rất lạc quan, dũng cảm và thường vì chính nghĩa đả phá việc bất bình. Xá lợi Phất và Mục Kiền Liên xuất gia theo Phật cùng thời gian nhưng Ngài Mục Kiền Kiên chỉ cần có bảy ngày là tiêu diệt hết các lậu phiền não và hiện sức thần thông mà chứng quả A La Hán. Từ đó Ngài Xá Lợi Phất luôn luôn hầu bên mặt còn Ngài Mục Kiền Liên thì ở bên trái
của Đức Thế Tôn.
Làm Cầu Báu Đón Phật Đà
Khi nói về thần thông của Mục Kiền Liên thì Ngài đã chứng cả hai Thiên Nhĩ và Thiên Nhãn Thông có nghĩa là tai Ngài có thể nghe thấu mọi âm thanh xa gần, còn mắt thì thấy hết sự vật mà không bị trở ngại và không kể đường dài hay ngắn.
Một hôm dân chúng trong thành Xá Vệ tổ chức
buổi yến tiệc để cúng dường chín mươi sáu giáo phái xuất gia. Trong số
thượng khách ngoài Đức Phật họ còn mời vua Ba Tư Nặc, thái tử và quần thần cùng đến dự. Họ thiết đặt bàn tiệc tại công viên đối diện với bờ sông A Kỳ. Mục Kiền Liên là vị khách đến đầu tiên và giây lát sau đó thì khách ngoại đạo cũng tấp nập đến. Ai cũng muốn đến trước để chiếm một chỗ ngồi tốt nhất. Lúc đó, Mục Kiền Liên nhìn xa xa thấy Đức Phật thống lãnh đại chúng oai nghi đi đến, nhưng hôm đó nước sông A Kỳ bỗng dâng cao, không thể qua được. Ngài lập tức hóa một chiếc cầu trân bảo bắt ngang sông. Chiếc cầu thì kết bằng hoa tưoi hương thơm tuyệt diệu cộng thêm với thất bảo để đón Phật.
Khi thấy chiếc cầu vừa thành
hình, bọn ngoại đạo reo hò inh ỏi và tranh nhau lên cầu. Trong lúc chúng đang ở giữa cầu, bỗng nghe một tiếng nổ lớn làm cho chiếc cầu gãy ngang và mọi người rơi xuống nước lủm ngủm với tiếng kêu cứu chấn động cả một phương trời.
Khi Đức Phật đến thì cầu trở lại như cũ. Phật và các tỳ kheo đi qua, thấy các ngoại đạo đang vùng vẫy loi ngoi dưới nước. Ngài động long từ bi vận dụng thần lực cứu hết mọi người đem lên. Họ biết số phận mình nên đành đi theo sau Đức Phật. Trong khi Đức Phật và các đệ tử thọ thực, chúng ngoại đạo vì y phục ướt mem nên phải ngồi phơi nắng ngoài xa. Cũng vì thế mà sau đại hội họ đều biết sức yếu
hèn của mình không thể nào so sánh với quang minh rạng rỡ của Đức Phật
và chư đệ tử.
Ứng Biến Thần Thông
Một ngày nọ, Đức Phật ở tại tịnh xá Kỳ Hoàn của nước Xá Vệ sai hai vị Xá Lợi Phất và
Mục Kiền Liên đến vườn Trúc Ca Lan Đà ở thành Vương Xá để lãnh đạo tăng đoàn mà đi giáo hóa trong dân gian.
Đến nơi hai vị ngụ tại
một thiền phòng. Màn đêm yên tĩnh, bốn bề không tiếng động, chỉ có ánh
đèn trong phòng hòa cùng ánh trăng mà thôi. Gần sáng, Xá Lợi Phất phá tan bầu không khí trầm mặc mà hỏi Mục Kiền Liên:
- Này tôn giả! Xin phép cho tôi hỏi đường đột thế này, vậy chớ đêm qua Ngài có trụ tại chánh định tịch diệt hay không?
Mục Kiền Liên hỏi lại:
- Vì sao Ngài hỏi tôi như thế?
Xá Lợi Phất đáp:
- Vì lâu thật lâu, tôi không nghe hơi thở hô hấp của Ngài, cũng không thấy Ngài cử động, dường như không có mặt tôn giả trong phòng nầy?
Mục Kiền Liên đáp:
- Thưa tôn giả! Đêm qua tôi vừa khởi lên một vấn đề cần thiết, tinh tấn trên sự tu hành, nên tôi đến thỉnh ý Phật. Vừa rồi Ngài không nghe tiếng tâm tôi là vì tôi vừa ở bên Phật hỏi chuyện.
Xá Lợi Phất phân vân:
- Ngài nói sao khó hiểu quá. Hiện giờ Phật đang ở vườn trúc phương Nam, hai nơi cách nhau rất xa làm sao tôn giả nói chuyện với Phật? Hay là Đức Thế Tôn dùng thần túc đến đây?
Mục Kiền Liên điền đạm trả lời:
- Không, chẳng phải vậy đâu. Tôi không dùng thần túc đến nơi tòa Phật mà
Phật cũng chẳng dùng thần túc đến chỗ chúng ta.
Xá Lợi Phất ngạc nhiên hỏi tiếp:
- Như vậy rốt cuộc làm sao tôn giả nói chuyện với Đức Phật?
Mục Kiền Liên bây giờ mới cặn kẽ nói cho Xá Lợi Phất:
- Thưa tôn giả! chẳng có gì lạ lùng hết. Đức Phật có thiên nhãn và thiên
nhĩ thông. Tôi và tôn giả cũng có thần thông ấy. Chỉ cần để tâm vận dụng thì chúng ta đều có thể nói chuyện với Đức Thế Tôn bất cứ lúc nào và ở đâu.
Xá Lợi Phất cũng biết như vậy, nhưng Ngài luôn luôn có
thái độ khiêm tốn đối với bạn đồng môn. Vì vậy sau khi nghe xong, Ngài
rất hoan hỷ và khen rằng:
- Tôn giả Mục Kiền Liên! Ngài thật có đại thần lực, đại công đức. Tôi được làm bạn với Ngài thật vô cùng vạn hạnh. Tôn giả như đỉnh núi nguy nga, tôi như hòn đá nhỏ đứng bên núi, được ngồi đồng một tòa với tôn giả thật là nhân duyên hiếm có. Người nào được giao du với tôn giả, cung kính cúng dường nhất định sẽ được lợi ích tốt lành.
Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đều là bạn cũ cho nên hai vị cùng tôn kính nhau, khen ngợi nhau từ đầu tới cuối đạo tình thâm trọng.
Một hôm nhằm ngày rằm,
lúc đó Phật đang thuyết pháp cho chư vị Tỳ kheo bên bờ ao A Nậu thì Phật không thấy tôn giả Xá Lợi Phất. Đức Phật bèn bảo Mục Kiền Liên:
- Mục Kiền Liên! Ông đến thành Xá Vệ mời Xá Lợi Phất về đây, hãy nói đây là ý của ta.
Mục Kiền Liên vâng dạ ra đi và đem những lời của Đức Thế Tôn nói lại cho Xá Lợi Phất. Xá Lợi Phất rất hoan hỷ mà nói:
- Đa tạ huynh đã truyền thánh ý cho tôi, vậy chúng ta đi ngay thôi, nhưng tôi với tôn giả làm một cuộc mạo hiểm nhé.
Mục Kiền Liên ngạc nhiên hỏi: Mạo hiểm kiểu nào?
Xá Lợi Phất đáp:
- Tôn giả là bậc trưởng lão đại thần thông, đây là một sợi dây cột áo, tôn giả thử đem nó kết thành một cây cổ thụ.
Xá
Lợi Phất vừa nói xong liền ném sợi dây ra. Mục Kiền Liên đưa tay bắt lấy, nhưng sợi dây không nhúc nhích. Tôn giả lại tận dụng hết sức thần thông kéo sợi dây đến nỗi chấn động đại địa. Thấy thế Xá Lợi Phất mau mau đem sợi dây quấn quanh núi Tu Di, không chịu thua Mục Kiền Liên liền
nhắc núi Tu Di lên. Xá Lợi Phất nhanh như chớp bèn đem dây cột vào tòa
sư tử của Đức Phật. Mục Kiền Liên một lần nữa dùng hết thần lực cũng không lay động được tòa sư tử. Thấy thế Xá Lợi Phất cười nói với Mục Kiền Liên:
- Tôn giả! Chỗ học và chỗ chứng của chúng ta sánh với vạn đức vạn năng của Phật đã cách xa trời vực. Thần lực của chúng ta có thể dời núi Tu Di, rung chuyển thiên địa, nhưng pháp tòa của Phật không bị lay động mảy may. Lúc nãy tôi còn nghi
ngờ thần lực của mình nên mới mời Ngài thí nghiệm, thôi bây giờ chúng ta hãy mau đến bái kiến Đức Thế Tôn. Ngài đi trước, tôi theo sau.
Mục
Kiền Liên rất khâm phục lời nói của người đạo hữu thâm giao , gật đầu và dùng thần túc bay về ao A Nậu. Đến nơi đã thấy Xá Lợi Phất kiết già,
ngồi bên cạnh Đức Thế Tôn. Mục Kiền Liên đảnh lễ Phật xong, bèn hỏi Phật với vẻ nghi ngờ:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng lẽ con mất hết thần túc thông rồi sao? Con từ tịnh xá Kỳ Viên về đây trước Xá Lợi Phất, tại sao tôn giả lại đến nơi trước con? Phật vẫn thường nói con là
đệ nhất thần thông, danh xưng đó con thiết tưởng nên tặng cho tôn giả Xá Lợi Phất mới đúng.
Đức Phật từ bi an ủi:
- Mục Kiền Liên! Ông có đại thần lực, trừ ta ra không kém thua ai. Ông cũng chẳng hề mất hết thần thông, nhưng ông cần phải biết Xá Lợi Phất là trí huệ đệ nhất đấy.
Sau khi Phật thuyết giảng ở ao A Nậu xong thì dẫn các đệ tử trở về thành Xá Vệ. Tín chúng trong thành biết chuyện vừa rồi nên ai nấy đều xôn xao bàn tán và nói rằng thần thông của Xá Lợi Phất hơn Mục Kiền Liên. Mục Kiền Liên nghe tiếng khen chê ấy
không hề cảm thấy bực bội. Tâm của Ngài rộng rãi và rất khiêm tốn, cho
rằng Xá Lợi Phất xứng đáng hơn mình. Vì thế mọi người khen Xá Lợi Phất
là điều vinh hạnh như khen ngợi chính tôn giả.
Mục Kiền Liên thì nghĩ như thế, còn Xá Lợi Phất lại thấy trong lòng không yên. Ngài cho rằng việc vừa rồi có gì bí ẩn chăng nên tôn giả bèn đến bạch Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Mục Kiền Liên là đại thần thông, đại công đức. Hôm nọ con đến ao A Nậu trước là vì con gấp rút muốn nghe Thế
Tôn thuyết pháp. Mặc dù tôn giả Mục Kiền Liên vận dụng thần lực nhưng
không nghĩ đến việc tranh thủ thời gian. Hôm nay mọi người nhôn nhao bàn tán, nói con thần thong hơn Mục Kiền Liên, thật con không dám nhận,
xin Đức Thế Tôn dùng phương tiện giải trừ lời phê bình bất công ấy.
Đức Phật nghe xong, vui vẻ gật đầu bởi vì Ngài biết rõ hai vị nầy rất khiêm nhường đối với nhau.
Ngày kia, tại giảng đường sau khi thuyết pháp, Phật gọi Mục Kiền Liên:
- Mục Kiền Liên! Ông là đệ tử đệ nhất thần thông của ta, vậy hôm nay ông có thể ở trong đại chúng hiện thần lực để khai phát tín tâm cho hàng sơ học.
Mục Kiền Liên vâng lời Phật liền từ tòa đứng dậy. Một chân đạp trên quả địa cầu còn chân kia đạp cõi trời Phạm Thiên khiến đại địa chấn động sáu cách và ở trong không trung dùng phạm âm mà
thuyết pháp. Sáu mươi tỳ kheo được khai thông trí tuệ. Từ đó đại chúng
đều đồng thanh công nhận Mục Kiền Liên là đệ nhất thần thông.
Dùng Thần Thông Độ Ngoại Đạo
Mặc dù triết lý đạo Phật thì nhiệm mầu, nhưng vào thời đó ở Ấn Độ phần lớn ngoại đạo ở vùng biên giới lại không chịu học hỏi để thấu rõ chân lý của Đức Thế Tôn. Vì thế cho nên rất ít người trong bọn họ có thể am hiểu và tu hành để đạt những đức hạnh của từ bi trí tuệ ngỏ hầu giúp cho họ thoát ra khỏi vòng luân hồi sanh tử. Đối với nhóm ngoại đạo nầy thì họ chỉ thán phục thần thông mà thôi, mà trong hàng đệ tử Phật thì Ngài Mục Kiền Liên là thượng thủ.
Một hôm, Phật bảo tôn giả Mục Kiền Liên:
- Mục Kiền Liên! Tại biên giới Ấn Độ, có một nước lớn, vua và thần dân đều không biết Phật pháp. Họ thờ phụng phạm chí ngoại đạo, có nhiều phạm
chí đắc thần thông. Họ dời núi lấp sông và phân thân biến hóa dễ dàng.
Ông hãy đến đó tùy phương tiện mà vận dụng oai thần khiến họ tin tưởng
Phật pháp để bỏ tà quy chánh, sửa đổi mê lầm.
Tôn giả vâng lời liền bay lên không trung mà đến nước đó. Từ trên cao tôn giả nhìn xuống
thấy một ngọn núi lớn có rất nhiều ngoại đạo bao quanh, tôn giả nghĩ rằng hình như bọn họ dùng đạo lực để di động trái núi kia.
Mục Kiền Liên liền đáp xuống đỉnh núi và đứng trụ bộ trên ấy. Với thân hình cao thấu hư không làm ngọn núi kia chẳng lay động mảy may. Tự nhiên thấy ngọn núi không còn di động, bọn chúng đang ngẩn ngơ không biết tại
sao thì thấy dáng Ngài Mục Kiền Liên to lớn đứng trên đỉnh núi. Họ bèn
thét lên:
- Tên kia! Mi là ai? Dám đến đây lộng hành? Ngọn núi nầy làm trở ngại giao thông nên nhà vua ra lệnh cho
chúng ta dẹp nó đi. Chúng ta vì dân trừ hoạn nạn, tại sao mi lại để nó
đứng yên, không cho di chuyển?
Mục Kiền Liên cười và nói:
- Rõ ràng là tôi đứng giữa hư không, ai đè trái núi của các ông làm chi?
Ngoại
đạo lại huy động hết đạo lực và bao lần muốn dời núi mà hòn núi to lớn
vẫn đứng yên như cũ. Đang lúc ngoại đạo cảm thấy vô phương cứu chữa làm chúng đâm ra hoang mang kinh sợ thì Mục Kiền Liên lớn tiếng kêu:
- Các Phạm Chí! Hãy nhìn cho kỹ ta sẽ làm núi kia biến mất.
Mục Kiền Liên vừa nói xong thì hòn núi hùng vĩ kia tức khắc biến thành bình địa. Ngoại đạo Phạm Chí cúi đầu thán phục và nói:
- Đại đức từ đâu đến? Nếu chẳng phải là bậc trí tuệ sáng suốt, đạo đức sâu dày thì không thể được như vậy. Xin Ngài thâu nhận chúng tôi làm đệ tử và chỉ dạy bờ mê cho chúng tôi.
Mục Kiền Liên từ trên không hạ xuống, nói:
- Các ông có tâm chí thành hối cải, tôi biết đó không phải là lời dối gạt. Nếu các ông muốn bỏ tối cầu sáng, bỏ ác làm lành, tôi còn có bậc Tôn sư là Đức Phật Đà vô thượng chánh đẳng chánh giác. Đức Phật là bậc trời trong tất cả loại trời, bậc thánh trong các thánh, đầy đủ nhất thiết trí, vạn đức vạn năng, các ông hãy theo tôi đến chổ Phật mà quy y.
Đức Phật nhất định vì lòng từ bi mà tiếp thọ.
Các Phạm Chí vui mừng nhảy nhót, hỏi thăm:
- Giáo pháp của Phật chẳng lẽ hơn Lão sư sao?
Mục Kiền Liên trang nghiêm nói:
- Đức Phật như núi Tu Di còn tôi chỉ như hạt cải. Phật Đà như biển lớn còn tôi chỉ như dòng nước nhỏ. Phật ra đời khó gặp nên các ông quy y Phật mới có thể cứu thoát đời mình.
Các Phạm Chí nghe xong vui vẻ và cùng nhau theo Mục Kiền Liên đến chỗ Phật quy y thọ giáo.
Vì
là đệ tử đệ nhất thần thông, tôn giả Mục Kiền Liên thường dùng thần thông để chế phục ngoại đạo khiến họ khởi tâm quay về với Phật pháp và dù trong hoàn cảnh nào Ngài vẫn có phương pháp để đưa họ về với chánh đạo.
Lại một hôm Mục Kiền Liên vâng lời Phật đơn thân đến nước Bạt Già để giáo hóa chúng sinh. Lúc ấy có một ác quỷ thấy tôn giả đang đi bộ trên đường thì hắn dùng thần thông chui vào bụng tôn giả. Tôn giả cảm thấy đau nhói nơi bụng, dường như có vật gì như cái chén bơi qua bơi lại trong đó mà lại kêu rầm rầm như sấm. Tôn giả liền dừng bước, trở về thất tịnh tọa tư duy thì biết đây là ác quỷ muốn khiêu khích mình, bèn nói:
- Ác ma, mau mau đi ra, không
được xâm phạm đệ tử Phật. Các ngươi chẳng thể làm tổn hại Đức Phật và đệ tử Ngài, trừ những đệ tử nghiệp lực đến lúc phải trả, chứ bọn ngươi vĩnh viễn chẳng làm gì được.
Ác ma nghĩ thầm:
- Lạ thật! Hình dạng ta ra sao, ngay cả Phật còn không biết, Mục Kiền Liên tuy có thần thông nhưng làm sao biết được?
Tôn giả lại nói:
- Ác ma! Ngươi đừng lấy làm lạ, ta biết trong bụng ngươi đang nghĩ rằng Phật Đà chẳng biết hình thù của ngươi ra sao, còn Mục Kiền Liên tuy có thần thông làm sao lại biết.
Ác quỷ nghe rồi kinh hãi liền biến thành nước miếng vọt ra. Từ đó chúng chẳng còn dám trêu chọc đến tôn giả nữa.
Thần Thông Thắng Sức Quyến Rũ Của Giai Nhân
Ngày
kia khi tôn giả khất thực trở về thì Ngài đi ngang qua một khu vườn mà
trong đó có một người đàn bà tuổi trung niên đang chờ Ngài. Bà ta tuy không quá ba mươi tuổi nhưng với đôi mắt kiều mị và dáng hình yểu điệu đã làm biết bao chàng trai khổ lụy vì bà.
Khi thấy tôn giả sắp đến gần thì bà ta đứng dậy cúi chào:
- Tôn giả, Ngài có bận đi đâu không? Ngài có thể dừng chân nói chuyện với em không ạ?
Mục
Kiền Liên dừng bước, chú ý nhìn và không những Ngài thấy dung mạo thanh lịch của cô ta mà còn biết rõ bên trong tâm cô ta đang có ý đồ gì.
Tôn giả chẳng những không động lòng trước sức quyến rũ của sắc đẹp mà Ngài còn oai nghiêm quở trách bà ta:
- Thật đáng thương cho cô! Cô phải chịu những điều ô nhục. tuy được chút
đỉnh tiền bạc mà lương tâm mờ ám, nghe lời xúi dục của ngoại đạo mà tưởng rằng có thể dụ dỗ ta vào con đường bất chánh. Thật là một âm mưu đen tối và phi pháp.
Bà ta nghe nói xong rất đỗi kinh hoàng nhưng làm bộ dịu giọng thưa:
- Tôn giả! …ông….ông…tại sao ông nói như vậy?
Mục Kiền Liên oai nghiêm như một ngọn núi trả lời:
- Cô không thể che dấu tội lỗi của mình, cô đến đây với ý định gì thì tôi vừa nhìn qua là biết liền. Cô mê muội theo sắc đẹp hư vọng, Sắc đẹp
giúp cô tăng trưởng tội ác, giống như voi già sa lầy vậy, voi càng cựa
quậy thì càng lún sâu.
Bà hỗ thẹn đáp:
- Tôn giả! Ngài đã biết rõ tâm tôi. Tôi cũng biết không thể qua mặt Ngài. Tôi sớm nghe danh Ngài là đệ tử đệ nhất thần thông của Phật mà tôi
không tin rằng thần thông có thể vượt qua sắc đẹp. Tôi biết tôi là một
kẻ tội lỗi và tôi cũng nghĩ đến việc hướng thiện nhưng không còn hy vọng. Tôi nghĩ tôi là một kẻ không thể cứu vớt, một người có cái quá khứ
ghê rợn thì tương lai chắc phải chịu quả báo đáng sợ.
Mục Kiền Liên an ủi:
- Cô không nên tự làm khổ cho mình và cũng đừng thất vọng. Tội nghiệp dù
nặng đến đâu chỉ cần thành tâm sám hối thì đều có thể dùng nước tẩy trừ. Tâm không thanh tịnh có thể dùng Phật pháp rửa sạch. Trăm dòng sông nhớp nhúa một phen chảy vào biển cả thì nước biển lớn sẽ làm sạch nước bẩn của trăm sông. Lời dạy của Thế Tôn ta đủ sức khiến thanh tịnh lòng người ô uế để có thể sám hối những tội nghiệp quá khứ.
Nghe tôn giả nói xong, bà ta rất vui mừng mà thưa:
- Tôn giả! quả thật giáo thị của Đức Phật từ bi vĩ đại đến thế sao? Quá khứ của tôi rất là tội lỗi, tôi chỉ gặp toàn những điều bất hạnh. Tôi mà nói ra đây chắc tôn giả sẽ bịt tai ngoảnh mặt.
Mục Kiền Liên hỏi:
- Chẳng có gì quan hệ, cô cứ nói đi. Cô tên gì?
Người đàn bà đáp lại:
- Thưa tôn giả! Tôi tên Liên Hoa Sắc, là con gái của một nhà trưởng giả thành Đức Xoa Thi La. Khi tôi được mười sáu tuổi, cha mẹ lo lập gia đình cho tôi. Nhưng chẳng bao lâu, cha tôi qua đời thì bà mẹ góa bụa của tôi bèn tư thông với chồng tôi. Biết được việc nầy khiến tôi rất đau lòng. Lúc đó tôi đã có một đứa con gái nhưng tôi quyết bỏ nó ra đi.
Sau đó tôi tái giá với người khác. Có một lần, người chồng sau nầy đi xa buôn bán. Khi ông từ Đức Xoa Thi La trở về thì lén tôi lấy một ngàn lượng vàng để mua một tiểu thiếp. Ban đầu thì ông ta giấu nhẹm không cho tôi hay. Ông đưa bà tiểu thiếp đến gởi nhà một người bạn, sau tôi biết được việc nầy thì rất căm hận muốn coi mặt con đó là đứa nào mà dám đoạt chồng tôi. Thật là đau đớn, thưa tôn giả, không thấy thì thôi mà thấy rồi tôi té xỉu tại chổ. Đức con gái đó không ai xa lạ mà chính là con gái của tôi với đời chồng trước.
Liên Hoa Sắc nói đến đây thì quá thương tâm, khóc không ra tiếng. Mục Kiền Liên bèn an ủi:
- Liên Hoa Sắc! Cô không nên thương tâm quá đổi. Người biết rõ quá khứ vị lai thì xem đó chỉ là một sự luân hồi nhân quả. Nói thật mà nghe, đời người là một biển tội lỗi. Rồi sau thế nào?
Liên Hoa Sắc Kể tiếp:
- Làm sao tôi có thể nhẫn nhục được nỗi khổ đau đó. Nghĩ đến ban đầu thì
mẹ đoạt chồng mình, bây giờ con mình cũng cướp chồng của mình luôn. Tôi còn mặt mũi nào ở đời? Buồn quá tôi bỏ nhà ra đi, tôi chán ghét thế
gian, chán ghét mọi người và cuối cùng tôi làm kẻ mua vui cho thiên hạ. Tôi muốn đùa giỡn với thế nhân và tôi phát triển mọi sinh hoạt tội lỗi của mình. Việc gì tôi cũng làm được miễn có tiền. Tôn giả có biết tại sao tôi đến đây khiêu khích Ngài, may mà tôn giả có đại thần lực, nếu không thì bây giờ chẳng biết tôi phải sám hối như thế nào?
Mục
Kiền Liên nghe Liên Hoa Sắc kể hết sự tình, không hề khởi tâm khinh khi, trái lại tôn giả biết trong tâm Liên Hoa Sắc rất chân thành, rất lương thiện. Ngài dùng lời từ bi an ủi:
- Liên Hoa Sắc! Thân thế của cô thật đáng thương, cô nên theo lời dạy của Đức Phật mà sửa đổi. Thời điểm nhân duyên đã đến cô hãy theo tôi đến ra mắt Thế Tôn.
Liên Hoa Sắc rất mừng rỡ, sở dĩ cô được cứu độ, chuyển họa thành phước đều nhờ sức thần thông và phương tiện thiện xảo của Mục Kiền Liên.
Chiều Dài Pháp Âm Của Phật
Trong
tăng đoàn của đức Phật duy chỉ có Ngài Mục Kiền Liên là người rất sống
động. Cái gì mà người khác không làm được thì Ngài làm xong và chỗ nào
người khác không đến được thì Ngài muốn đến.
Một hôm
Phật thuyết pháp tại
giảng đường của
tịnh xá Trúc Lâm.
Mục Kiền Liên lúc ấy đang
ngồi thiền trong
tịnh thất không đi nghe giảng, nhưng tiếng
thuyết
pháp của Phật như sấm rền bên tai. Ngài lấy làm lạ vì Ngài ở một nơi cách xa Phật như thế mà vẫn nghe tiếng, bèn nảy ra
ý định dọ thử xem
pháp âm của Phật còn xa đến đâu. Ngài vận dụng
thần túc bay qua mười ức
cõi Phật, đến một
quốc độ mà nơi đây
Đức Phật Thế Tự Tại Vương là
giáo
chủ và đang
thuyết pháp. Lúc đến nơi,
tôn giả rất
hoan hỷ và
nhanh tay nhẹ chân tìm chỗ ngồi trong
pháp hội. Thật là một
hiện tượng lạ thường:
Mục Kiền Liên chẳng những nghe tiếng Phật ở
quốc độ nầy mà Ngài
còn nghe cả tiếng của
Đức Phật Thích Ca.
Đức
Thế Tự Tại Vương thuyết pháp xong thì có một vị
Bồ tát hướng về Phật đánh lễ và chỉ
Mục Kiền Liên nói:
- Như Lai! Trong khi
thuyết pháp, chẳng biết từ đâu bò đến một con sâu lớn, trông thật
quái dị, chúng con muốn đuổi nó đi!
Đức Phật vội ngăn:
- Đừng nói thế. Đó là
Mục Kiền Liên,
đệ tử đệ nhất
thần thông của
Đức Phật Thích Ca ở cõi Ta Bà!
Sao họ nhỏ bé như vậy? Vị
Bồ tát hỏi.
Đức
Thế Tự Tại Vương giải thích:
- Các ông đừng khinh thị
tôn giả nầy. Ông ấy có
đại thần lực,
đại oai đức. Ông ấy có đủ
thần thông để dạo chơi các
quốc độ. Chẳng qua
thân thể
thấp bé là vì
chúng sanh mỗi
quốc độ nghiệp lực chẳng đồng.
Đức Phật nói xong, từ hòa nhìn
Mục Kiền Liên:
- Tôn giả! Ông từ phương khác đến, có thể đối với chúng
Bồ tát đệ tử ta mà hiện các
thần thông để họ hết còn
nghi ngờ.
Mục
Kiền Liên bèn thừa
oai thần Phật
hóa hiện các thứ thần kỳ, chúng
Bồ tát thấy rồi đều sanh lòng
cung kính.
Mục Kiền Liên hiện
phép lạ xong
trở về chỗ ngồi thì
Đức Phật hỏi:
- Tôn giả! Ông đến
quốc độ ta là muốn thử nghe tiếng
thuyết pháp của Phật
Thích Ca xa bao nhiêu phải không?
Mục Kiền Liên đảnh lễ đáp:
- Thưa phải
quả thật đệ tử có
dụng tâm đó.
Đức Phật dạy tiếp:
- Tôn giả! Ông không nên nghĩ như vậy. Oai lực của chư Phật hạng
phàm phu và
nhị thừa không thể biết hết. Thanh âm
thuyết pháp của chư Phật biến khắp tất cả
hư không.
Cảnh giới của căn phàm duyên của
chúng sanh thì có xa, gần, mà dung tâm
phân biệt không thể thử biết được
âm thanh Phật.
Lời khai thị của Đức
Thế Tự Tại Vương Như Lai làm
Mục Kiền Liên nghe xong thì rất hỗ thẹn. Từ đó về sau,
tôn giả vẫn giữ vẻ
linh hoạt nhưng không dám thử
thăm dò Phật đức và
Phật âm nữa.
Ngạ Quỷ Và
Nhân Duyên Nghiệp BáoThần
thông của
Mục Kiền Liên chẳng những đưa Ngài
du hành các
cõi Phật mà
thần lực còn giúp Ngài xuống
địa ngục quan sát cảnh
chúng sinh thọ chịu
quả báo.
Một ngày kia,
tôn giả hành cước bên
bờ sông Hằng thấy màu
hoàng hôn hoang vắng và
ánh nắng thì dịu dần không còn
gay gắt chói chan. Thấy màn đêm sắp xuống
tôn giả dừng chân và ngồi
tĩnh tọa bên bờ sông.
Gió thổi
hiu hiu, không trung lác đác vài vì sao. Bọn
ngạ quỷ tụ tập rải rác bên
bờ sông Hằng và muốn tìm nước uống bởi vì chúng đang
đói khát. Nhưng chúng gặp phải một con quỷ hung ác làm thần giữ mé
sông. Con quỷ nầy tay cầm gậy sắt
xua đuổi làm những con quỷ khác không dám
đến gần bờ nước.
Vừa lúc đó Ngài
Mục Kiền Liên đang ngồi ngay
thẳng
chánh niệm thấy các loài quỷ
thọ tội không đồng, bèn gọi chúng lại và nhân cơ hội nầy chúng hỏi Ngài về
nhân duyên tội nghiệp về
tiền kiếp của chúng.
Quỷ thứ nhất hỏi:
- Tôn giả! Đời trước
chúng tôi là người nay đọa làm thân quỷ đói, thường bị khổ
đói khát.
Chúng tôi nghe
nước sông Hằng trong mát, mà khi lấy nước uống thì
nước liền nóng sôi. Chỉ có hớp một miếng mà
lục phủ ngũ tạng liền cháy
tiêu,
đã vậy còn bị con quỷ giữ nước sông cầm gậy
đánh đuổi. Xin hỏi
tôn giả chúng tôi do nghiệp gì mà thọ khổ báo nầy?
Mục Kiền Liên dùng sức định
thần thông quan sát nhân quả ba đời rồi nói với nó:
- Đời trước ngươi làm thầy tướng số, khi nói tướng kiết hung cho người, ngươi
nói dối nhiều hơn
nói thật,
tùy ý khen chê và tự xưng mình
thông suốt thiên văn địa lý mà dối gạt người để mưu
cầu lợi dưỡng cho mình mà
không thương người
mê muội nên mới
thọ nghiệp báo nầy.
Bây giờ đến quỷ thứ hai hỏi:
- Tôn giả! Tôi thường bị một con chó lớn hung dữ nhai nuốt
thân thể, ăn
hết thịt xong thì một cơn gió thổi qua làm bộ xương sống
trở lại. Chẳng biết
nhân duyên gì khiến tôi chịu khổ báo nầy?
Mục Kiền Liên định thần xong thì nói:
- Đời trước ngươi giết heo dê gà vịt để cúng tế trời thần nên chịu
quả báo nầy.
Quỷ thứ ba nghe xong bèn hỏi:
- Tôn giả! Tôi thì bụng to như cái lu, tay chân cổ họng nhỏ như cây kim, thấy
thức ăn ngon mà chẳng hể nuốt được.
Vậy chẳng biết
nhân duyên gì vậy?
Tôn giả trả lời:
- Ngươi đời trước làm quan ỷ mình
giàu có, hành động
tung hoành theo ý thích, khinh khi người.
Tài sản của người do
mồ hôi nước mắt tạo ra thì ngươi ỷ mạnh mà chiếm đoạt nên nay phải chịu khổ báo.
Con quỷ thứ tư nghe xong lắc đầu nhưng cũng ráng hỏi:
- Tôn giả! Lưỡi tôi le dài khắp thân mà máu huyết cứ vọt ngược từ dưới lên trên khiến cho cái đầu to bằng cái đấu lớn. Còn khi huyết quản sắp
đứt mạng như chỉ mành, chẳng biết
nhân duyên gì thọ khổ báo nầy?
Mục Kiền Liên quan sát rồi nói:
- Ngươi đời trước ưa nói chuyện
thị phi, tốt xấu của người. Mỗi
lời nói ra không
lợi ích gì cho
chúng sanh mà còn làm tăng nỗi
khổ não cho người nên nay mới chịu khổ như thế.
Mỗi
ngạ quỷ lần lượt thưa hỏi về
tội nghiệp đã tạo ra từ đời trước và
nhân duyên quả báo cho đời nay,
tôn giả dùng
thần thông trí tuệ mà
trả lời.
Thần thông của
tôn giả
quả thật là lên trời xuống đất
tự tại vậy.
Thần Thông Không
Thắng Nghiệp Lực
Trong
hàng
đệ tử Phật thì
thần thông của
Mục Kiền Liên không ai
sánh bằng,
vì vậy bất cứ việc gì Ngài vận dụng
thần thông đều được
thành tựu. Trong
quá khứ Ngài đã dùng
thần thông để
tiếp dẫn chúng sinh vào
con đường Phật pháp, nhưng cho dù Ngài có tài thiên biến vạn hóa đi chăng nữa thì
thần thông của Ngài cũng không thể nào thắng nổi
luân hồi nhân quả và
nghiệp lực để
giải thoát cho
chúng sinh ra khỏi
sanh tử phiền não.
Thật vậy, một ngày nọ kinh
thành Ca Tỳ La Vệ của
dòng họ Thích Ca bị vua
Lưu Ly của nước
Kiều Tất La (Kosala)
xâm lược. Khi thấy
cảnh đất nước bị xâm lăng,
Đức Phật cũng
động lòng ái quốc mà
tìm cách giải cứu.
Đức Phật ba lần ngồi
chận đường để
ngăn cản đại quân của vua
Lưu Ly. Tuy vua
Lưu Ly mỗi lần gặp Phật là mỗi lần lui binh, nhưng lòng thù hận
muốn
báo thù và
xâm lược không dứt được.
Đức Phật biết
sự báo ứng của
nhân quả và muốn cho nó tự
kết thúc nên sau đó để cho vua
Lưu Ly tự do đi.
Thật ra
thần thông của
Mục Kiền Liên không thể nào giải hết sạch
nghiệp báo của
chúng sinh. Khi
tôn giả biết
đại quân của vua
Lưu Ly bao vây
thành Ca Tỳ La Vệ, Ngài rất kích động đến bạch với Phật rằng:
- Thưa Thế Tôn!
Thành Ca Tỳ La Vệ bị vua
Lưu Ly xâm lược, chúng con
cần phải tận lực để cứu
nhân dân trong thành.
Đức Phật nhìn
tôn giả giây lâu, rồi từ hòa nói:
- Mục Kiền Liên!
Dòng họ Thích Ca chịu
quả báo của
tội nghiệp nhiều kiếp
đã qua, đó là cộng nghiệp
chiêu cảm. Ông không thể chịu thay cho họ. Họ chẳng chịu
sám hối,
tham lam kiêu mạn, không
sửa đổi, cũng giống như nhà cửa
mục nát thì đến ngày sụp đổ thôi.
Mục Kiền Liên nghe
Phật nói, tuy biết đó là
sự thật, nhưng nghĩ đến
thần thông quảng đại của mình nên muốn dùng nó để
cứu nạn dân chúng trong thành.
Vua
Lưu Ly dùng trăm vạn
đại quân vây khốn
thành Ca Tỳ La Vệ cho đến một giọt nước cũng không lọt thì
con người làm sao trốn ra được. Chỉ có
Mục
Kiền Liên vận
thần thông nương
hư không bay vào thành. Khi vào thành rồi,
tôn giả chọn năm trăm người
ưu tú trong dòng
Thích Ca, rồi hóa phép để họ trong
bình bát và bay ra. Đến một nơi
an ổn, Ngài mở nắp bình để thả năm trăm người ấy ra. Chẳng dè
bình bát thì mở mà không thấy gì cả làm Ngài một phen thất
kinh hồn vía vì năm trăm người trong
bình bát đều
hóa thành máu cả.
Đến lúc nầy
tôn giả mới biết lời Phật nói không sai. Phép tắc
nhân duyên không thể làm ngược lại ngay cả
đến đệ nhất
thần thông cũng không qua
nghiệp lực.
Vu Lan Cứu Mẹ
Tôn
giả Mục Kiền Liên dùng
thiên nhãn thông mà biết
nhân quả báo ứng của loài quỷ làm Ngài
thương tâm mà nhớ đến
mẫu thân quá cố. Ngài bèn vận dụng
thần lực mà
quan sát thì thấy
thân mẫu đang đọa trong loài
ngạ quỷ chịu nhiều
đau đớn. Cái cuống họng của bà thì nhỏ như cây kim và chỉ còn
da bọc xương.
Mục Kiền Liên thấy
tình trạng ấy,
động lòng hiếu thảo, liền dùng
bình bát đựng đầy cơm, mượn sức thần đến trước lão mẫu.
Nhưng mẹ Ngài vừa ôm bát cơm chưa kịp đưa vào miệng thì cơm trong tay đã
hóa thành lửa đỏ không cách nào nuốt được.
Mục Kiền Liên thấy vậy buồn bã
rơi lệ nghĩ mình bất lực. Ngài biết được
nghiệp quả của chúng
ngạ quỷ nhưng không thể biết
mẫu thân do
nhân duyên nghiệp báo gì mà chịu khổ sở như vậy. Ngài thương cảm quá và mau mau đến trước Phật mà thưa rằng:
- Đức Thế Tôn! Hôm nay
đệ tử dùng
thần thông thấy
mẫu thân đang bị đọa vào
ngạ quỷ, chịu nhiều
khổ não,
thức ăn biến thành lửa đỏ, chẳng biết do
nhân duyên gì ?Thần thông của
đệ tử có thể
quan sát thấu đáo
nhân duyên tội báo của chúng quỷ, vì sao với vong mẫu
lại chẳng biết được? Cúi xin Phật
từ bi chỉ dạy.
Đức Thế Tôn từ hòa đáp:
- Mục Kiền Liên! Mẹ ông lúc
sanh tiền báng Phật mắng tăng, không tin
nhân quả, tham sân tà ác, dối gạt
mọi người. Do đó mới thọ khổ báo nầy.
Ông vì
mẫu tử tình thâm nên
thần thông bị thân tịch
che lấp nên không biết được.
Mục Kiền Liên hướng về
Đức Phật ai cầu:
- Ngài có
diệu pháp gì để cứu
mẫu thân của
đệ tử thoát khổ
ngạ quỷ chăng?
Phật dạy:
- Mục Kiền Liên!
Tội báo của mẹ ông
cấu kết sâu dầy không thể dùng lực lượng một
cá nhân mà cứu được. Hiếu đạo của ông tuy
cảm động đất trời, nhưng thiên
địa thần kỳ đối với người
đọa lạc và
phỉ báng tam bảo không
thể làm gì được.
Hiện tại, ông chỉ nương sức
oai thần của
thập phương tăng chúng mới giúp mẹ ông
thoát khỏi ngạ quỷ. Mỗi năm đến ngày rằm tháng bảy là ngày
giải hạ tự tứ của
chúng tăng, ngày đó những người làm con nên vì
cha mẹ bảy đời và
cha mẹ hiện tại đang ở trong chốn nguy nan, sửa soạn trăm
thức ăn ngon, quả vật tưoi tốt bậc
nhất thế gian, đặt trong mâm đầy để
cúng dường chư
đại đức tăng
mười phương. Nhân vì ngày ấy là ngày
tự tứ của
chư tăng, tất cả
thánh chúng, hoặc
tọa thiền ở
rừng núi, bên giòng nước hoặc đắc
tứ quả A La Hán, hoặc
kinh hành dưới
cội cây hoặc là bậc được
lục thông giáo hóa.
Cho đến có những
Bồ Tát trong
mười phương hiện làm
tỳ kheo đều đồng
nhất tâm thọ thực. Do vì
chư thánh chúng đều đầy đủ
giới hạnh thanh tịnh,
đức độ rộng sâu như biển,
bất khả tư nghị. Nếu ai hay
cúng dường các vị tăng ngày
tự tứ thì
cha mẹ hiện đời và
lục thân quyến thuộc nhất định ra khỏi ba đường khổ, liền
được giải thoát, y thực
tự nhiên. Nếu
cha mẹ còn sống thì phước lạc trăm năm,
mọi việc đều
an lành thuận thảo. Đó thật là
diệu pháp để cầu siêu
cứu bạt.
Mục Kiền Liên nghe Phật nói thì
hoan hỷ vâng lời. Ngày tăng
tự tứ làm lễ
cúng dường đại chúng thánh tăng và cũng ngày đó mẹ Ngài thoát khổ của
ngạ quỷ.
Mục Kiền Liên rất cảm kích
ân Đức Phật, bèn
tán thán công đức tam bảo và khuyến khích
thế gian làm
theo pháp
Vu Lan Bồn.
Tôn giả không những là đệ nhất
thần thông mà cũng còn
nổi danh là bậc
đại từ đại hiếu.
Một hôm, chúng
đệ tử đến
yêu cầu Phật nói về
nhân duyên bổn sanh của
dòng họ Thích,
Đức Phật nghe xong thì Ngài gọi
Mục Kiền Liên thay Ngài mà
thuyết giảng bởi vì nếu Ngài
nói tốt về bổn tộc thì làm sao
tránh khỏi người đời dị nghị.
Mục Kiền Liên vận dụng
túc mạng thông quan sát sự tích của nhiều kiếp đã qua và Ngài thuật lại tỉ mỉ
lịch sử dòng
Thích Ca.
Mọi người nghe xong đều cảm đến việc
Đức Phật giáng sinh trong dòng
Thích Ca và
thành Chánh giác, không phải không có
nhân duyên.
Lại một hôm, chúng
tỳ kheo nhóm
hợp lại cùng đàm đạo
và mỗi người đều trình bày chỗ
tâm đắc trong việc
tu đạo.
Tôn giả Mục Kiền Liên nhân đó nói
bài kệ của bảy
Đức Phật:
Chư ác mạc ác
Chúng thiện
phụng hành Tự tịnh kỳ ý
Thị chư
Phật giáo Dịch là:
Chớ làm các việc ác
Nên làm các
việc lành Tự tịnh ý của mình
Đó là lời dạy của chư Phật
Từ
bài kệ đơn giản của
Mục Kiền Liên đã làm cho
mọi người biết rõ
mục đích lời dạy của
Đức Phật. Dầu
trải qua mấy ngàn năm,
Phật tử khắp
mười
phương đã đem
bài kệ và
tôn giả mà lưu giữ trong tâm của họ.
Người
Đệ Tử Đầu Tiên
Hy Sinh Vì Đạo
Mục
Kiền Liên nhờ
thần thông mà lên trời xuống đất để
hộ trợ cho việc
tuyên dương Phật pháp. Công ấy thật là to lớn, nhưng Phật vẫn thường dạy
thần thông không phải là
pháp môn cứu cánh.
Lúc đó có vị đại
thần của vua
Ưu Điền tên là
Tân Đầu Lô Phả La Đọa theo Phật
xuất gia và chứng được
thần thông. Nhưng ông ta thích biến hiện
kỳ diệu trước hàng
cư sĩ cho nên
Đức Phật thường
quở trách nên ông rời khỏi
tăng đoàn
một mình qua Châu Tây Cù Da Ni mà
giáo hóa chúng sinh. Còn
thần thông của
Mục kiền Liên chẳng những
Đức Phật không
quở trách mà lại thường khen ngợi. Không phải
Đức Phật không có
tâm bình đẳng, nhưng chính vì
Mục Kiền Liên chỉ dùng
thần thông để
hộ trợ cho việc
hoằng pháp mà thôi. Nhưng
kết cuộc thần thông cũng không qua
nghiệp báo. Thật vậy,
nghiệp lực của mỗi người đã tạo tác thì dù cho
thần thông biến hóa xuất
quỷ nhập thần cũng không tránh được cái chết. Chính
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy
đệ tử của Ngài về
sự thật nầy.
Mặc dù
tôn giả Mục Kiền Liên tuổi gần về già nhưng
hoạt động hoằng pháp vẫn như nước chảy mây bay, càng lúc càng
tinh tấn.
Tôn giả vì
lòng từ bi mà
hóa độ chúng sinh nhưng chính Ngài không ngờ rằng càng nhiệt tâm
tuyên dương giáo pháp thì càng làm cho
ngoại đạo ghen ghét. Đối với
Đức Phật thì bọn chúng khó lòng làm gì được nên bọn họ chỉ chờ có cơ hội là
ám sát Mục Kiền Liên.
Mục Kiền Liên luôn luôn
gánh vác trách nhiệm hoằng pháp lợi sanh nên bất cứ nơi nào Ngài cũng đến được. Một ngày nọ
tôn giả trên đường
tuyên dương đạo pháp thì Ngài đi ngang qua núi Y Tư Xa Lê. Khi thấy Ngài đi qua thì bọn
ngoại đạo từ trên núi xô đá xuống để
sát hại Ngài. Đá rơi loạn xạ như mưa khiến nhục thân
vô thường của
tôn giả nát nhừ như tương.
Mặc dầu Ngài đã chết, nhưng bọn
ngoại đạo vì sợ
thần thông của Ngài nên mãi đến hai ba ngày sau còn chưa dám
đến gần nơi
tôn giả tử nạn.
Tin
tôn giả bị
ám hại truyền đến tai
vua A Xà Thế. Nhà vua nổi cơn
phẫn nộ, hạ lịnh bắt hết các hung thủ và mấy ngàn
ngoại đạo ném hết vào hầm lửa.
Sự ra đi của
tôn giả làm cho
các
tỳ kheo không khỏi
đau lòng vì không một ai có thể tin rằng với sức
thần thông biến hóa như Ngài mà không tránh được sự phục kích của
ngoại đạo.
Các
tỳ kheo bèn
thỉnh Phật:
- Bạch
Thế Tôn!
Xá Lợi Phất và
Mục Kiền Liên đều là
đệ tử thượng thủ của Phật.
Mục Kiền Liên là một người
hoàn toàn. Khi
Thế Tôn lên
thiên cung thuyết pháp cho mẫu hậu thì
tôn giả nhận lời
yêu cầu của chúng con lên cung trời bái vọng
Thế Tôn.
Mẫu thân ông vì
phỉ báng tam bảo mà bị đọa
địa ngục thì ông cũng xuống
địa ngục cứu mẹ.
Tôn giả có
thần thông oanh
liệt như thế tại sao không
dùng sức thần thông để
đối kháng với ngoại đạo?
Đức Phật là bậc đại
tri giác, đã chứng
chân lý vũ trụ nên Ngài đã
biết trước sự việc nên không kích động như các
tỳ kheo. Ngài
an
nhiên bảo
đại chúng:
-
Mục Kiền Liên không phải không chống nổi với
ngoại đạo, nhưng ở lần trước khi vua
Lưu Ly xâm lược thành Ca Tỳ La Vệ thì ông đã dùng
thần thông mà cứu không được
nhân dân trong thành. Nên biết rằng
thần thông không
thắng nghiệp lực. Nhục thể là
vô thường,
nghiệp báo cần phải trả.
Trong đời quá khứ ông ấy làm nghề chài
lưới
sát hại oan uổng không biết bao nhiêu
sinh linh. Các ông đừng lấy
làm khó chịu. Tuy
Mục Kiền Liên chết, nhưng
chân lý không hề mất.
Thấy
tỳ kheo càng phân vân, Phật dạy tiếp:
- Các tỳ kheo! Các ông không nên nghĩ như vậy.
Vấn đề sanh tử đối với người
giác ngộ không quan trọng. Có sanh ắt có tử. Chuyện tử không
nhất thiết là chuyện kinh sợ hoang mang, đừng
quá cố chấp.
Mục Kiền Liên khi
vong thân chẳng
mê muội thì
chắc chắn đã
nhập diệt, đó là điều đáng quý.
Mục Kiền Liên hy sinh vì
sự nghiệp tuyên dương giáo pháp, đó mới là cái đẹp vô hạn.
Tuy Phật đã
giải thích như thế mà có vài
tỳ kheo vẫn còn thắc mắc. Họ
than thở, lắc đầu, thương cảm mà
bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Chúng con vẫn biết
cần phải có
tinh thần hy sinh vì đạo, nhưng
tôn giả hy sinh như vậy
quả thật oan uổng và còn biết bao
sự
nghiệp hoằng hóa
lợi sinh mà chúng con cần sự
lãnh đạo của
tôn giả. Thế Tôn! Sao Ngài không bảo trước với
tôn giả để ông ấy đề phòng?
Qua
những lời trên,
chúng ta đều thấy các vị
tỳ kheo rất
xúc động trước sự
tuẩn giáo của
tôn giả.
Một lần nữa
Đức Phật lại dùng
lời an ủi khích lệ
đại chúng:
- Các tỳ kheo! Khi
Mục Kiền Liên lâm nạn, chẳng
phải ông ấy không biết
đề phòng. Ông ấy có thể
bảo vệ cho mình khỏi chết, nhưng đó không là
biện pháp cứu cánh. Người
tu hành không thể làm sai pháp tắc
nhân quả, ông ấy gieo nhân chài cá, nghiệp
sát sanh phải
kết thúc bằng quả bị hại. Vả lại,
Mục Kiền Liên đã
phát nguyện đem mạng sống
hy sinh cho
chân lý. Đó là
mãn nguyện của ông, ông ấy rất
hoan hỷ nhập diệt. Nếu
đệ tử của ta đều có
tinh thần của
Mục Kiền Liên thì
Phật
pháp lại phát huy rộng lớn. Các ông nên bắt chước theo
Mục Kiền Liên.
Mặc
dù
sắc thân Mục Kiền Liên đã chết, nhưng với đệ nhất
thần thông và gương
đại từ đại hiếu của Ngài vẫn sống mãi trong tâm của những người con Phật như
chúng ta.**************
Mục Kiền Liên vốn lấy tên theo cha là
Câu Lợi Ca, còn gọi là
Câu Lợi Đa.
Câu Lợi Ca tiếng Phạn là Kolika cũng chính là tên quê hương của
tôn giả. Sau khi lễ
trà tỳ xong
toàn thân Xá lợi được đưa về quê hương
Câu Lợi Ca để lưu giữ trong một
Phật tháp cách chùa Na Lạn Đà khoảng tám chín dặm về
hướng Tây Nam.
Na
Lạn Đà là ngôi chùa Phật nỗi tiếng
nhất thời bấy giờ ở
Ấn Độ. Rất nhiều
đại sư phái
Đại thừa tu tập và
nghiên cứu Phật giáo ở đây.
Lịch sử của chùa rất xưa, quy mô vĩ đại, kinh sách
vô cùng phong phú và là một trong các
trung tâm văn hóa chủ yếu của
Ấn Độ thời cổ đại. Trong
thời gian Tây Du, Ngài Trần
Huyền Trang lưu học tại chùa Na Lạn Đà lâu hơn cả, hơn năm năm, được đích thân
đại sư Giới Hiền truyền thụ ba thiên “Du Già Dư Địa Luận” và được
nghiên cứu kinh điển của
đại sư cũng
như học tiếng Phạn. Có thể nói đây là
thời kỳ đạt nhiều
thành quả nhất
của
Tam Tạng Pháp Sư trong giai đoạn ở
Ấn Độ.
Trong chùa Na Lạn
Đa có đến mấy ngàn tăng nhân, đều là những người
tài năng xuất chúng,
kiến thức uyên bác.Những người được
kính trọng về mặt
đạo đức, có
uy tín trong và ngoài nước có đến hàng trăm. Họ
tuân thủ giới quy, có phẩm
hạnh
thanh bạch,
am hiểu giới luật,
tín ngưỡng kiên định được người trong toàn nước
Ấn Độ ngưỡng mộ
sùng bái. Họ cùng nhau
tranh luận,
học hỏi lẫn nhau về
Phật pháp huyền diệu. Ngày này qua ngày khác, họ
học hỏi không ngừng, bất kể ngày đêm, họ
đốc thúc nhau, khuyến khích nhau, già cũng như trẻ hỗ trợ nhau
hoàn thành học nghiệp. Do đó nếu ai không có khả năng bàn đến
nghĩa lý Phật học sâu xa thì
cô độc không có bạn bè. Cho nên,
giới học giả ngoại quốc thường đến đây học tập thì mới có
tiếng tăm. Những người muốn đến đây học tập trước hết phải qua một kỳ trắc nghiệm, phần đông không đạt, phải chịu ra về, chỉ những người có
kiến thức sâu rộng mới có thể được nhận vào
tu học. Những
học giả nước ngoài, thường mười người có đến bảy tám người, sau khi
đàm luận học nghiệp, chịu thất bại ra về. Vài người
học rộng còn lại, cùng
đàm luận với tăng nhân trong chùa, cũng không
tránh khỏi bị bắt bẻ, làm cho
danh
tiếng bị
lu mờ. Chùa Na Lạn Đà gồm những bậc
cao tăng đức trọng, tài cao
học rộng, giỏi nhiều
lãnh vực, vì xã bỏ
việc đời mà
quay về nơi cảnh Phật. Có những vị như
Hộ Nguyệt mà
tiếng tăm lưu truyền trong
học giới Phật giáo. Đức Tuệ,
Kiên Tuệ mà
đạo đức vang danh trong đời. Quang
Hữu nghị luận cực kỳ
thanh nhã.
Thắng Hữu thì lời lẽ rất
cao minh.
Trí
Nguyệt có
phong độ tác tuyệt,
kiến thức và sự
thông tuệ tuyệt vời. Sau
cùng ngài
Giới Hiền đức hạnh cao thượng,
kiến thức thâm sâu. Họ là những tăng nhân
kiệt xuất,
tài đức vượt hẳn những người
đi trước. Họ
biên soạn, chú thích nhiều
tác phẩm và mỗi người có trên mười
tác phẩm được
lưu truyền rộng rãi cho đến ngày nay.