THANH TINH TÂM
Lê Sỹ Minh Tùng
Tôn Giả Ưu Bà Ly, Đệ Nhất Trì Giới (Upali)
Ưu Bà Ly xuất thân từ dòng hạ tiện
Thủ Đà La cho nên suốt
cuộc đời chỉ phải làm
nô bộc cho kẻ khác mà thôi. Trong
xã hội của
Ấn Độ lúc bấy giờ thì
giai cấp Thủ Đà La chịu nhiều sự kỳ thị, khinh bỉ nhất bởi vì người sanh ra trong
giai cấp nầy bị
xã hội ruồng bỏ như là đồ phân uế,
dơ bẩn. Người
Thủ Đà La nếu gặp hàng
Bà La Môn hay
Sát Đế Lợi trên đường đi thì phải quỳ xuống bên đường nhường lối. Nếu lén nhìn sẽ bị móc mắt, còn nếu
lý luận với hai hạng trên sẽ bị cắt lưỡi. Thật đáng thương cho
Ưu Bà Ly vì
trót đã sanh ra trong dòng
Thủ Đà La thì phải chịu một kiếp đời
bi thương sầu thảm.
Khi còn
thơ ấu,
Ưu Bà Ly không được hưởng
quyền lợi về học vấn nhưng cậu ta rất được
cha mẹ thương yêu. Thật ra thì lòng thương con của
cha mẹ lúc nào cũng
bao la đâu có
phân biệt giai
cấp sang hèn hay hạ tiện.
Đến khi khôn lớn,
cha mẹ muốn chọn cho
Ưu Bà Ly một nghề nghiệp để nuôi thân. Muốn cho con mình có cơ hội tiến thân như những nghề thương buôn hay
công chức thì đòi hỏi phải có học vấn mà
giới Thủ Đà La thì không được đi học
thành thử kiếp nghèo cứ đeo đuổi họ từ đời nầy sang đời khác. Đối với phần lớn dân nghèo ở
Ấn Độ thì nghề nông, nghề khuân vác, hoặc làm
nô lệ cho nhà giàu là
con đường chọn lựa
duy nhất của họ để kiếm tiền nuôi thân và nuôi
gia đình.
Ban đầu thì
cha mẹ tính cho
Ưu Bà Ly học nghề làm ruộng, nhưng nghề nầy
đòi hỏi người cày cuốc phải có
sức lực, mà
Ưu Bà Ly bẩm chất ốm yếu gầy còm thì ông ta tất phải yểu mạng. Còn nếu muốn làm
nô lệ cho nhà
phú hộ thì điều
cần yếu là phải chọn được chủ nhân tử tế bằng không thì
cuộc đời càng thêm
thê thảm. Sau cùng họ chọn cho
Ưu Bà Ly học nghề hớt tóc vì nghề nầy
tương đối nhẹ nhàng và
thích hợp với
con người Ưu Bà Ly nhất.
Mặc dầu xuất thân là chốn hèn hạ, nhưng
Ưu Bà Ly bản chất thông minh nên
học nghề rất dễ dàng, tánh tình lại khiêm tốn và lại có
thói quen vâng lời nên học các kỹ thuật hớt tóc chải bới
tương đối khá nhanh. Sau một
thời gian ngắn,
Ưu Bà Ly đã thành thuộc các kiểu cắt tóc thời trang cũng như cắt tỉa cho những hàm râu rậm rạp của những tay
phú hộ.
Thời may, khi tay nghề
vững chắc,
Ưu Bà Ly được người
giới thiệu và thâu nhận vào vương cung
Ca Tỳ La Vệ để hớt
tóc và làm đẹp cho các vương tôn công tử. Tuy chỉ là một người thợ hớt
tóc, nhưng
tâm tánh Ưu Bà Ly rất thuần lương, trung hậu cho nên làm việc trong cung thành không bao lâu thì
Ưu Bà Ly đã được sự
tín nhiệm của các vương tôn công tử. Các vị hoàng tử như
Bạt Đề,
A Na Luật rất thích anh chàng thợ cạo nầy. Ngoài lối cắt nhanh gọn, khéo léo nhẹ nhàng và không làm đầu đau,
Ưu Bà Ly được
mọi người ưa chuộng và
dĩ nhiên Ưu Bà Ly lúc nào cũng
kính trọng tất cả những vương tôn công tử nầy.
Cạo Tóc Cho Đức Phật Khi
Đức Phật thành đạo đã ba năm thì Ngài
trở về cung
thành Ca Tỳ La Vệ để thăm lại phụ vương và
gia đình.
Lúc ấy Ưu Bà Ly vào khoảng 20 tuổi và đã
trở thành một người thợ hớt tóc lành nghề. Khi
Đức Phật đến ngày
cạo tóc thì
hoàng cung mới
giới thiệu Ưu Bà Ly cho
Đức Thế Tôn.
Khi
Ưu Bà Ly nghe tin ấy thì
cảm thấy lo sợ hoang mang, nhưng ông ta tự nghĩ rằng
Đức Phật là bậc
đại giác có 32 tướng tốt thì
nhất định đầu tóc của Ngài phải khác với người thường. Càng
suy nghĩ,
Ưu Bà Ly càng lo sợ bởi vì nếu
lỡ tay xúc phạm đến
Thế Tôn thì làm sao tránh được
trọng tội.
Ưu Bà Ly bèn đem
nỗi
lo âu bàn với mẹ vì
gia đình của
Ưu Bà Ly là dòng hạ tiện thì trên
nguyên tắc không được phép nhìn đến gót chân của Phật chớ đừng nói chi
đến
cạo tóc cho Ngài.
Mẫu thân nghe xong bèn
an ủi con mình vì chính bà đã từng
nghe đồn đức Phật là bậc rất
từ bi và thường
thuyết pháp cho
người
nghèo khổ cho nên Ngài sẽ không có
thành kiến và khinh bỉ
giới Thủ Đà La như trong
xã hội lúc bấy giờ. Tuy được mẹ
an ủi như vậy, nhưng
Ưu Bà Ly vẫn không
an tâm nên
cuối cùng bà bảo sẽ cùng đi với
Ưu Bà Ly đến chỗ Phật ngày mai.
Hôm sau, bà mẹ dẫn
Ưu Bà Ly đến
yết kiến Đức Phật và sau đó được Phật
cho phép cạo tóc.
Ưu Bà Ly cẩn thận, chú ý từng chút và làm việc rất chậm rãi. Bà mẹ đứng
kế bên
theo dõi, một lúc sau mới quỳ
trước mặt Phật mà thưa:
- Bạch Thế Tôn! Kỹ thuật
cạo tóc của
Ưu Bà Ly ra sao?
Đức Phật chú ý nhìn
Ưu Bà Ly một lúc rồi đáp:
-
Thân thể rất cong.
Vì
Ưu Bà Ly quá
cung kính Đức Phật nên khi
cạo tóc thì ông ta cúi khom lưng mà cạo chớ không dám
ngẩng đầu lên. Nghe
Đức Phật nói thế thì ông ta lại cố tập
trung tâm ý nên vô tình đã tấn nhập
sơ thiền. Một lúc sau,
bà mẹ lại quỳ xuống thưa:
- Kính bạch Thế Tôn! Lúc này
Ưu Bà Ly cạo tóc thế nào?
Đức Phật lại đáp:
- Lúc nầy
thân thể rất ngay thẳng!
Ưu
Bà Ly nghe Phật nói thế thì chẳng dám khởi
vọng tưởng và
tiếp tục tư duy cho nên
đạt được nhất tâm nhất ý và đây là
công phu nhập
nhị thiền.
Chẳng bao lâu, bà mẹ lại
cung kính hỏi thăm:
- Kính bạch Thế Tôn! Bây giờ
Ưu Bà Ly cạo tóc ra sao ạ?
Phật
trả lời:
-
Hơi thở vào quá nhẹ.
Ưu Bà Ly nghe nói liền tập
trung tâm ý vào
hơi thở và
tiếp theo đó
Ưu Bà Ly nhập được vào
tam thiền.
Sau cùng bà mẹ liền hỏi:
- Kính bạch Thế Tôn!
Hiện tại Ưu Bà Ly cạo tóc như thế nào?
Đức Phật đáp:
-
Hơi thở ra quá nhẹ.
Lúc
ấy Ưu Bà Ly tâm chẳng khởi một niệm đến nỗi ông ta quên luôn con dao cạo trong tay và chính lúc nầy
Ưu Bà Ly đã nhập vào
tứ thiền.
Đức
Phật quan sát sự tuần hành
thiền định của
Ưu Bà Ly nên khi thấy ông ta
đã nhập vào
tứ thiền thì liền kêu một vị
tỳ kheo đứng gần đó mà dạy:
- Ông đến lấy con dao cạo trong tay
Ưu Bà Ly ra, chú ấy nhập thiền nên không còn tưởng niệm gì cả và cần một người đỡ giùm
nếu không ông ấy sẽ té xuống đất.
Với
bản chất ưa suy tư và nghiêm túc nên trong cuộc sống
Ưu Bà Ly được nhiều người
thương yêu và giúp đỡ. Ngay chính cả
bản thân của mình,
Ưu Bà Ly cũng không để cho ai dèm chê hay phiền trách, do đó, về sau
Ưu Bà Ly được xưng là đệ
nhất trì giới thì thật là
không hổ danh vậy.
Xuất Gia Theo Phật Khi
Đức Phật
trở về cung
thành Ca Tỳ La Vệ thì Ngài đã đem
hạt giống Bồ đề gieo khắp nơi trong
hoàng cung. Khi những
hạt giống nầy gặp duyên lành thì chúng nẩy mầm
tăng trưởng. Phần lớn những vương tôn công tử sau khi nghe
Phật thuyết pháp đều có
ý định xuất gia theo Phật. Trong số nầy thì có bảy vị vương tử là
Bạt Đề,
A Nan,
A Na Luật,
Kiếp Tân Na,
Bà Sa,
Nan Đề và
Đề Bà cùng nhau
xuất gia.
Mặc dầu cha mẹ không
đồng ý, nhưng họ
quyết định xuất gia trước rồi sẽ báo tin cho
hoàng cung biết sau. Muốn
xuất gia thì phải cạo bỏ tóc râu vì thế các ông hoàng nầy bắt
buộc phải đem
Ưu Bà Ly theo. Nhóm tám người nầy sau khi lén trốn ra khỏi cung thành thì cùng nhau tìm đến rừng
Ni Câu Đà để tìm
Đức Phật. Trong khu rừng gần kề
tịnh xá của Phật, khi
cạo tóc cho vương tử
Bạt Đề xong thì
Ưu Bà Ly đã tuôn từng giọt nước mắt. Thấy thế,
A Na Luật ngạc nhiên hỏi:
- Ngươi thấy
chúng ta xuất gia, đáng lý phải
vui vẻ chớ tại sao lại khóc?
Ưu Bà Ly sợ sệt đáp:
- Thưa vương tử! Xin ngài khoan thứ cho sự
vô lễ của kẻ
tiện dân. Chỉ vì
vương tử
Bạt Đề đối xử với hạ dân rất tử tế nên hôm nay ngài
xuất gia với các vương tử thì kẻ hèn nầy không còn được gặp lại. Nghĩ đến đó mà hạ dân không cầm được nước mắt. Xin vương tử đừng
trách mắng.
A Na Luật nghe xong,
thông cảm và
an ủi Ưu Bà Ly:
- Ngươi đừng
lo lắng,
chúng ta sẽ giúp đỡ cho ngươi sinh sống. Nói xong quay sang các vương tử và nói tiếp:
- Này các vương huynh đệ!
Ưu Bà Ly hầu
hạ chúng ta cũng khá lâu. Y rất siêng năng,
trung thành cho nên hôm nay
chúng ta đi
xuất gia thì cũng giúp cho y có cuộc sống khá hơn.
Chúng ta hãy gói tất cả những đồ trang sức trên thân mình lại cho
Ưu Bà Ly vì
chúng ta xuất gia rồi thì đâu
cần dùng mấy thứ nầy nữa.
Các vương tử đều tán
thành ý kiến của
A
Na Luật. Mỗi người đều cởi
y phục gấm vóc và đồ trang sức
châu báu tặng cho
Ưu Bà Ly và bảo
trở về cung
thành Ca Tỳ La Vệ, còn họ thì đi tìm Phật.
Các vương tử đi rồi,
Ưu Bà Ly định quay
trở về nhưng
lúc ấy tự nhiên đổi ý vì nghĩ rằng:
- Bây giờ ta đem những thứ
trân bảo nầy về thành thuật lại thì lão vương
và
hoàng gia đại thần
nhất định sẽ
gán cho ta tội a tòng đưa các vương
tử đi
xuất gia. Tội nầy khó toàn
tính mạng. Các vương tử tôn quý như thế mà còn bỏ
vinh hoa phú quý của
thế gian để đi
xuất gia, còn kẻ hạ tiện như ta thì có cái gì trên
cuộc đời nầy để mà lưu luyến? Hay là ta cũng đi tìm Phật để xin được đi tu.
Lòng đã quyết,
Ưu Bà Ly không còn chút
do dự bèn đem bọc đồ gói
trân châu bảo vật treo lên một nhánh cây để mặc ai đi ngang qua nếu thấy được thì lấy về mà xài, còn mình thì đi về hướng
tịnh xá Đức Phật.
Nhưng đi được một đoạn đường,
Ưu Bà Ly chợt nghĩ đến
thân phận hạ tiện của mình thì trong lòng
nổi lên niềm bi ai tủi hổ.
Ưu Bà Ly cầm lòng không đậu bèn ngồi bên đường khóc lóc và tự nhủ:
- Ta làm gì có
tư cách để xuất gia? Các vị ấy là vương tôn công tử còn ta chỉ là bần dân
nô bộc thì làm sao dám sánh
ngang hàng xuất gia với vương tôn?
Ưu
Bà Ly than thở oán trách cho
thế gian không công bình và giận cho số phận mình không may. Trong lúc
Ưu Bà Ly vừa buồn vừa khóc như
vậy thì ở
bên tai có người hỏi:
- Có chuyện gì mà anh khóc lóc buồn thảm như vậy?
Ưu Bà Ly ngó lên thấy
tôn giả Xá Lợi Phất thì vội
chùi nước mắt và quỳ xuống thưa:
- Bạch tôn giả! Ngài là
đệ tử của
Đức Phật, khi ngài theo Phật về
hoàng cung con có được biết ngài. Xin thỉnh ý ngài, một người dòng
Thủ Đà La như con không biết có được theo Phật
xuất gia làm
đệ tử hay không? Con đã mạo muội
vọng tưởng như vậy, thật quá quắt, xin
tôn giả từ bi chỉ bảo.
Xá Lợi Phất hỏi lại:
- Anh tên gì?
- Con tên
Ưu Bà Ly.
Tôn giả bèn nhớ lại khi trước có chú thợ cạo của
Đức Phật đã nhập
tứ thiền, nên
tôn giả nói:
-
Giáo pháp của
Đức Phật rất
tự do bình đẳng, không kể người trí hay người ngu, không
phân chia nghề nghiệp sang hèn mà chỉ cần có khả năng
giữ gìn giới luật thì ai ai cũng có thể làm
đệ tử của Phật. Phật dạy ai cũng có thể
xuất gia và ai cũng có thể
chứng quả vô thượng chánh giác. Anh hãy theo ta,
Đức Thế Tôn nhất định sẽ
hoan hỷ thâu nhận anh làm
đệ tử xuất gia.
Ưu Bà Ly nghe nói thì
hết sức mừng rỡ nên
theo sau tôn giả Xá Lợi Phất về
bái kiến Đức Phật.
Đức Phật cũng
hoan hỷ làm lễ thế độ cho
Ưu Bà Ly và trao luôn
cụ túc giới.
Đức Phật dạy
Ưu Bà Ly rằng:
- Ông rất có
thiện căn, ta biết ông sau nầy
nhất định sẽ
tuyên dương chánh pháp của ta. Trước khi ông đến đây, các vương tử đã đến xin ta làm lễ thế độ. Tuy ta đã thâu nhận họ làm
đệ tử nhưng phải
gia hạn cho họ
tu tập trong bảy ngày. Đợi cho họ quên được
tập khí vương
tử rồi và chỉ còn
nhận thức là
đệ tử của ta thôi thì ta sẽ làm lễ cho họ, lúc đó họ sẽ dùng
lễ độ ra mắt ông.
Ưu Bà Ly cảm động đến
rơi lệ. Tuy ngày trước đã có dịp
cạo tóc cho
Đức Phật, nhưng không ngờ đức
từ bi của Ngài cao rộng như thế.
Ưu Bà Ly tự nguyện
cố gắng siêng năng
tu tập và sẽ luôn luôn theo
Phật học tập để khỏi phụ
lòng từ bi của
Đức Thế Tôn.
Bảy ngày sau,
Đức Phật cho gọi bảy vị vương tử ra mắt
đại chúng. Ở giữa đông đảo
huynh đệ thì họ bất ngờ khi nhìn thấy
tỳ kheo Ưu Bà Ly. Họ
kinh ngạc và
do dự không biết phải gọi
Ưu Bà Ly như thế nào cho đúng.
Lúc ấy Đức Phật nghiêm nghị bảo:
- Các ông
do dự điều gì? Trong pháp
xuất gia học đạo việc trước nhất là
hàng phục tâm kiêu mạn. Ta đã cho
Ưu Bà Ly xuất gia trước,
thọ giới trước thì các ông phải
đảnh lễ thầy ấy chớ còn sao nữa.
Bạt Đề và
toàn thể bảy vị
nghe lời Phật dạy đều khiêm tốn cúi đầu
đảnh lễ Ưu Bà Ly. Đối với họ thì
cảm thấy tín tâm xuất gia càng thêm mạnh mẽ, nhưng
Ưu Bà Ly thì
cảm thấy lúng túng không an. Phật dạy rằng:
- Ưu Bà Ly! Ông cũng nên dùng lễ huynh trưởng mà đối với các ông ấy.
Ưu Bà Ly hết cả e ngại,
cảm động quá chỉ còn biết
đảnh lễ Đức Phật.
Một
người là kẻ
nô lệ hạ tiện đã từng
phục dịch cho những vương tôn công tử nầy mà nay ở trong
Phật pháp lại được
lãnh thọ sự
đối đãi ngang hàng. Đây
quả thật là việc chưa từng xảy ra trong một
xã hội nặng nề
giai cấp như
Ấn Độ. Chính
Đức Phật đã
san bằng những sự bất công trong
xã hội và khuyến khích
mọi người có cùng cơ hội để hướng thiện và
hướng
thượng bằng cách phát huy
tinh tấn trí tuệ của mình.
Việc
Ưu Bà
Ly xuất gia khiến cho
pháp chế của
Đức Phật dần dần được
thực hiện. Thật vậy trong
tăng đoàn không có sự
phân chia chủng tộc và
giai cấp cho nên về sau
Ưu Bà Ly được chứng
thánh quả thật không phụ
ân huệ từ bi của
Đức Thế Tôn.
Phật Nói Tiền Kiếp Ưu Bà LyƯu
Bà Ly xuất gia không bao lâu thì đã
tinh tấn tu đạo và
khai ngộ. Tính ra
tôn giả xuất gia chưa được một năm mà đã chứng được
thánh quả và
trở
thành một bậc
thượng thủ trong
tăng đoàn với sự
tôn kính của hai
chúng
tại gia và
xuất gia. Việc
Ưu Bà Ly trở thành A La Hán làm cho nhiều người
kinh ngạc, một người dòng
Thủ Đà La thấp hèn mà
căn cơ mẫn nhuệ đến như vậy chẳng những làm
rạng rỡ cho dòng
Thủ Đà La thấp hèn mà càng
làm
vẻ vang cho
tinh thần bình đẳng của
Phật giáo.
Nhân dịp nầy,
Đức Phật đặc biệt nói đến một đoạn
tiền kiếp của
Ưu Bà Ly.
Về
thời
quá khứ, có hai người bạn đều sanh trong nhà bần cùng, tuy vậy cả
hai đều không quên làm
việc thiện như
bố thí và
cúng dường. Do
nhân duyên công đức ấy về sau họ
tái sanh, một người làm
quốc vương tên là
Phạm Đức, còn người kia sanh trong một
gia đình Bà La Môn cao quý tên là
Ưu
Bà Già. Ưu
Bà Già kết hôn với một tiểu thơ cành vàng lá ngọc và
hết
lòng thương yêu ông ta.
Mặc dầu có vợ
xinh đẹp như thế, nhưng Ưu
Bà Già lại có máu lăng nhăng với những cô gái khác. Bị vợ bắt gặp, khiến bà ta
hờn giận, nằm lăn khóc ba bốn ngày và chẳng còn muốn nói chuyện với ông ta.
Cô vợ trẻ
đa nghi hung dữ làm cho Ưu
Bà Già rầu rĩ không thôi.
Cho đến một hôm,
nhân dịp mùa hạ sắp sang, cô vợ bấy lâu nay không nói chuyện, bỗng nhiên nói với Ưu
Bà Già:
- Bữa nay
phu quân hãy ra phố mua ít
hoa tươi về
trang hoàng trong căn phòng của
chúng ta nhé.
Ông
chồng
đa tình nghe vợ nói mấy lời thì rất
vui mừng nên
lập tức ra chợ tìm
hoa tươi. Mua xong khi về giữa đường gặp lúc trời trưa
nóng bức, nhưng tâm tình ông ta rất cao hứng vì được
giảng hòa với vợ nên ông ta vừa đi vừa lớn tiếng hát vang.
Lúc ấy vua
Phạm Đức đang ở trong cung,
nhân lúc ngẩu hứng bèn lên lầu cao
quan sát phong cảnh. Nhà vua thấy Ưu
Bà Già vừa đi vừa hát trông rất
lạc quan, bèn nổi tánh
hiếu kỳ mà cho người gọi đến để hỏi chuyện. Hai người đàm đạo rất tương đắc làm cho nhà vua
hết sức hài lòng, bèn phong cho Ưu
Bà Già một chức quan lớn
trong triều và từ đó rất kính mến Ưu
Bà Già.
Ưu
Bà Già được vua
Phạm Đức tín nhiệm thì
uy quyền càng ngày càng lớn
cho đến về sau
nhân
dân chỉ biết có Ưu
Bà Già mà không biết có vua
Phạm Đức. Càng giàu thì
càng tham cho nên một hôm
nhân lúc vua
Phạm Đức đang ngủ say thì Ưu
Bà
Già khởi
ý định hành thích vua để đoạt ngôi.
Đang lúc nuôi
âm mưu soán
đoạt, bỗng nhiên ông ta giật mình
tỉnh ngộ mà thấy rằng lòng tham về
danh lợi quyền tước thật đáng
ghê sợ. Ông ta đem những niệm
ác độc của mình thuật lại cho vua
Phạm Đức nghe. Nhà vua càng nghe thì càng khen ngợi lòng trung hậu của ông ta. Sau đó, Ưu
Bà Già nguyện
từ bỏ địa vị cao sang,
gia đình giàu có mà
sám hối xuất gia. Ông
tu hành không bao lâu thì
đạt được thần thông và
chứng quả. Trong
hoàng cung lúc bấy giờ có người thợ hớt tóc tên là
Hằng Già Ba La rất khen ngợi chí
xuất gia của Ưu
Bà Già nên sanh tâm
tùy hỷ và cũng
phát nguyện xuất gia làm
đệ tử
Ưu
Bà Già để cố tâm
tu đạo và sau cùng cũng
đạt được thần thông như thầy vậy.
Hai thầy trò Ưu
Bà Già đều
trở thành hai bậc thánh và có
thần thông ngang nhau. Một hôm, vua
Phạm Đức lên núi
cúng dường Ưu
Bà
Già. Sau khi
đảnh lễ Ưu
Bà Già rồi thì nhà vua
nghĩ thầm: Đối với bậc thánh không nên so đo về chỗ
xuất thân quá khứ” bèn tự mình làm gương mà hướng về
Hằng Già Ba La đảnh lễ. Nhà vua bảo cả trăm
quan đại thần cùng
đảnh lễ như mình.
Tỳ kheo Hằng Già Ba La tuy
xuất thân hạ tiện mà do oai lực của
Phật pháp khiến ngay cả nhà vua cũng quỳ lạy.
Đức Thế Tôn kể xong
câu chuyện thì
trân trọng bảo
đại chúng:
- Ưu
Bà Già thuở ấy chính là thân ta, còn người thợ hớt tóc
Hằng Già Ba La nay chính là
Ưu Bà Ly vậy.
Đức
Phật muốn nhắn nhủ với
đại chúng là vì
tham quyền mà
con người dễ sanh
tâm sát hại. Ngay cả
tiền thân Đức Phật trong
thời kỳ tu nhân thì chính Ngài cũng đã từng
nuôi dưỡng ý niệm đó. Còn
Ưu Bà Ly tuy là dòng
Thủ Đà La mà
hiện tại đã được
chứng quả thánh, làm bậc
thượng thủ trong
tăng đoàn và được
mọi người kính trọng thì chuyện ấy không phải là lần
đầu tiên mà đã có
nguyên nhân trong đời quá khứ.
Đức Phật nói pháp rồi khiến tất cả lòng
nghi ngờ trong
đại chúng đối với
Ưu Bà Ly hoàn toàn biến mất.
Đức Nhẫn NhụcSau
khi
chứng ngộ, với
bản tánh cẩn thận nên đối với giới điều mà
Đức Phật
đã chế ra thì
tôn giả nhất nhất tuân thủ và không hề
vi phạm do đó các
bậc
tỳ kheo đồng học đều tôn xưng là bậc đệ
nhất trì giới.
Về
vấn đề nầy, nếu là người
chân chính thì họ đối với các bậc
trưởng lão nghiêm
trì giới luật như
Ưu Bà Ly rất
cung kính và
hoan hỷ cúng dường. Còn người nào không tuân quy cũ và không nghiêm
trì giới hạnh thì lại không thích người
trì giới. Đây cũng là chuyện
tự nhiên mà thôi. Do đó, trong
tăng đoàn cũng có một số người không mấy
ưa thích Ưu Bà Ly, thậm chí họ còn
phê bình nặng nhẹ
tôn giả là khác.
Một hôm,
tôn giả Ưu Bà Ly cùng một nhóm các
tỳ kheo trì giới đi
du hóa các nơi để hoàng dương
đạo pháp và đề cao
tinh thần trì giới.
Tôn giả đến đâu cũng được
mọi người nghinh đón, nhưng ngược lại có một số
tỳ kheo khi
nghe tin tôn giả đến thì chẳng vui chút nào. Họ
bàn luận với nhau:
- Hôm nay
tỳ kheo trì giới Ưu Bà Ly đến đây . Lão mà tới
nhất định sẽ có
chuyện dạy dỗ
chúng ta chuyện gì nên làm, chuyện gì không được làm khiến cho
chúng ta thêm
nghi ngại mà thôi.
Chúng ta nên
tìm cách cản trở lão ấy đừng cho ghé đây.
- Lão ta đến thì mình
đóng cửa lại và đem
tọa cụ ra treo ngoài cửa đừng thèm hỏi han
gì lão.
Tỳ kheo khác đáp.
- Cần gì phải bận tâm thế. Nếu lão vừa tới thì ta bỏ đi
nơi khác.
Ưu
Bà Ly vẫn thường gặp
tình cảnh như thế nên trong lòng
hối hận, không muốn đi ra ngoài
hoằng pháp, nhưng
Đức Phật lại thường
cổ động tôn giả nên ngài khó
chối từ.
Một hôm nọ có
tỳ kheo ni Thâu Lan
Nan Đà tự nhiên đến mắng ngay
tôn giả Ưu Bà Ly:
- Ông không phải là người
chân tu. Ông chuyên môn ưa gây
sóng gió vậy chớ tại sao ông
cứ theo hỏi
Đức Phật là chuyện nầy nên làm còn chuyện kia thì không khiến cho cuộc sống của
chúng tôi càng thêm khổ sở rối ren?
Gặp những cảnh như vậy,
Ưu Bà Ly chỉ dùng đức
nhẫn nhục để giữ
tâm thanh tịnh mà không
trả lời qua lại hay phân bua hơn thiệt. Thật vậy, một vị
tỳ kheo giữ giới nghiêm minh thì người
tu đạo chân chính sẽ rất hoan nghinh, còn đối với kẻ tu
giả dối thì
dĩ nhiên là không ưa không thích.
Đức Phật rất
lưu tâm đến
tôn giả nên mỗi khi gặp các
tỳ kheo đi hoằng hóa các nơi
trở về thì Ngài đều
thăm hỏi:
- Các ông có gặp
tỳ kheo Ưu Bà Ly không?
- Bạch Thế Tôn! Con có gặp,
tôn giả đang
giáo hóa nơi đó.
Phật lại hỏi:
- Tại nơi ông ấy đi ngang,
mọi người có
cung kính cúng dường không?
- Bạch Thế Tôn! Có những địa phương chẳng đủ lễ đối với
tôn giả. Đối với
chúng tại gia thì không biết
tôn giả là bậc
trì giới, còn
tỳ kheo xuất
gia thì chẳng muốn gặp
tôn giả, thậm chí còn có
tỳ kheo ni nổi sân
mắng chửi nữa.
Đức Phật hoài nghi hỏi:
- Như thế là làm sao?
Tỳ kheo kia thật tình thưa:
-
Tại vì mọi người thấy rằng sống chung với một
tỳ kheo trì giới thật là bất tiện.
Đức
Phật nghe xong
không vui liền
triệu tập các
tỳ kheo để
dạy bảo rằng
giới luật rất đáng tôn quý và người giữ
trì giới như
ngọn đèn sáng vậy. Người có phẩm hạnh đoan chánh và
thân tâm thanh tịnh tự nhiên ưa thích chỗ sáng lạn, còn những ai thích làm điều quấy phá
ám muội mới không ưa
ánh sáng và thích
chỗ tối tăm.
Đức Phật cho người mời các
tỳ kheo và
tỳ kheo ni Thâu Lan
Nan Đà đã
vô lễ với
Ưu Bà Ly đến. Ngài hỏi rằng:
- Các ông
cự tuyệt Ưu Bà Ly, tránh mặt không gặp và
sân si ác khẩu mắng chửi ông ấy, thật có như vậy chăng?
Những người nầy không dám
nói dối đối với Phật, nên chỉ biết
chấp nhận:
- Bạch Thế Tôn! Dạ phải, chúng con
quả thật có
vô lễ với
tôn giả.
Đức Phật nghiêm nghị quở trách:
- Các ông thật là ngu si! Không
cung kính tỳ kheo trì giới thì còn ai đáng
cung kính hơn? Giới là thầy của các ông, giới ở nơi nào thì pháp ở nơi đó. Giới còn thì pháp còn mà các ông không
cung kính tỳ kheo trì giới chứng tỏ các ông có ý đồ
phi pháp.
Vì
quý mến Ưu Bà Ly mà
Đức Thế Tôn quở trách nặng nề các
tỳ kheo,
tỳ kheo ni như thế thì đủ biết
tôn giả Ưu Bà Ly đã có
địa vị trọng yếu trong
tăng đoàn của
Đức Phật đến đâu.
Trong
tăng đoàn, người
y pháp tu hành chứng quả rất
nhiều mà người
phạm giới cũng không ít. Về phía
tỳ kheo thì có các ông
Ca Lưu Đà Di,
Đề Bà Đạt Đa… và phía
tỳ kheo ni thì có Tu Ma, Bà Phả, Thâu Lan Nan Đà… đều hay
phạm giới. Hạnh ác của họ thường
làm Phật phiền
lòng. Vì thế Ngài thường khuyên
mọi người nên lấy
tôn giả Ưu Bà Ly làm
tấm
gương sáng mà
tu hành.
Tăng đoàn vốn
thanh tịnh và
hòa hợp, nhưng các
tỳ kheo tánh xấu thì rất khó mà
sửa đổi. Đôi khi họ còn gây ra những cảnh kình địch
phi pháp. Thầy nầy không nhường thầy kia làm đôi bên
hiềm khích mà
ảnh hưởng đến sự
tu hành của
đại chúng và
dĩ nhiên ảnh hưởng nặng nề đến
thanh danh của
Phật giáo.
Mỗi khi ở nơi nào có
tỳ kheo hay
tỳ kheo ni khởi sự tranh cãi thì
Đức Phật phải cử một vị
trưởng lão đến đó
giải hòa phân xử. Người có
đủ tư cách làm việc
nầy không
nhất thiết phải là bậc danh cao đức trọng mà
cần yếu là có thể
phân minh phải trái và có tài cầm cân công bình là được.
Mỗi
khi có sự tranh cãi ở đâu,
Đức Phật đều sai
tôn giả Ưu Bà Ly đến phân xử. Những việc gây gổ ở nước Câu Diệm Di và ở nước Sa Kỳ thì
Ưu Bà Ly đã từng làm
sứ giả hòa bình như nắng xuân
ôn hòa chiếu đến nơi nào thì những khối băng tuyết giá lạnh lẽo
tự nhiên tan chảy.
Ưu Bà Ly thường theo Phật nên
tôn giả thường xuyên ở tại thành
Xá Vệ vì thế các
tỳ kheo nơi đây rất
hòa hợp.
Ưu Bà Ly hiểu ý Phật cho nên mỗi khi
vâng lời Phật đi dẹp việc cãi vã,
tôn giả có nguyên tắc là không đem việc gây
gổ ở chỗ nầy đi nói lại cho chỗ kia. Ý của
tôn giả là không đem kẻ xấu
nơi đây nói cho người chỗ khác nghe. Nơi nào
thị phi nơi ấy biết,
tôn giả không thích làm lớn chuyện
bất hòa.
Với
tư cách hòa chúng như vậy,
tôn giả thật xứng đáng là bậc
trì giới và là bậc
thượng thủ trong
tăng đoàn.
Một
hôm, đang trong
mùa an cư kiết hạ,
Đức Phật sai
tôn giả đến nước Sa Kỳ
dẹp một nhóm
gây lộn.
Ưu Bà Ly từ chối không đi,
Đức Phật hỏi:
- Vì sao ông không đi?
Ưu Bà Ly biết
câu chuyện nầy không dễ nên ngoài
Đức Phật giải hòa thì không ai kham nổi.
Tôn giả chỉ mượn cớ
thoái thác:
- Bạch Thế Tôn! Cái y
tăng già của con quá dầy, nếu như đi đường gặp mưa ướt không khô, mà mang thêm một y nữa thì không
hợp pháp. Xin
Đức Thế Tôn từ bi phen nầy đừng sai con đi được không?
Phật nghe xong,
suy nghĩ giây lát rồi lại hỏi:
- Ông đi phen nầy mấy hôm trở về?
- Bạch Thế tôn! Nếu như con phải đi thì từ
Xá Vệ đến nước Sa Kỳ mất hai ngày, ở đó hai ngày rồi
trở về cũng mất hai ngày. Như vậy chuyến đi về phải mất sáu ngày.
Đức Phật gật đầu nói:
- Từ nay về sau, trong
thời gian an cư,
tỳ kheo giữ trong người hai cái y
và được phép trong sáu ngày không phạm.
Vì muốn
Ưu Bà Ly đi
điều tra việc gây gổ mà
Đức Phật đã
sửa đổi giới điều. Chẳng phải
Đức Thế Tôn đem
pháp luật chìu theo người mà vì
Ưu Bà Ly đã có
địa vị rất
trọng yếu đối với
Phật pháp.
Đức Phật sai
Ưu Bà Ly đi
điều tra chuyện gây gổ và dẹp tranh cãi. Phật cũng thường bảo
Ưu Bà Ly nên làm phép
yết ma sám hối cho họ. Do đó mọi
trường hợp gây gổ
dần dần biến mất.
Quả thật tôn giả là một vị
trưởng lão hòa bình khéo léo nhất.
Vài Điều Giới Luật MớiTrong
chủng tộc Thích Ca của cung
thành Ca Tỳ La Vệ có
quy định về luật
hôn phối như sau: nếu người
phụ nữ dòng họ Thích thì không được phép kết hôn với người ngoài
họ Thích, nếu bất tuân sẽ bị tội nặng. Lúc bất giờ có cô gái tên là Hắc
Ly Xa thuộc
dòng họ Thích. Cô ta tuổi đang thanh xuân và mặt hoa dáng nguyệt tròn đầy lại
bất hạnh chồng
chết sớm khiến
một đời xuân trẻ gặp cảnh gối chiếc phòng không. Ít lâu sau, có một chàng thanh niên thuộc
dòng họ khác đến
cầu hôn, Hắc
Ly Xa thuận lòng ưng chịu, nhưng gặp tên em chồng
cản trở muốn chiếm chị dâu làm vợ mình. Tên nầy phẩm hạnh chẳng ra gì,
mặc dầu Hắc
Ly Xa đã nhiều phen
cự
tuyệt không chịu lấy hắn khiến hắn
nổi giận mà thề rằng:
- Nếu cô có
tình ý riêng thì ta sẽ giết cô.
Hắn
ta bỏ thuốc mê vào trong rượu khiến Hắc
Ly Xa uống nhằm say bất tỉnh. Thừa lúc cô ta bị
hôn mê, hắn đánh đập cô ta đến thương tích cùng mình rồi mới
báo cáo:
- Cô nầy là vợ tôi và cô ta
tư thông với người khác họ.
Khi
Hắc
Ly Xa tỉnh dậy thì có miệng mà nói chẳng nên lời vì phải mang
trọng tội. Theo
pháp luật thì cô phải
bị án tử hình. Thừa lúc người lính gác
lơ là, cô lén
chạy trốn đến thành
Xá Vệ,
quy y theo Phật và
trở thành tỳ kheo ni. Vua quan dòng
Thích Ca bèn tức tốc biên thơ cho
vua Ba Tư Nặc:
- Nước
chúng tôi có một nữ
tội nhân đã
phạm quốc pháp,
nghe tin cô ta đang đào tỵ ở quý quốc.
Chúng tôi mong rằng quý quốc giao trả nữ
tội phạm ấy lại cho nước
chúng
tôi và sau nầy nếu có
tội phạm của quý quốc trốn sang nước
chúng tôi thì
chúng tôi cũng sẽ giao lại cho quý quốc xử lý.
Vua Ba Tư Nặc xem thư xong, hỏi các quan:
- Hắc
Ly Xa thiệt có trốn đến nước ta không?
Các quan thưa:
- Khải bẩm đại vương! Hắc
Ly Xa quả thật đang trốn tại nước ta, nhưng cô
ấy đã theo các
tỳ kheo ni xuất gia.
Đại vương đã ban lịnh từ trước nếu
ai phạm đến
tỳ kheo,
tỳ kheo ni sẽ bị tội nặng.
Hiện tại cô ta đã
xuất
gia thì đâu có ai dám làm gì được, xin thỉnh ý
đại vương, phải dùng
biện pháp gì đây?
Vua Ba Tư Nặc suy nghĩ đôi ba phen, rồi biên thư
phúc đáp:
- Hắc
Ly Xa quả thật có trốn bên nước tôi, nhưng hiện nay đã
xuất gia nên không thể truy tội. Nếu như việc khác sẽ xin như lời quý quốc.
Vua quan dòng
Thích Ca đọc thơ hồi âm thì bừng bừng tức giận. Có một
nữ nhân mà không
trừng trị được thì quốc pháp dùng vào đâu?
Vì một
nữ phạm nhân
xuất gia khiến cho hai nước gây mầm
hiềm khích,
tôn giả Ưu Bà Ly biết được việc ấy bèn thỉnh ý Phật:
- Bạch Thế Tôn! Người đã
phạm quốc pháp chúng ta có thể thâu nhập cho
xuất gia không?
Phật dạy rằng:
- Nầy Ưu Bà Ly! quốc pháp
hợp lý hay không
hợp lý đó là việc của chính phủ và dân chúng. Nếu như đã
phạm tội khi chưa
tuyên bố ân xá thì
tăng đoàn không được làm phép cho
xuất gia.
Vị
tỳ kheo ni thâu nhận Hắc
Ly Xa bị
Đức Thế Tôn quở trách một phen. Điều đó không phải
Đức Phật
thiếu
lòng từ bi, không cứu
tội nhân, nhưng vì
tăng đoàn thanh tịnh cho đến phạm giới luật còn bị
trừng trị thì
phạm pháp quốc gia tất phải
chịu luật nước
xử trị.
Phật pháp không
che chở cho
tội nhân nhưng vì muốn kiện toàn
tăng đoàn để cho
giới pháp không
xúc phạm quốc pháp,
tôn giả Ưu Bà Ly đã
bàn luận vấn đề nầy với Phật.
Ưu Bà Ly lại có khi thưa hỏi
Đức Phật về việc
thế gian :
- Bạch Thế Tôn!
Tỳ kheo hay
tỳ kheo ni có được làm mai mối cho
nam nữ không?
Phật dạy:
- Này Ưu Bà Ly! Nếu
tỳ kheo,
tỳ kheo ni đem tâm tình người nam ngỏ với người nữ, hoặc đem ý người nữ nói với người nam,
cho đến giới thiệu giao
bôi
một lần sẽ
phạm tăng già bà thi sa,
cần phải sám hối.
Ưu Bà
Ly lại bạch với Phật: - Bạch Thế Tôn! Các
tỳ kheo,
tỳ kheo ni trong
tăng đoàn đối với việc
hôn lễ của
tín đồ tại gia thì phải có
thái độ như thế nào cho đúng?
Phật dạy:
- Đối với bậc
tu hành thì không nên
lưu tâm về
vấn đề nầy.
Giới
là
ý nghĩa phòng phi chỉ ác, vốn là khuôn phép cho
thân tâm mà
vấn đề nam nữ rất dễ gây
rắc rối và dễ đem lại
phiền não bất an.
Tôn giả Ưu Bà
Ly đã
quan tâm đến việc nầy vì trong
giới luật đã
liên quan đến việc
hạn chế tương giao
nam nữ rất nhiều.
Ưu Bà Ly đứng trên
lập trường trì giới nên lúc nào cũng
quan tâm đến
vấn đề pháp chế,
vấn đề nam nữ…nhưng
tôn giả quan tâm nhất là
vấn đề phá tăng và hòa tăng.
Tăng
đoàn càng ngày càng lớn và
tăng ni đến từ những
xuất xứ khác nhau
thành thử làm cho
mọi người có thể chung sống trong hòa bình thì không phải là chuyện dễ. Bởi vậy
cổ nhân có câu: Dỉ hòa vi quý có nghĩa là
hòa thuận là tốt nhất. Chính
Đức Phật đã
hiểu biết hơn ai hết về sự quan trọng của đức tánh nhu hòa
trong đời sống tập thể, nên Ngài đã chế
ra pháp
Lục Hòa cho
đệ tử của Ngài
áp dụng mà
tu hành.
Lục Hòa gồm có:
1) Thân hòa đồng trú (thân hòa cùng ở): Khi đã chung sống
với nhau dưới một mái chùa, một
gia đình, hay
hoạt động cùng một tổ chức thì phải
hòa thuận với nhau. Không được chia phe chia phái, kết bè kết đảng, ỷ mạnh hiếp yếu để gây ra cảnh nồi da xáo thịt cũng chỉ vì
tham dục cá nhân mà
ra.
2) Khẩn hòa
vô tránh (
Lời nói hòa hiệp): là
giữ gìn lời nói cho được
ôn hòa,
nhã nhặn trong mọi
trường hợp. Anh em
bất hòa, vợ chồng ly tán,
cha con không thấy mặt nhau
trở thành kẻ thù xa lạ cũng chỉ vì một
lời nói không hòa. Có người
ăn thua nhau từng câu
nói,
tìm cách mỉa mai, đâm bị thóc thọc bị gạo để
cuối cùng sanh ra ấu
đả nhau.
3) Ý hòa đồng duyệt (Ý hòa cùng vui): Trong
Phật pháp thì
thân khẩu ý là
tác động chính để
chúng sanh tạo ra
mười điều ác nghiệp. Mà
ác nghiệp có nghĩa là sa vào
tam ác đạo trầm luân khổ sở. Ý thì rất quan trọng bởi vì thân có đánh ai hoặc miệng có chửi người khác thì trước nhất những
tư tưởng xấu nầy phải được qua tâm
của
chúng ta trước, nếu tâm
đồng ý thì tay đấm hay miệng chửi. Vậy tâm tức là ý vậy. Muốn tâm ý hòa hiệp thì phải
tu hành từ, bi, hỷ , xả.
Có nghĩa là phải
cố gắng bỏ ra ngoài những sự
buồn phiền,
hờn giận, không để vào tâm của mình những
lỗi lầm của kẻ khác thì
tâm hồn sẽ
thư thái và
vui vẻ.
4) Giới hòa đồng tu (Giới hòa cùng
tu):
Giới luật là khuôn vàng thướt ngọc cho kẻ
tu hành. Người
tu hành chân chánh thì không thể
giữ giới nầy, bỏ giới kia, hứng thì theo, không hứng thì bỏ, Vì thế,
Đức Phật dạy rằng: khi
Phật tử đã chung sống
với nhau thì
triệt để phải cùng nhau tu những
giới luật như nhau.
5) Kiến hòa đồng giải (Thấy biết giải bày cho nhau hiểu): Trong sự
tu hành nếu có ai
khám phá được điều gì hay lạ thì nên chia sẻ với kẻ khác
thì sự
tu học mới
tiến bộ và tránh được sự
ích kỷ và phát huy
Bồ đề tâm viên mãn.
6) Lợi hòa đồng quân ( Lợi hòa cùng chia cho nhau): Về
tài lợi, vật thực, đồ dùng phải
phân chia cho đều để
cùng nhau
thọ dụng, không được chiếm cố làm
của riêng cho mình thì lòng tham không sanh.
Cổ nhân có câu: Cảnh
giàu sang phú quý trong
nhân gian như
hạt sương đọng trên cành hoa và
công danh vinh hiển
trên đời như bọt nước nổi trên mặt biển mà thôi. Thật vậy nếu
nhân loại có
tinh thần bình đẳng lợi tha,
từ bi cứu khổ và
trí tuệ soi thấu sự
vô thường giả tạm của
cuộc đời thì
thế giới nầy sẽ bớt đi
xung đột và
mọi người sẽ sống trong hòa bình
hạnh phúc.
Một hôm,
Đức Phật
đang ở tại thành
Xá Vệ,
Ưu Bà Ly nghĩ đến
vấn đề đoàn kết của
chúng tăng nên
tôn giả bèn đến chỗ
Đức Phật cúi đầu
đảnh lễ và thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Con xin hỏi thế nào là
phá hoại tăng đoàn?
Phật dạy:
- Này Ưu Bà Ly! Nếu có vị
tỳ kheo hiểu
nghĩa lý sâu xa đúng pháp đúng luật thì các
đệ tử của vị ấy dù
tại gia hay
xuất gia đều phải
lễ bái,
cung kính và
tùy thuận theo lời chỉ dạy của vị ấy. Nếu có người khinh thị,
đàm tiếu, chê bai, hủy báng đó là
phá hoại tăng đoàn. Nếu các
tín đồ tại gia đối với
chư tăng phân chia nhân ngã, hoặc làm nhiều chuyện rối rắm thì cũng là
phá hoại tăng đoàn. Hoặc như quan quân chánh quyền cố dùng
quyền thế mà
can thiệp vào nội bộ
tự viện xua đuổi tăng ni thì cũng gọi là
phá hoại tăng đoàn.
Ưu Bà Ly hỏi tiếp:
- Bạch Thế Tôn! Người
phá hoại tăng đoàn bị tội ra sao?
Phật lại dạy:
- Ưu Bà Ly! Tội
phá hoại tăng đoàn phải đọa
địa ngục chịu khổ trong một kiếp.
Kết Tập Tạng LuậtBình
thường tôn giả Ưu Bà Ly giải quyết những
rắc rối trong
tăng đoàn và sau đó thì làm pháp
yết ma sám hối cho các
tỳ kheo phạm giới. Vì luôn thường bàn với
Đức Phật về những chỗ khó khăn trong
giới luật cho nên
tôn giả đã
trở thành một bậc danh cao đức trọng. Chỉ riêng về
phương diện giáo luật thì
tôn giả có đầy đủ
quyền hạn để thay Phật mà
hòa thuận
cho
tăng đoàn. Chính
Đức Phật đã nhiều lần
tuyên bố tôn giả là người đệ
nhất trì giới và các
tỳ kheo trong
tăng đoàn cũng
công nhận như vậy.
Một
đời của
Ưu Bà Ly vì là vị
tỳ kheo trì giới nên rất ít
giao thiệp với kẻ tục và cũng không có những
hoạt động ngoài
xã hội.
GiớI luật được
thành lập vì
tăng đoàn nên
sinh hoạt của
Ưu Bà Ly xưa nay cũng không ra
ngoài
phạm vi của
tăng đoàn.
Khi
Đức Phật nhập diệt thì
tôn giả
cũng xấp xỉ 70 tuổi. Các vị
đại đệ tử do
tôn giả Đại Ca Diếp làm
chủ tọa đã đề cử
A Nan đọc Kinh tạng,
Ưu Bà Ly đọc
Luật tạng, nhưng
đang khi đại chúng cung thỉnh,
tôn giả từ chối:
- Tôi không dám đảm nhiệm
trách nhiệm lớn lao đó, xin chư vị hãy mời
trưởng lão khác.
Tôn giả Đại Ca Diếp vốn
ủng hộ Ưu Bà Ly bèn nói:
-
Tôn giả Ưu Bà Ly! Xin đừng khách sáo, tuy hôm nay ngồi tại tòa có 500 người đều là
tỳ kheo trưởng lão, nhưng ngay từ
ban đầu,
Đức Thế Tôn đã
thọ ký tôn giả thành tựu được 14 pháp. Trừ
Đức Phật ra, trong
tăng đoàn
Ngài là bậc đệ
nhất trì giới do đó
Luật tạng hiện tại do
tôn giả tụng ra đấy.
Cuối cùng Ưu Bà Ly nhận lời và
trước tiên đưa ra nhiều nguyên tắc và
yêu cầu đại chúng tuân theo, rồi sau mới
tụng Luật.
Khi
tôn giả lên tòa, mỗi mỗi đều nói rõ giới nầy Phật nói từ lúc nào, ở
đâu, nói với người nào, do
nhân duyên gì mà
chế giới và nếu
phạm giới ấy có tội hoặc không có tội ra sao. Các vị
trưởng lão tham gia cuộc
kết
tập đều phục
sát đất sự ghi nhớ tỉ mỉ của
tôn giả.
Một vị
xuất
thân từ dòng hạ tiện, lại có
địa vị cao lớn như thế trong
tăng đoàn thì
thật không phải là chuyện
ngẫu nhiên mà có. Thật vậy,
tôn giả là tấm
gương sáng cho
mọi người vì chỉ có
Phật giáo và
lòng từ bi của
Đức Phật đã phá tan sự bất công trong
xã hội và đưa tất cả
mọi người đến
Thánh quả nếu họ
chuyên tâm chân chánh
tu hành.
Tôn giả đã được
mọi người kính ngưỡng bái phục chẳng những ngay thời
Đức Phật còn
tại thế mà còn mãi cho muôn
đời sau khiến ánh sáng
bình đẳng của
Phật giáo chiếu sáng ngàn vạn đời cho tất cả
chúng sinh.
Hồi Hướng:
Chúng sanh vô-biên thệ nguyện độ,
Phiền não vô-tận thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô-lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô-thượng thệ nguyện thành. NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT Lê Sỹ Minh Tùng