KINH THẮNG MAN
Pháp Sư TAM TẠNG đời nhà TỐNG (người Trung Ấn Độ) dịch
Hoà Thượng Thích Thanh Từ Việt dịch
CHƯƠNG 5: NHẤT THỪA
Phật bảo Thắng
Man: " Ngươi nay hãy nói lại những gì tất cả chư Phật đã nói về nhiếp thụ
chánh pháp".
Thắng Man bạch
Phật: "Hay thay Thế Tôn, con xin vâng lời dạy bảo".
Rồi bạch Phật
rằng:
- Thưa Thế
Tôn, nhiếp thụ chánh pháp tức Ma ha diễn. Bởi vì sao ? Vì Ma ha diễn sinh ra
tất cả pháp lành Thanh văn, Duyên giác thế gian và xuất thế gian.
- Thưa Thế
Tôn, như ao A nậu to lớn phát sanh các con sông lớn, Ma ha diễn cũng sanh ra
tất cả pháp lành Thanh văn, Duyên giác thế gian và xuất thế gian.
- Thưa Thế Tôn,
cũng như tất cả hạt giống đều từ đất sinh trưởng, tất cả các pháp lành của
Thanh văn Duyên giác thế gian và xuất thế gian cũng thế đều từ pháp đại thừa mà
được tăng trưởng.
Cho nên thưa Thế
Tôn, trụ nơi đại thừa nhiếp thụ đại thừa tức là trụ nơi nhị thừa nhiếp thụ tất
cả pháp lành thế gian và xuất thế gian của nhị thừa như Thế Tôn nói sáu pháp.
Sáu pháp là gì ? Là chính pháp trụ, chính pháp diệt, Ba la đề mộc xoa, tỳ ni,
xuất gia, thọ cụ túc. Vì đại thừa mà nói sáu pháp này.
Bởi vì sao ? Vì
nói chánh pháp trụ là vì đại thừa mà nói. đại thừa trụ tức chánh pháp trụ. Nói
chánh pháp diệt là vì đại thừa mà nói. Vì đại thừa diệt tức chánh pháp diệt. Ba
la đề mộc xoa và tỳ ni, hai pháp này một nghĩa mà hai tên, Tỳ ni là cái học của
đại thừa.
Bởi vì sao ? Vì
y theo Phật xuất gia mà thọ cụ túc, nên nói đại thừa oai nghi giới là tỳ ni, là
xuất gia là thọ cụ túc. Vì thế A la hán không xuất gia thọ cụ túc.
Bởi vì sao ? Vì
A la hán y theo Như Lai xuất gia thọ cụ túc, nên A la hán quy y Phật, A la hán
có nỗi sợ hãi.
Bởi vì sao ? Vì
A la hán đối với tất cả vô hành vẫn còn tâm tưởng sợ hãi như người cầm kiếm
muốn đến hại mình.
Cho nên A la hán
không có cái vui cứu cánh
Bởi vì sao ?
Thưa Thế Tôn, quy y là quy y với bậc không phải y vào ai nữa. Như chúng sanh
không nơi nương tựa chúng sợ hãi, vì sợ hãi mà cầu quy y. Như A la hán có sợ
hãi, vì sợ hãi mà quy y Như Lai.
- Thưa Thế
Tôn, A la hán, Bích chi Phật có sợ hãi nên A la hán, Bích chi Phật là hữu dư,
sinh pháp không diệt hết nên có sinh. Phạm hạnh chưa tròn nên không thuần. Sự
chưa rốt ráo nên còn sở tác. Vượt thoát chưa hết nên còn phải đoạn diệt. Do
không đoạn diệt hết nên cách cảnh giới Niết bàn còn xa.
Bởi vì sao ? Vì
chỉ Như Lai ứng chánh đẳng giác được Niết bàn trọn vẹn, thành tựu tất cả công
đức. Còn A la hán, Bích chi Phật không thể thành tựu tất cả công đức. Nói được
Niết bàn là Phật phương tiện nói.
Vì chỉ Như Lai
mới được Niết bàn trọn vẹn thành tựu vô lượng công đức không thể nghĩ bàn. còn
A la hán, Bích chi Phật thành tựu A la hán còn nghĩ bàn được. Nói được Niết bàn
là Phật phương tiện nói.
Vì chỉ Như Lai
mới được Niết bàn trọn vẹn. Tất cả lỗi lầm phải đoạn trừ đã đoạn trừ hết, thành
tựu thanh tịnh cao tột. Còn A la hán, Bích chi Phật có lỗi lầm còn sót, chưa
phải thanh tịnh cao tột. Nói được Niết bàn là Phật phương tiện nói.
Vì chỉ Như Lai
nói được Niết bàn trọn vẹn là bậc cho tất cả chúng sanh chiêm ngưỡng, vượt quá
cảnh giới A la hán, Bích chi Phật và Bồ tát nên A la hán, Bích chi Phật cách
cảnh giới Niết bàn còn xa.
Nói A la hán,
Bích chi Phật quán sát giải thoát, cứu cánh được bốn trí, đạt tới an trụ Niết
bàn, cũng là Như Lai phương tiện nói, chưa rốt ráo chưa hết ý.
Bởi vì sao? Vì
có hai thứ chết, hai thứ là gì? Là chết phần đoạn và chết biến dịch không thể
nghĩ bàn. Chết phần đoạn là cái chết của chúng sanh hư ngụy. Chết biến dịch không
thể nghĩ bàn là chỉ y sinh thân của A la hán, Bích chi Phật, đại lực Bồ tát
trong tiến trình đến cứu cánh vô thượng Bồ đề.
Trong hai cái
chết, đứng về chết phần đoạn thì trí A la hán, Bích chi Phật có thể nói được là
"đời ta đã hết" được quả hữu dư, nên nói "phạm hạnh đã lập"
phàm phu người và trời chưa làm xong, người học trong bảy chúng chưa làm được,
còn A la hán, Bích chi Phật đã đoạn các phiền não hư ngụy nên nói "đã làm
xong" A la hán, Bích chi Phật đoạn được các phiền não không thụ hậu hữu
lại nên nói "không thụ hậu hữu" chứ không phải đã diệt tất cả phiền
não cũng không phải là chấm dứt tất cả sự thụ sinh mà nói là không thụ hậu
hữu.
Bởi vì sao
? Vì có những phiền não mà A la hán, Bích chi Phật không đoạn được. Phiền não
có hai thứ. Hai thứ là gì ? Là trụ địa phiền não và khởi phiền não.
Trụ địa có bốn
thứ. Bốn thứ là gì ? Là kiến nhất xứ trụ địa, dục ái trụ địa, sắc ái trụ địa và
hữu ái trụ địa.
Bốn thứ trụ địa
này sinh ra tất cả khởi phiền não. Khởi phiền não là tâm sát na duyên theo cảnh
thì phiền não sát na tương ưng.
- Thưa Thế
Tôn ! Tâm không tương ưng vô thủy vô minh trụ địa.
- Thưa Thế
Tôn ! Sức của bốn trụ địa này làm chỗ dựa cho tất cả thường phiền não nảy sinh,
nhưng so với vô minh trụ địa thì dù tính toán thí dụ cũng không sao bì
kịp.
- Thưa Thế
Tôn ! Như vậy vô minh trụ địa đối với hữu ái và số bốn trụ địa sức của vô minh
trụ địa lớn hơn cả.
Ví như ác ma ba
tuần, sắc lựïc, thọ mạng, quyến thuộc, vật dụng sự tự tại hơn hẳn trời Tha hóa
tự tại. Cũng như thế sức lực của vô minh trụ địa hơn cả so với hữu ái và số bốn
trụ địa.
Số thượng phiền
não như cát sông Hằng đều dựa vào vô minh này mà thành lập, đồng thời cũng
khiến bốn thứ phiền não tồn tại lâu dài. Trí của A la hán, Bích chi Phật không thể
đoạn được. Chỉ trí giác ngộ của Như Lai mới đoạn trừ được mà thôi.
Như vậy thưa Thế
Tôn ! Vô minh trụ địa có sức lớn nhất.
Lại như thủ
duyên nghiệp nhân hữu lậu sanh tam hữu, cũng thể vô minh trụ địa duyên nghiệp
nhân vô lậu sanh ra ba thứ ý sinh thân của A la hán, Bích chi Phật và đại lựïc
Bồ tát.
Ba bậc này là sự
sinh của ba thứ ý sinh thân kia, cùng sự sinh của nghiệp vô lậu đều do từ ý vô
minh trụ địa ra. Rõ ràng vô minh và chúng có tác duyên với nhau mới có sinh,
chứ không phải không duyên mà có. Cho nên, ba thứ ý sinh và nghiệp vô lậu đều
duyên vô minh trụ địa.
- Thưa Thế
Tôn ! Như vậy hữu ái trụ địa và số bốn trụ địa không đồng nghiệp với vô minh
trụ địa. Sự phân ly của vô minh trụ địa khác sự phân ly của bốn trụ địa. Đến
Phật địa mới đoạn trí Bồ đề của Phật mới đoạn được.
Bởi vì sao ? Vì
A la hán, Bích chi Phật đoạn trừ bốn thứ trụ địa nhưng không tột cùng vô lậu
không được sức tự tại cũng không chứng được. Chỗ không tột cùng vô lậu đó là vô
minh trụ địa.
- Thưa
Thế
Tôn !
A la hán,
Bích chi Phật và
tối hậu thân Bồ tát còn bị
vô minh trụ địa
ngăn che nên đối với tất cả
pháp không thấu triệt, không
giác ngộ. Do không
thấy biết
tỏ rõ thấu suốt ấy nên đối với cái phải đoạn trừ không đoạn trừ được,
không
rốt ráo được. Do không đoạn được nên gọi là
hữu dư quá
giải thoát, chứ
không phải ly
nhất thiết quá
giải thoát, gọi là
hữu dư thanh tịnh chứ không
phải
nhất thiết thanh tịnh gọïi là
thành tựu hữu dư công đức, chứ không phải
nhất thiết công đức. Do chỉ mới
thành tựu hữu dư giải thoát,
hữu dư thanh tịnh,
hữu dư công đức nên chỉ mới biết cái khổ
hữu dư, đoạn cái tập
hữu dư, chứng cái
diệt
hữu dư, tu cái
đạo hữu dư. Như thế gọi là được thiểu phần
Niết bàn. Được
thiểu phần
Niết bàn gọi là hướng
Niết bàn giới.
Nếu biết tất cả
khổ, đoạn tất tập, chứng tất cả diệt, tu tất cả đạo thì trong
thế gian vô
thường hoại
vô thường bệnh được thường trú
Niết bàn, trong
thế gian không nơi
che
chở, không
nơi nương tựa làm nơi
che chở nương tựa cho
thế gian.
Vì cớ sao ? Vì
pháp không ưu liệt nên được
Niết bàn.
Trí huệ bình đẳng nên được
Niết bàn.
Giải
thoát bình đẳng nên được
Niết bàn.
Thanh tịnh bình đẳng nên được
Niết bàn. Cho
nên
Niết bàn chỉ có một vị
bình đẳng. Đó là vị
giải thoát.
- Thưa
Thế
Tôn ! Nếu
vô minh trụ địa không đoạn, đoạn không
rốt ráo thì không được cái
nhất vị bình đẳng là vị
giải thoát vô minh.
Bởi vì sao? Vì
vô minh trụ địa không đoạn, đoạn không
rốt ráo được các pháp phải đoạn nhiều
hơn
số cát sông Hằng, nên đối với tất cả pháp nhiều hơn
số cát sông Hằng cần
phải đạt thì không
đạt được,
cần phải chứng thì không thể chứng. Cho nên
vô
minh trụ địa tích tụ sinh ra tất cả
tu đạo đoạn
phiền não,
thượng phiền
não,
Vô minh trụ địa
kia sinh ta tââm
thượng phiền não chỉ
thượng phiền não, quán
thượng phiền não,
thiền
thượng phiền não,
chính thụ thượng phiền não,
phương tiện thượng phiền não,
trí
thượng phiền não,
quả thượng phiền não, đắc
thượng phiền não,
vô úy thượng
phiền não.
Tất cả những
thượng phiền não nhiều hơn
số cát sông Hằng ấy, trí
Bồ đề của
Như Lai đoạn trừ
hết. Tất cả đều từ
vô minh trụ địa kiến lập tất cả
thượng phiền não khởi lên
đều nhân
vô minh trụ địa duyên
vô minh trụ địa mà ra cả.
- Thưa
Thế
Tôn ! Từ đời đó khởi lên các
phiền não, tận
sát na duyên cảnh thì
phiền não sát
na tương ưng.
- Thưa
Thế Tôn !
Tâm không tương ưng vô thủy vô minh trụ địa.
- Thưa
Thế Tôn !
Nếu các pháp mà trí
Bồ đề của
Như Lai đoạn trừ còn nhiều hơn
số cát sông Hằng,
thì tất cả pháp ấy đều do
vô minh trụ địa duy trì và
kiến lập.
Ví như tất cả
mọi
hạt giống đều từ đất sanh ra,
kiến lập và
tăng trưởng. Nếu đất bị hủy hoại
chúng cũng sẽ bị hủy hoại theo.
Cũng thế, các pháp mà trí
Bồ đề của
Như Lai
đoạn trừ nhiều hơn
số cát sông Hằng ấy, tất cả đều từ
vô minh trụ địa sinh ra
kiến lập và
tăng trưởng. Nếu
vô minh trụ địa đoạn được thì các pháp nhiều hơn
số cát sông Hằng mà trí
Bồ đề của
Như Lai đoạn trừ kia cũng
đoạn diệt theo.
Như thế là đoạn
hết tất cả
phiền não,
thượng phiền não, đối với tất cả pháp sở đắc của
Như Lai
nhiều hơn
số cát sông Hằng được
thông đạt vô ngại tất cả
tri kiến, lìa tất cả
lỗi lầm, được tất cả
công đức,
tự tại như pháp vương pháp chủ,
bước lên địa vị
tự tại đối với tất cả pháp.
Như Lai ứng
chánh đẳng giác là bậc nói
lên tiếng nói
chân thật không
sợ hãi như tiếng
sư tử
rống rằng "Đời ta đã hết
phạm hạnh đã lập
việc làm đã xong, không thụ hậu
hữu". Cho nên
Thế Tôn đã dùng tiếng rống của con
sư tử y theo nghĩa
rốt
ráo mà
nói thẳng như vậy.
- Thưa
Thế Tôn !
Có hai loại bất thụ
hậu hữu trí. Nghĩa là
Như Lai là bậc
vô thượng điều ngự
hàng phục bốn ma, ra khỏi tất cả
thế gian, được tất cả
chúng sanh chiêm ngưỡng,
được
pháp thân không thể nghĩ bàn, trong tất cả bậc trí
Bát nhã, được
pháp tự
tại vô ngại không còn bậc nào cao hơn phải bàn, không còn
địa vị nào cao hơn để
đạt tới,
mười lực dõng mãnh
bước lên địa vị đệ nhất
vô thượng úy. Tất cả trí
bát nhã trí quán vô ngại không cho ai khác, đó là bậc thụ
hậu hữu, trí
quyết định
đạo lý chân thật như tiếng rống con
sư tử.
-Thưa
Thế Tôn
!
A la hán,
Bích chi Phật khi
vượt qua nỗi
sợ hãi của
sinh tử, theo cấp độ được
cái vui
giải thoát sinh
ý tưởng cứu cánh rằng: "Ta đã lìa khỏi nỗi
sợ hãi
của
sanh tử, không còn chịu nỗi khổ sanh tử".
- Thưa
Thế
Tôn !
A la hán,
Bích chi Phật khi
quán sát, được cái
quán trí bất thụ
hậu hữu
Niết bàn an nghĩ cao tột.
- Thưa
Thế
Tôn !
A la hán,
Bích chi Phật kia ở
địa vị mới
đạt được, không
ngu muội đối với
pháp sở đắc, thấy không do ai khác và cũng tự biết rằng được
địa vị hữu dư thì
chắc chắn sẽ được
A nậu Đa la tam miệu tam Bồ đề.
Bởi vì sao ? Vì
Thanh văn,
Duyên giác thừa đều nhập vào
đại thừa.
Đại thừa tức là
Phật thừa.
Cho nên
tam thừa tức là
nhất thừa. Được
nhất thừa tức là được
A nậu đa la tam
miệu tam Bồ đề.
A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề tức
cảnh giới Niết bàn.
Cảnh
giới Niết bàn tức
Như Lai pháp thân. Được
pháp thân cứu cánh thì được
nhất thừa
cứu cánh, không khác
Như Lai không khác
pháp thân Như Lai tức
pháp thân, được
pháp thân cứu cánh thì
cứu cánh được
nhất thừa.
Cứu cánh tức vô biên bất
đoạn.
- Thưa
Thế Tôn !
Như Lai thường trụ vô hạn
thời gian.
Như Lai ứng
chánh đẳng giác về sau cũng
thường trú như vậy.
Như Lai tâm
đại bi vô hạn, hạnh an úy
thế gian cũng vô hạn,
đại bi vô hạn, an úy
thế gian vô hạn, nói thế tức khéo
ca ngợi,
công đức Như
Lai. Nếu lại nói
Như Lai là pháp
vô tận, là
pháp thường trú, là nơi cho tất cả
thế gian quy y, nói thế cũng là khéo
ca ngợi công đức của
Như Lai. Cho nên đối
với
thế gian chưa được
độ thoát, đối với
thế gian không
nơi nương tựa,
cho đến
tột cùng
vị lai, bậc hằng làm nơi
quy y vô tận, làm bậc thường trú
quy y, gọi
là
Như Lai ứng
Chánh đẳng giác.
Pháp là nói
đạo
nhất thừa, Tăng là chúng
tam thừa. Hai
quy y này chưa phải
cứu cánh quy y mà là
thiểu phần
quy y. Bởi vì sao ? Vì pháp nói
đạo nhất thừa được
pháp thân cứu
cánh mà trên đó lại không nói đến
pháp thân nhất thừa. chúng
tam thừa vì có nỗi
sợ hãi mà
quy y Như Lai cầu
xuất gia tu học, hướng đến
A nậu đa la tam miệu tam
Bồ đề. Cho nên hai
quy y này chưa phải
quy y rốt ráo mà là
quy y còn
giới hạn.
Nếu có
chúng
sanh được
Như Lai điều phục quy y Như Lai, được
thấm nhuần đạo pháp, sinh
lòng
tin vui yêu thích mà
quy y pháp tăng, thì hai
quy y này không phải hai
quy y ấy
mà là
quy y Như Lai.
Quy y đệ nhất nghĩa là
quy y Như Lai. Hai
quy y này,
quy y
đệ nhất nghĩa là
cứu cánh quy y Như Lai. Bởi vì sao? Vì
pháp tăng không khác
Như Lai,
Như Lai không không khác hai,
quy y Như Lai tức
quy y đủ ba.
Bởi vì sao ? Vì
nói
đạo nhất thừa là nói
Như Lai thành tựu bốn thứ không
sợ hãi, như tiếng rống
sư tử. Còn
Như Lai có
tùy theo ý muốn nhỏ hẹp của
nhị thừa mà
phương tiện nói,
thì đó cũng là
đại thừa, không có
tam thừa,
tam thừa nhập vào trong
nhất thừa.
Nhất thừa tức là
đệ nhất nghĩa thừa hay là
Phật thừa.