Bilingual. 241. Telegram From the Embassy in Vietnam to the Department of State. Undoubtedly Can Lao profits from wide range economic concessions not necessarily related [Page 483] aid programs. Special treatment accorded taxes, monopolies, licenses, government loans, contracts, etc. Eligible importers were selected back in 1957-1958 with virtually no new members added in interim. In summary, we sceptical efficacy suggested remedies or virtually any other remedies so long as Nhu is in power and holds sway over Can Lao, and he or those he controls are able exact kickbacks from importers virtually at will. To extent we retain leverage for reforms, political climate permits, we would then concentrate on such things as: Staffing of the top personnel of the Ministry with people of known competence and integrity, e.g. Dean Thuc, Pho Ba Long, Di Kien Thanh, Hanh of SOFIDIV, Vu Van Thai and others. Elimination from top posts of incompetent and corrupt officials. //Điện tín từ Đại sứ quán Hoa Kỳ tại VN gửi về Bộ Ngoại giao. Không còn nghi ngờ gì nữa, Cần Lao thu được lợi nhuận từ những ưu đãi kinh tế trên phạm vi rộng, không nhất thiết liên quan đến các chương trình viện trợ. Đối xử đặc biệt được áp dụng về thuế, độc quyền, giấy phép, các khoản vay của chính phủ, hợp đồng, v.v. Các nhà nhập cảng đủ điều kiện được lựa chọn từ những năm 1957-1958 mà hầu như không có thành viên mới nào được thêm vào trong thời gian tạm thời. Tóm lại, chúng tôi hoài nghi về tính hiệu quả của các biện pháp đề xuất hoặc hầu như bất kỳ biện pháp khắc phục nào khác trong khi Nhu còn nắm quyền và điều hành Cần Lao, và Nhu hoặc những người mà Nhu kiểm soát có thể hầu như tùy ý nhận được những khoản huê hồng hối lộ từ các nhà nhập cảng. Trong phạm vi mà chúng tôi duy trì được đòn bẩy cho các cải cách, môi trường chính trị cho phép, thì chúng tôi sẽ tập trung vào những việc như: Bố trí nhân sự cấp cao của Bộ với những người có năng lực và tính liêm chính, ví dụ: Khoa Trưởng Đại Học Vũ Quốc Thúc, Phó Bá Long, Dĩ Kiến Thành, Hạnh của SOFIDIV, Vũ Văn Thái và những người khác. Loại bỏ khỏi các chức vụ hàng đầu của các quan chức bất tài và tham nhũng.
241. Telegram From the Embassy in Vietnam to the Department of State (1)
Saigon, October 30, 1963—4:45 p.m.
822. Joint Embassy/USOM message. Reference: Deptel 601. (2)
I. Reftel covers two different classic issues:
a. Methods for removing Can Lao influence and opportunities profit from US aid program, and
b. Procedural changes in economic aid programs not necessarily related a above.
II. Detailed information on first class issues best dealt with by CAS and they will provide a separate report. Undoubtedly Can Lao profits from wide range economic concessions not necessarily related [Page 483] aid programs. Special treatment accorded taxes, monopolies, licenses, government loans, contracts, etc. Eligible importers were selected back in 1957-1958 with virtually no new members added in interim. According to our information, criteria used that time were objective-nevertheless probably Can Lao getting “cut” from those profiting import program expanding list undesirable from standpoint efficiency distribution supplies in country-many believe too many importers now either selling import licenses or unable set up internal distribution channels outside major cities. Furthermore, no reason to believe expanding number would necessarily reduce Can Lao capacity project. In summary, we sceptical efficacy suggested remedies or virtually any other remedies so long as Nhu is in power and holds sway over Can Lao, and he or those he controls are able exact kickbacks from importers virtually at will. If his power broken, issue Can Lao support could become irrelevant.
III. With respect to type b issue, our opinion much depends on the situation at time we decide resume aid. In present tug of war, two outcomes (with various shadings) possible: (a) favorable change in government or major political concessions by present government; (b) for variety reasons difficult to predict now, we decide resumption aid without any significant improvement our relations. Another dimension to this analysis is an estimate of economic conditions existing at time we resume aid. In any case, it would not be intended to permit onset of widespread economic chaos prior to resuming aid.
IV. If aid resumed after significant favorable political changes and in the wake of serious price rises and plaster value decline, we certainly would not press for procedural reforms but would rather expedite to maximum input of those aid commodities essential to economy (including refilling pipeline, but not repaying amount lost by suspension). Furthermore, the generally improved nature of our relationships with the government would argue for “detailed consultations and study” rather than imposition of “conditions”.
V. If we resume aid in fear of loss SVN or in atmosphere accommodation welfare populace without settlement outstanding issues with government there would be little leverage for exacting procedural concessions. The same is true at present under aid suspension–GVN not likely be receptive to demands for procedural improvements when smarting under US pressure.
VI. Given above analysis, we suggest Dept consider, along with suggestions contained Embtel 816, (3) specific reforms of CIP and remedies against local abuses (taxes, income distribution, land tenure, etc.) be part broader objective changing institutions and bringing into government people with different motivations as prelude discussion and [Page 484][garble—start?] specific reform measures. To extent we retain leverage for reforms, political climate permits, we would then concentrate on such things as:
a. Creation of Ministry of Emergency Planning with delegated broad economic powers, under Presidency. This economic czar to have power to impose administrative rulings on all line departments, including the National Bank, and to have direct responsibility for only those operations essential to carry out reforms. Areas of concentration would be taxation; exploitation farmers, fishermen and small artisans by middlemen; inefficient government procedure; US foreign aid; joint US-GVN budgeting; marketing policies for rice, fish, fertilizer, etc.
b. Staffing of the top personnel of the Ministry with people of known competence and integrity, e.g. Dean Thuc, Pho Ba Long, Di Kien Thanh, Hanh of SOFIDIV, Vu Van Thai and others.
c. Elimination from top posts of incompetent and corrupt officials.
d. Joint study and consultation on a whole range of economic and financial problems.
e. Increase decentralization of responsibility for execution of policies and greater emphasis on local operational initiative in provinces.
VII. Hopefully, if some of above things achieved, appropriate procedural reforms suggested reftel would flow from them.
Lodge
NOTES:
(1) Source: Department of State, Central Files, AID (US) S VIET. Secret; Limit Distribution. Received at 6:30 a.m. and passed to the White House at 7:35 a.m.↩
(2) In telegram 601, October 18, the Department of State sent the following request to Saigon:
“Request Embassy/USOM/CAS study and report on extent to which Ngo Dinh Nhu reinforces his base of political power and influence through the Commercial Import Program (CIP) and the feasibility of modifying the CIP so as to reduce or eliminate its future contribution to Nhu’s influence.” (Ibid.)
↩
(3) Document 239.↩
Source:
https://history.state.gov/historicaldocuments/frus1961-63v04/d241
.... o ....
241. Điện tín từ Đại sứ quán Hoa Kỳ tại VN gửi về Bộ Ngoại giao(1)
Sài Gòn, ngày 30 tháng 10 năm 1963—lúc 4 giờ 45 chiều
822. Thông điệp chung của Đại sứ quán/USOM. Tham khảo: Điện tín của Bộ Ngoại Giao số 601.(2)
I. Điện tín tham khảo trên đề cập đến hai vấn đề cổ điển khác nhau:
a. Biện pháp gỡ bỏ ảnh hưởng và cơ hội thu lợi từ chương trình viện trợ của Mỹ của Đảng Cần Lao và
b. Những thay đổi về thủ tục trong các chương trình viện trợ kinh tế mà không nhất thiết liên quan đến vấn đề nêu trên.
II. Thông tin chi tiết về các vấn đề thứ nhất được Trạm tình báo CAS xem xét tốt nhất và họ sẽ có bản báo cáo riêng. Không còn nghi ngờ gì nữa, Cần Lao thu được lợi nhuận từ những ưu đãi kinh tế trên phạm vi rộng, không nhất thiết liên quan đến các chương trình viện trợ. Đối xử đặc biệt được áp dụng về thuế, độc quyền, giấy phép, các khoản vay của chính phủ, hợp đồng, v.v. Các nhà nhập cảng đủ điều kiện được lựa chọn từ những năm 1957-1958 mà hầu như không có thành viên mới nào được thêm vào trong thời gian tạm thời. Theo thông tin của chúng tôi, các tiêu chí được sử dụng vào thời điểm đó là khách quan - tuy nhiên có lẽ Cần Lao bị "cắt" khỏi danh sách mở rộng chương trình nhập cảng thu lợi nhuận không mong muốn từ quan điểm hiệu quả phân phối nguồn cung cấp trong nước - nhiều người tin rằng hiện có quá nhiều nhà nhập cảng bán giấy phép nhập cảng hoặc không thể thiết lập nội bộ kênh phân phối bên ngoài các thành phố lớn. Hơn nữa, không có lý do gì để tin rằng việc mở rộng số lượng sẽ nhất thiết làm giảm công suất của dự án Cần Lao. Tóm lại, chúng tôi hoài nghi về tính hiệu quả của các biện pháp đề xuất hoặc hầu như bất kỳ biện pháp khắc phục nào khác trong khi Nhu còn nắm quyền và điều hành Cần Lao, và Nhu hoặc những người mà Nhu kiểm soát có thể hầu như tùy ý nhận được những khoản huê hồng hối lộ từ các nhà nhập cảng. Nếu quyền lực của Nhu bị phá vỡ, vấn đề ủng hộ Cần Lao có thể trở nên không cần để bàn nữa.
III. Đối với vấn đề loại b, ý kiến của chúng tôi phụ thuộc nhiều vào tình hình tại thời điểm chúng ta quyết định tiếp tục viện trợ trở lại. Trong cuộc giằng co hiện tại, có thể xảy ra hai kết quả (với nhiều sắc thái khác nhau): (a) sự thay đổi có lợi trong chính phủ hoặc những nhượng bộ chính trị lớn của chính phủ hiện tại; (b) vì nhiều lý do khó dự đoán hiện nay, chúng ta quyết định nối lại viện trợ mà không có bất kỳ cải thiện đáng kể nào trong mối quan hệ của chúng ta. Một khía cạnh khác của phân tích này là ước tính các điều kiện kinh tế hiện có tại thời điểm chúng ta tiếp tục viện trợ. Trong mọi trường hợp, sẽ không có ý định cho phép xảy ra sự hỗn loạn kinh tế trên diện rộng trước khi Mỹ nối lại viện trợ [cho chính phủ Diệm].
IV. Nếu viện trợ được nối lại sau những thay đổi chính trị thuận lợi đáng kể và sau khi giá cả tăng nghiêm trọng và giá trị tiền VN sụt giảm, chúng tôi chắc chắn sẽ không thúc ép cải cách thủ tục mà muốn đẩy nhanh việc đầu vào tối đa các mặt hàng viện trợ thiết yếu cho nền kinh tế (bao gồm cả việc nạp lại đường ống kinh tế, nhưng không hoàn trả [Diệm] số tiền bị mất do đình chỉ viện trợ trước đó). Hơn nữa, bản chất nhìn chung được cải thiện trong mối quan hệ của chúng ta với chính phủ sẽ đòi hỏi “tham vấn và nghiên cứu chi tiết” hơn là áp đặt “điều kiện”.
V. Nếu chúng ta nối lại viện trợ vì sợ mất Nam VN hoặc trong môi trường phúc lợi đời sống cho dân VN mà không giải quyết các vấn đề tồn đọng với chính phủ Diệm thì sẽ có rất ít đòn bẩy để thực hiện các nhượng bộ về mặt thủ tục. Điều tương tự cũng đúng trong tình trạng đình chỉ viện trợ hiện nay – Chính phủ VNCH có thể không tiếp thu các yêu cầu cải tiến thủ tục khi chịu áp lực của Mỹ.
VI. Dựa trên phân tích trên, chúng tôi đề nghị Bộ xem xét, cùng với các đề xuất trong bức điện tín từ đại sứ quan có số 816,(3) các cải cách cụ thể về CIP và các biện pháp khắc phục tình trạng lạm dụng ở địa phương (thuế, phân phối thu nhập, quyền sử dụng đất, v.v.) thành một phần mục tiêu rộng hơn là thay đổi thể chế và đưa vào chính phủ những người có động cơ khác nhau như thảo luận mở đầu và các biện pháp cải cách cụ thể. Trong phạm vi mà chúng tôi duy trì được đòn bẩy cho các cải cách, môi trường chính trị cho phép, thì chúng tôi sẽ tập trung vào những việc như:
a. Thành lập Bộ Kế hoạch Khẩn cấp với quyền hạn kinh tế rộng rãi được ủy quyền, dưới sự chỉ đạo của Tổng thống. Vị Tư lệnh kinh tế này có quyền áp đặt các phán quyết hành chính đối với tất cả các cơ quan trực thuộc, bao gồm cả Ngân hàng Quốc gia, và chỉ chịu trách nhiệm trực tiếp đối với những hoạt động thiết yếu để thực hiện cải cách. Các khu vực tập trung sẽ bị đánh thuế; tình hình thương lái trung gian bóc lột nông dân, ngư dân và tiểu thủ công; thủ tục của chính phủ không hiệu quả; viện trợ nước ngoài của Mỹ; ngân sách chung Mỹ-VNCH; chính sách tiếp thị lúa gạo, cá, phân bón, v.v.
b. Bố trí nhân sự cấp cao của Bộ với những người có năng lực và tính liêm chính, ví dụ: Khoa Trưởng Đại Học Vũ Quốc Thúc, Phó Bá Long, Dĩ Kiến Thành, Hạnh của SOFIDIV, Vũ Văn Thái và những người khác.
c. Loại bỏ khỏi các chức vụ hàng đầu của các quan chức bất tài và tham nhũng.
d. Nghiên cứu và tư vấn chung về nhiều vấn đề kinh tế và tài chính.
đ. Tăng cường phân cấp trách nhiệm thực thi chính sách và chú trọng hơn vào sáng kiến hoạt động địa phương ở các tỉnh.
VII. Hy vọng rằng, nếu đạt được một số điều trên, những cải cách thủ tục phù hợp sẽ được thực hiện từ đó.
Lodge
(Đại sứ Hoa Kỳ tại VN)
GHI CHÚ:
(1) Nguồn: Bộ Ngoại giao, Central Files, AID (US) S VIET. Bí mật; Giới hạn phân phối. Nhận được lúc 6:30 giờ sáng và chuyển đến Bạch Ốc lúc 7:35 sáng↩
(2) Trong điện tín 601 ngày 18/10, Bộ Ngoại giao gửi tới Sài Gòn yêu cầu sau:
“Yêu cầu ba cơ quan Đại sứ quán/USOM/CAS nghiên cứu và báo cáo về mức độ Ngô Đình Nhu củng cố cơ sở quyền lực và ảnh hưởng chính trị của Nhu thông qua Chương trình Nhập khẩu Thương mại (CIP) và tính khả thi của việc sửa đổi CIP nhằm giảm bớt hoặc loại bỏ sự đóng góp trong tương lai của nó cho ảnh hưởng của Nhu.” (Sđd.)
↩
(3) Văn bản 239.↩
.
Kho sử liệu PHẬT GIÁO VIỆT NAM 1963 - SONG NGỮ:
https://thuvienhoasen.org/a39405/phat-giao-viet-nam-1963-song-ngu