- Viết về kinh Pháp Cú Hán Tạng
- Bài tựa Kinh Pháp Cú
- Kinh Quán Chiếu Vô Thường
- Kinh Học Hỏi và Thực Tập
- Kinh Mở Rộng Tầm Hiểu Biết
- Kinh Bồi Đắp Niềm Tin
- Kinh Nghiêm Trì Giới Luật
- Kinh Thực Tập Quán Niệm
- Kinh Nuôi Lớn Tình Thương
- Kinh Thực Tập Ái Ngữ
- Kinh Đối Chiếu
- Kinh Tinh Chuyên
- Kinh Điều Phục Tâm Ý
- Kinh Hoa Hương
- Kinh Người Ngu Muội
- Kinh Bậc Minh Triết
- Kinh Vị La Hán
- Kinh Vượt Thắng
- Kinh Quả Báo
- Kinh Bất Hại
- Kinh Tuổi Già
- Kinh Thương Thân
- Kinh Thoát Tục
- Kinh Phật Bảo
- Kinh An Lạc
- Kinh Luyến Ái
- Kinh Chế Ngự Phẫn Nộ
- Kinh Thanh Lọc Tâm Ý
- Kinh Phụng Trì
- Kinh Con Đường
- Kinh Tuyết Trên Đỉnh Núi
- Kinh Địa Ngục
- Kinh Điều Phục Chính Mình
- Kinh Chiếc Lưới Ái Ân
- Kinh Lợi Dưỡng
- Kinh Người Xuất Sĩ
- Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại
- Kinh Thoát Vòng Sinh Tử
- Kinh Đời Sống Đạo Lý
- Kinh Vị Phạm Chí
- Kinh Điềm Lành Lớn Nhất
Thích Nhất Hạnh Việt dịch
Thể kệ: Nguyên Định (chữ đậm)
Kinh Người Xuất Sĩ
Người xuất sĩ dù là còn trẻ nhưng hết lòng thực tập Phật pháp thì cũng giống như một mặt trăng soi sáng thế gian trong khung trời không có mây ám.
Sa Môn Phẩm Pháp Cú Kinh đệ tam thập t
沙門品法句經第三十四
Kinh Người Xuất Sĩ
Dịch từ kinh Pháp Cú trong Hán tạng
Phẩm thứ 34
Phẩm này có 32 bài kệ. Kinh này hoàn toàn để dành cho người xuất gia, nhưng người tại gia cũng cần phải học hỏi để có thể phân biệt được ai là người xuất gia chân chính. Người cư sĩ học kinh này sẽ thấy mình cũng có khả năng làm được như người xuất sĩ, nếu tâm bồ đề của mình đủ lớn mạnh. Mỗi bài kệ trong kinh này là một tấm gương soi sáng, rất tỏ tường. Ta hãy đọc các bài kệ thứ 5, thứ 6 và thứ 7 thì biết. Bài thứ 8 dạy các vị xuất sĩ làm lắng dịu các tâm hành, đạt tới bình an và thâm nhập được thiền định. Bài 15 dạy người xuất sĩ không cần làm sở hữu chủ của bất cứ cơ sở hay của cải nào. Bài 21 nhắc nhở rằng người xuất sĩ phải có hạnh phúc trong đời sống xuất gia, có khả năng chế tác hỷ lạc. Bài 22 dạy: người xuất sĩ dù là còn trẻ nhưng nếu hết lòng thực tập phật pháp thì cũng giống như một mặt trăng soi sáng thế gian trong khung trời không mây u ám. Các bài 23 và 24 ví vị xuất sĩ như một đóa sen, tinh khiết, vượt qua mặc cảm, buông bỏ ý niệm lưỡng nguyên, cắt đứt ân ái, chiến thắng ái dục, vượt qua được dòng lũ lụt. Đối với người xuất gia, kinh này cần nên tụng đọc ít nhất mỗi tháng một lần.
Bài kệ 1
Đoan mục nhĩ tỳ khẩu 端 目 耳 鼻 口
Thân ý thường thủ chánh 身 意 常 守 正
Tỳ-kheo hành như thị 比 丘 行 如 是
Khả dĩ miễn chúng khổ 可 以 免 眾 苦
Giữ gìn sáu căn là mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý của mình cho đoan chính, thực tập được như thế thì vị khất sĩ có khả năng diệt trừ được hết mọi khổ đau.
Giữ gìn sáu căn
Mắt tai mũi miệng
Thân ý đoan chính
Như thế khất sĩ
Diệt trừ khổ đau.
Bài kệ 2
Thủ túc mạc vọng phạm 手 足 莫 妄 犯
Tiết ngôn thuận sở hành 節 言 順 所 行
Thường nội lạc định ý 常 內 樂 定 意
Thủ nhất hành tịch nhiên 守 一 行 寂 然
Tay chân không vọng động, lời nói được tiết chế, hành động thận trọng, thường ưa thích thiền tập, đó là tư cách của một vị hành giả tĩnh lặng.
Kiểm soát tay chân
Tiết chế lời nói
Hành động thận trọng
Ưa thích thiền tập
Tư cách người tu.
Bài kệ 3
Học đương thủ khẩu 學 當 守 口
Hựu ngôn an từ 宥 言 安 徐
Pháp nghĩa vi định 法 義 為 定
Ngôn tất nhu nhuyễn 言 必 柔 軟
Kẻ hành giả giữ gìn khẩu nghiệp, nói lời an lành từ tốn, sử dụng ái ngữ để giảng bày yếu nghĩa của Phật pháp.
Giữ gìn khẩu nghiệp
Lời lành từ tốn
Sử dụng ái ngữ
Giảng bày Phật pháp.
Bài kệ 4
Lạc pháp dục Pháp 樂 法 欲 法
Tư tánh an Pháp 思 惟 安 法
Tỳ-kheo y Pháp 比 丘 依 法
Chánh nhi bất phí 正 而 不 費
Ưa thích học hỏi Phật pháp, chiêm nghiệm về Phật pháp, có niềm vui khi học hỏi và hành trì Phật pháp, vị Tỳ-khưu nương vào Phật pháp, đứng vững trong Phật pháp và không đánh mất cơ hội của mình.
Thích học Phật pháp
Chiêm nghiệm Phật pháp
Niềm vui học hành
Tỳ khưu nương vào
Nắm vững Phật pháp
Không mất cơ hội.
Bài kệ 5
Học vô cầu lợi 學 無 求 利
Vô ái tha hành 無 愛 他 行
Tỳ-kheo hảo tha 比 丘 好 他
Bất đắc định ý 不 得 定 意
Hành trì mà không tìm cầu lợi dưỡng, vị Tỳ-khưu không thèm muốn cái người ta đang có. Tâm ý nếu còn thèm muốn cái người ta đang có, vị khất sĩ không thành tựu được thiền định.
Không cầu lợi dưỡng
Không thèm người có
Nếu còn thèm muốn
Cái người đang có
Người tu khó thiền.
Bài kệ 6
Tỳ-kheo thiểu thủ 比 丘 少 取
Dĩ đắc vô tích 以 得 無 積
Thiên nhân sở dự 天 人 所 譽
Sanh tịnh vô uế 生 淨 無 穢
Tiếp nhận của cúng dường vừa phải, không có ý chất chứa cho riêng mình, vị Tỳ-khưu được các giới trời và người ca ngợi, làm phát sinh được sự thanh tịnh và trừ diệt được sự ô nhiễm.
Nhận cúng dường ít
Không cất riêng mình
Trời người ca ngợi
Khởi phát thanh tịnh
Trừ diệt ô nhiễm.
Bài kệ 7
Nhất thiết danh sắc 一 切 名 色
Phi hữu mạc hoặc 非 有 莫 惑
Bất cận bất ưu 不 近 不 憂
Nãi vi Tỳ-kheo 乃 為 比 丘
Thấy được tất cả các hiện tượng sắc và tâm đều không thật có, không bị chúng mê hoặc, không nắm bắt chúng, cũng không lo buồn khi không có chúng, đó đích thực là một vị khất sĩ.
Danh sắc không thật
Không bị mê hoặc
Không đuổi theo chúng
Không buồn khi vắng
Đích thực Khất sĩ.
Bài kệ 8
Tỳ-kheo vi từ 比 丘 為 慈
Ái kính Phật giáo 愛 敬 佛 教
Thâm nhập chỉ quán 深 入 止 觀
Diệt hành nãi an 滅 行 乃 安
Thực tập tâm từ, yêu kính Phật pháp, thâm nhập được các pháp chỉ và quán, vị khất sĩ làm lắng dịu được mọi tâm hành và đạt tới bình an.
Thực tập tâm từ
Yêu kính Phật pháp
Nắm vững chỉ quán
Lắng dịu tâm hành
Đạt tới bình an.
Bài kệ 9
Tỳ-kheo hỗ thuyền 比 丘 扈 船
Trung hư tắc khinh 中 虛 則 輕
Trừ dâm nộ si 除 婬 怒 癡
Thị vi nê hoàn 是 為 泥 洹
Cũng như tát nước ra khỏi chiếc thuyền cho chiếc thuyền được nhẹ, vị khất sĩ buông bỏ ái dục, sân hận và si mê, tới được Niết bàn.
Cũng như tát nước
Ra khỏi chiếc thuyền
Cho thuyền được nhẹ
Khất sĩ buông bỏ
Ái dục sân hận
Ngu si mê lầm
Tới được Niết bàn.
Bài kệ 10
Xả ngũ đoạn ngũ 捨 五 斷 五
Tư tánh ngũ căn 思 惟 五 根
Năng phân biệt ngũ 能 分 別 五
Nãi độ hà uyên 乃 渡 河 淵
Buông bỏ năm sử, cắt đứt năm triền, nuôi lớn năm lực, vị khất sĩ vượt năm kiến, thoát ra ngoài cơn lũ lụt.
Buông bỏ năm sử
Cắt đứt năm triền
Nuôi lớn năm lực
Vượt qua năm kiến
Thoát cơn lũ lụt.
Bài kệ 11
Thiền vô phóng dật 禪 無 放 逸
Mạc vi dục loạn 莫 為 欲 亂
Ất thôn dương đồng 不 吞 洋 銅
Tự não tiêu hình 自 惱 燋 形
Vị khất sĩ thực tập thiền quán không hề phóng dật, không để cho ái dục làm loạn tâm mình, không nuốt hòn sắt nóng của ái dục và không tự đốt cháy hình hài mình bằng lửa ái dục.
Thực tập thiền quán
Không hề phóng dật
Không để ái dục
Làm loạn tâm mình
Không nuốt hòn sắt
Nóng của ái dục
Không tự đốt cháy
Bằng lửa ái dục.
Bài kệ 12
Vô thiền bất trí 無 禪 不 智
Vô trí bất thiền 無 智 不 禪
Đạo tùng thiền trí 道 從 禪 智
Đắc chí nê hoàn 得 至 泥 洹
Không thiền thì không tuệ, không tuệ thì không thiền, có thiền có tuệ mới có con đường đưa tới Niết Bàn.
Không thiền không tuệ
Không tuệ không thiền
Có thiền có tuệ
Đưa tới Niết bàn.
Bài kệ 13
Đương học nhập không 當 學 入 空
Tĩnh cư chỉ ý 靜 居 止 意
Lạc độc bình xứ 樂 獨 屏 處
Nhất tâm quán pháp 一 心 觀 法
Vị hành giả tìm tới chỗ yên vắng, ở lại nơi thanh tịnh, ngưng tụ tâm ý, ở một mình, cách biệt thế gian, đem hết tâm trí quán chiếu về các pháp.
Tìm chỗ yên vắng
Ở nơi thanh tịnh
Ngưng tụ tâm ý
Ở riêng một mình
Cách biệt thế gian
Đem hết tâm trí
Quán chiếu các pháp.
Bài kệ 14
Thường chế ngũ uẩn 常 制 五 陰
Phục ý như thủy 伏 意 如 水
Thanh tịnh hòa duyệt 清 淨 和 悅
Vi cam lộ vị 為 甘 露 味
Chế ngự được năm uẩn, điều phục được tâm ý như nước, trong sáng và hòa vui, vị khất sĩ nếm được hương vị của cam lồ tịnh thủy.
Chế ngự năm uẩn
Điều phục tâm ý
Như nước trong vui
Khất sĩ nếm được
Bài kệ 15
Bất thọ sở hữu 不 受 所 有
Vi tuệ Tỳ-kheo 為 慧 比 丘
Nhiếp căn tri túc 攝 根 知 足
Giới luật tất trì 戒 律 悉 持
Không làm sở hữu chủ (của bất cứ cơ sở hay của cải nào), một vị khất sĩ thông tuệ biết nhiếp phục các căn, thực tập tri túc, giới luật nghiêm minh.
Không sở hữu gì
Khất sĩ thông tuệ
Nhiếp phục các căn
Thực tập tri túc
Giới luật nghiêm minh.
Bài kệ 16
Sanh đương hành tịnh 生 當 行 淨
Cầu thiện sư hữu 求 善 師 友
Trí giả thành nhân 智 者 成 人
Độ khổ trí hỉ 度 苦 致 喜
Suốt đời sống tịnh hạnh, tìm cầu thầy giỏi, bạn lành, bậc trí giả hoàn thành được nhân cách của mình, vượt qua biển khổ, tới được bờ vui.
Suốt đời tịnh hạnh
Tìm cầu thầy giỏi
Đi cùng bạn lành
Hoàn thành nhân cách
Vượt qua biển khổ
Tới được bờ vui.
Bài kệ 17
Như vệ sư hoa 如 衛 師 華
Thụ như tự đọa 熟 如 自 墮
Thích dâm nộ si 釋 婬 怒 癡
Sanh tử tự giải 生 死 自 解
Như một người bán hoa nhài, rũ cho những cánh hoa tàn rụng xuống, vị khất sĩ làm rơi rụng tham ái, hận thù và si mê, và tự tháo gỡ ra được những sợi dây sinh tử từng trói buộc mình.
Người bán hoa nhài
Rũ hoa tàn rụng
Khất sĩ làm rụng
Tham ái hận si
Tháo gỡ dây trói.
Bài kệ 18
Chỉ thân chỉ ngôn 止 身 止 言
Tâm thủ huyền mặc 心 守 玄 默
Tỳ-kheo khí thế 比 丘 棄 世
Thị vi thọ tịch 是 為 受 寂
Vị khất sĩ làm lắng dịu được thân và miệng, đưa tâm tới chỗ yên lắng diệu huyền, buông bỏ hết được chuyện thế gian, được xưng tán là một bậc tĩnh lặng.
Lắng dịu thân miệng
Tâm yên diệu huyền
Buông bỏ chuyện đời
Ấy bậc tĩnh lặng.
Bài kệ 19
Đương tự sắc thân 當 自 勅 身
Nội dữ tâm tranh 內 與 心 爭
Hộ thân niệm đế 護 身 念 諦
Tỳ-kheo duy an 比 丘 惟 安
Tự mình làm chủ được hình hài, lắng được tâm ý, hộ trì được tự thân, quán niệm về chân đế, vị khất sĩ tìm thấy được sự bình an.
Làm chủ hình hài
Lắng dịu tâm ý
Hộ trì tự thân
Quán niệm chân đế
Khất sĩ bình an.
Bài kệ 20
Ngã tự vi ngã 我 自 為 我
Kế vô hữu ngã 計 無 有 我
Cố đương tổn ngã 故 當 損 我
Điều nãi vi hiền 調 乃 為 賢
Tự mình bảo hộ được cho mình, nhưng không còn cố chấp vào một cái ngã và không tự làm hư hại cho bản thân, điều phục được như thế thì vị khất sĩ được gọi là một bậc hiền giả.
Tự mình bảo hộ
Không còn chấp ngã
Không tự làm hại
Điều phục bản thân
Ấy bậc hiền giả.
Bài kệ 21
Hỉ tại Phật giáo 可 以 多 喜
Khả dĩ đa hỉ 可 以 多 喜
Chí đáo tịch mịch 至 到 寂 寞
Hành diệt vĩnh an 行 滅 永 安
Có hạnh phúc trong đời sống xuất gia, có khả năng chế tác niềm vui lớn, đến được cõi tĩnh lặng, nơi ấy các pháp hữu vi đều được nhiếp phục thì sẽ được hưởng an ổn lâu dài.
Vui sống xuất gia
Chế tác niềm vui
Đến cõi tĩnh lặng
Nhiếp phục các pháp
An ổn lâu dài.
Bài kệ 22
Thảng hữu thiểu hành 儻 有 少 行
Ưng Phật giáo giới 應 佛 教 戒
Thử chiếu thế gian 此 照 世 間
Như nhật vô ê 如 日 無 曀
Người xuất sĩ dù là còn trẻ nhưng hết lòng thực tập Phật pháp thì cũng giống như một mặt trăng soi sáng thế gian trong khung trời không có mây ám.
Xuất sĩ còn trẻ
Hết lòng thực tập
Giống như mặt trăng
Soi sáng thế gian
Khung trời không mây.
Bài kệ 23
Khí mạn vô dư kiêu 棄 慢 無 餘 憍
Liên hoa thủy sanh tịnh 蓮 華 水 生 淨
Học năng xả thử bỉ 學 能 捨 此 彼
Tri thị thắng ư cố 知 是 勝 於 故
Bỏ mặc cảm tự tôn và tất cả các mặc cảm khác, giống như hoa sen sinh ra trong sạch từ nước, người hành giả có thể buông bỏ bỉ và thử, biết rằng nếp sống này là cao đẹp nhất.
Không được tự tôn
Bỏ các mặc cảm
Giống như hoa sen
Sinh ra từ nước
Buông bỏ bỉ thử
Nếp sống cao đẹp.
Bài kệ 24
Cát ái vô luyến mộ 割 愛 無 戀 慕
Bất thọ như liên hoa 不 受 如 蓮 華
Tỳ-kheo độ hà lưu 比 丘 渡 河 流
Thắng dục minh ư cố 勝 欲 明 於 故
Cắt đứt ân ái, không còn lưu luyến gì, như hoa sen không dính bùn, vị khất sĩ vượt qua dòng lũ, chiến thắng được ái dục và đạt tới minh triết.
Cắt đứt ân ái,
Không lưu luyến gì
Sen không dính bùn
Khất sĩ vượt lũ
Chiến thắng ái dục
Đạt tới minh triết.
Bài kệ 25
Tiệt lưu tự thị 截 流 自 恃
Thệ tâm khước dục 逝 心 却 欲
Nhân bất cát dục 仁 不 割 欲
Nhất ý do tẩu 一 意 猶 走
Hãy nỗ lực chận đứng dòng chảy, tự mình nương cậy vào mình, quyết tâm buông bỏ ái dục. Ái dục chưa dứt thì tâm ý vẫn còn rong ruổi.
Chận đứng dòng chảy
Nương cậy vào mình
Từ bỏ ái dục;
Ái dục chưa dứt
Tâm ý rong ruổi.
Bài kệ 26
Vi chi vi chi 為 之 為 之
Tất cường tự chế 必 強 自 制
Xả gia nhi giải 捨 家 而 懈
Ý do phục nhiễm 意 猶 復 染
Tinh tiến lên đi! Phải gắng tự nhiếp phục mình, xuất gia mà giải đãi thì tâm ý vẫn còn trở lại tình trạng ô nhiễm.
Tinh tiến lên đi
Tự nhiếp phục mình
Xuất gia giải đãi
Tâm còn ô nhiễm.
Bài kệ 27
Hành giải hoãn giả 行 懈 緩 者
Lao ý phất trừ 勞 意 弗 除
Phi tịnh phạm hạnh 非 淨 梵 行
Yên trí đại bảo 焉 致 大 寶
Người tu còn giải đãi, chưa có quyết tâm diệt trừ phiền não thì chưa phải là đang thực sự sống đời sống phạm hạnh thanh tịnh, như thế thì làm sao mong tới được kho tàng châu báu lớn?
Người tu giải đãi
Chưa trừ phiền não
Chưa thực sự sống
Đời sống phạm hạnh
Sao tới kho tàng.
Bài kệ 28
Sa môn hà hành 沙 門 何 行
Như ý bất cấm 如 意 不 禁
Bộ bộ trước niêm 步 步 著 粘
Đãn tùy tư tẩu 但 隨 思 走
Vị sa môn tại sao lại đi theo ý dục của mình mà không hành trì theo giới cấm? Bước chân nào cũng làm mình vướng mắc, tại sao lại cứ để cho tư dục kéo mình đi như thế?
Sa môn theo dục
Không giữ giới luật
Bước chân vướng mắc
Sao để tư dục
Lôi kéo mình đi.
Bài kệ 29
Ca sa phi kiên 袈 裟 披 肩
Vi ác bất tổn 為 惡 不 損
Ác ác hành giả 惡 惡 行 者
Tư đọa ác đạo 斯 墮 惡 道
Ca sa vắt vai, làm những điều phi pháp mà không dừng lại được, vị sa môn phải nhớ rằng kẻ làm điều phi pháp thế nào cũng phải sa đọa vào ác đạo.
Cà sa vắt vai
Làm điều phi pháp
Không dừng lại được
Thế nào cũng phải
Sa vào ác đạo.
Bài kệ 30
Bất điều nan giới 不 調 難 誡
Như phong khô thọ 如 風 枯 樹
Tác tự vi thân 作 自 為 身
Hạt bất tinh tấn 曷 不 精 進
Không biết tự điều phục, mà còn khó răn khó dạy, thì cũng như ngọn gió thổi vào cây khô. Đã biết là mình làm thì mình chịu, vậy tại sao mình lại không lo tinh tấn tu tập?
Không tự điều phục
Khó răn khó dạy
Cũng như ngọn gió
Thổi vào cây khô;
Mình làm mình chịu
Sao không tinh tấn.
Bài kệ 31
Tức tâm phi dịch 息 心 非 剔
Mạn di vô giới 慢 訑 無 戒
Xả tham tư đạo 捨 貪 思 道
Nãi ưng tức tâm 乃 應 息 心
Phải học cách làm cho tâm ý dừng lại. Không cần phải cắt bỏ bất cứ cái gì. Tất cả những mặc cảm, những vướng mắc, những điều trái chống với giới pháp đều có thể được chuyển hóa khi mình biết buông bỏ đam mê để thực tập Thiền đạo. Như vậy mới đúng là làm cho tâm ý dừng lại.
Phải học cách làm
Tâm ý dừng lại
Không cắt bỏ gì
Tất cả vướng mắc
Có thể chuyển hóa
Buông bỏ đam mê
Thực tập đạo thiền
Khiến dừng tâm ý.
Bài kệ 32
Tức tâm phi dịch 息 心 非 剔
Phóng dật vô tín 放 逸 無 信
Năng diệt chúng khổ 能 滅 眾 苦
Vi thượng sa môn 為 上 沙 門
Phải học cách làm cho tâm ý dừng lại. Không cần phải cắt bỏ bất cứ cái gì. Nếu buông bỏ được sự lười biếng và phát khởi được niềm tin thì mình sẽ có khả năng trừ diệt được mọi khổ nạn. Làm như thế mới thực sự là một vị xuất sĩ xuất sắc.
Phải học cách làm
Tâm ý dừng lại
Không cắt bỏ gì
Buông bỏ lười biếng
Phát khởi niềm tin
Trừ diệt khổ nạn
Xuất sĩ xuất sắc.