12.04. Phẩm Như Lai Bất Tư Nghì Tánh Thứ Tư

30/04/201012:00 SA(Xem: 70087)
12.04. Phẩm Như Lai Bất Tư Nghì Tánh  Thứ Tư
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XII
PHÁP HỘI BỒ TÁT TẠNG
THỨ MƯỜI HAI

Hán Dịch: Nhà Đường, Pháp Sư Huyền Trang
Việt Dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

04. Phẩm Như Lai Bất Tư Nghì Tánh
Thứ Tư


 Lúc bấy giờ đức Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất: “Chư đại Bồ Tát ấy khéo an trụ nơi đức tin thanh tịnh như vậy rồi, lại có thể tín thọ mười thứ pháp bất tư nghị của đức Như Lai Chánh Biến Tri, phụng trì kỹ lưỡng thanh tịnh không lầm không nghỉ, chẳng phân biệt sai khác, lại càng hớn hở rất vui mừng phát lý tưởng cho là hi hữu lạ lùng

 Những gì gọi là mười pháp bất tư nghị của Như Lai?

 Nầy Xá Lợi Phất! Một là tín thọ thân Như Lai bất tư nghị. Hai là tín thọ âm thanh Như Lai bất tư nghị. Ba là tín thọ trí Như Lai bất tư nghị. Bốn là tín thọ quang minh Như Lai bất tư nghị. Năm là tín thọ thi lachánh định Như Lai bất tư nghị. Sáu là tín thọ thần thông Như Lai bất tư nghị. Bảy là tín thọ lực Như Lai bất tư nghị. Tám là tín thọ vô úy Như Lai bất tư nghị. Chín là tín thọ đại bi Như Lai bất tư nghị. Mười là tín thọ Phật pháp bất cộng Như Lai bất tư nghị.

 Đó gọi mà mười thứ pháp bất tư nghị. Nếu có đại Bồ Tátcầu phápphát khởi chánh cần chẳng khiếp chẳng thối chẳng bỏ rời mà phát tâm như vầy: nay tôi chưa được pháp bất tư nghị thà khiến gió chuyển xoay thân tôi da thịt gân xương thọ khổ não lớn, hoặc lại máu thịt khô kiệt, chớ tâm tôi vẫn siêng tu tinh tiến không tạm bỏ giữa chừng.

 Nầy Xá Lợi Phất! Chư đại Bồ Tát đã được tín giải nếu nghe mười thứ pháp bất tư nghị của Như Lai như vậy thì tín thọ phụng trì kỹ lưỡng thanh tịnh không nghi lài càng hớn hở rất vui mừng phát sanh tưởng nghĩ là hi hữu là lùng”.

 Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

 “Thân Phật bất tư nghị
 Là pháp thân hiển hiện
 Không tướng chẳng thấy được
 Chỉ Phật tử tin được
 Các chúng sanh nhiều loại
 Âm thanh bất tư nghị
 Theo tiếng mà thuyết pháp
 Tin cảnh giới chư Phật
 Tất cả loài quần sanh
 Ba đời căn tánh khác
 Phật đều biết rõ cả
 Tin là bất tư nghị
 Chư Phật vô biên quan
 Quang minh chẳng nghĩ bàn
 Chiếu khắp mười phương cõi
 Vô biên biển Phật độ
 Phật giới luật siêu đời
 Chẳng y chỉ thế pháp
 Thần túc bất tư nghị
 Bồ Tát tín thọ được
 Chúng sanh chẳng biết được
 Cảnh giới của Như Lai
 Như Lai thường tại định
 Giải thoát bất tư nghị
 Pháp giới chẳng tạp nhau
 Chỉ Phật lực biết được
 Các trí lực của Phật
 Dường như không vô biên
 Vì lợi một chúng sanh
 Mà trụ vô biên kiếp
 Khiến họ được điều phục
 Đại bi tâm như vậy
 Tất cả các quần sanh
 Nhiều thứ pháp vấn nạn
 Một tiếng làm vui hiểu
 Vô úy bất tư nghị
 Thành nhứt thiết chủng trí
 Thấy rõ tất cả pháp
 Và Phật pháp bất cộng
 Phật trí đều thấy cả
 Tất cả pháp chư Phật
 Khó nghĩ bàn như vậy
 Có ai kính tin được
 Là khéo trụ đức tin.

 Nầy Xá Lợi Phất! Thế nào là đại Bồ Tát đối với thân Như Lai bất tư nghịtín thọ phụng trì kỹ lưỡng thanh tịnh không nghi ngờ lại càng hớn hở vui mừng phát sanh tưởng nghĩ là hi hữu là lùng?

 Nầy Xá Lợi Phất! Thân Như Lai dứt hẳn tất cả pháp ác bất thiện. Tại sao? Vì hay thành tựu tất cả các pháp lành vi diệu.

 Thân Như Lai xa rời tất cả mũi dãi đàm nhớt mủ máu đại tiện tiểu tiện nhơ uế. Tại sao? Vì từ lâu xa đức Như Lai đã giải thoát tất cả xương thịt gân mạch.

 Thân Như Lai tự tánh sạch sẽ. Tại sao? Vì từ lâu xa đức Như Lai đã rời lìa tất cả phiền não cấu uế.

 Thân Như Lai hơn hẳn thế gian. Tại sao? Vì chẳng bị thế pháp ô nhiễm.

 Thân Như Laivô lượng công đức, từ lâu đã chứa họp tư lương phước trí. Là chỗ y chỉ huệ mạng của tất cả chúng sanh.

 Thân Như Lai là chỗ huân tu vô lượng giới thanh tịnh, là chỗ huân tu của vô lượng giới thanh tịnh, là chỗ huân tu của vô lượng chánh định, vô lượng huệgiải thoát, tri kiến giải thoát.

 Thân Như Lai là chỗ nghiêm sức của các bông hoa công đức.

 Thân Như Lai như hình tượng vi diệu trong gương sạch, như bóng trăng tròn sáng trong nước trong, và chói sáng như ánh nắng.

 Thân Như Lai chẳng thể nghĩ bàn đồng với hư không giới tột cả pháp giới tánh.

 Thân Như Lai thanh tịnh không ô nhiễm rời xa tất cả những uế trược ô nhiễm.

 Thân Như Lai tức là vô vị rời xa tất cả những tướng hữu vi.

 Thân Như Lai là thân hư không, là thân vô đẳng, là thân vô đẳng đẳng, là thân mà tất cả ba cõi đều không so sánh bằng được, là thân không ví dụ được, là thân không gì tương tợ.

 Thân Như Lai thanh tịnh không cấu nhơ rời lìa phiền não tự tánh trong suốt.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Thân Như Lai chẳng thể lấy tiền tế để cầu, chẳng thể lấy hậu tế để cầu, chẳng thể lấy hiện tại để cầu, chẳng thể lấy dòng họ chỗ đang sanh để cầu.

 Thân Như Lai chẳng thể lấy sắc để cầu, chẳng thể lấy tướng để cầu, chẳng thể lấy đẹp tốt để cầu.
 Thân Như Lai chẳng thể lấy tâm để cầu, chẳng thể lấy ý để cầu, chẳng thể lấy thức để cầu.
 Thân Như Lai chẳng thể lấy sự thấy để cầu, chẳng thể lấy sự nghe để cầu, chẳng thể lấy sự tưởng nhớ để cầu, chẳng thể lấy sự biết rõ để cầu.

 Thân Như Lai chẳng thể lấy uẩn để cầu, chẳng thể lấy xứ để cầu, chẳng thể lấy giới để cầu.

 Thân Như Lai chẳng thể lấy sanh để cầu, chẳng thể lấy trụ để cầu, chẳng thể lấy hoại diệt để cầu.

 Thân Như Lai chẳng thể lấy thủ để cầu, chẳng thể lấy xả để cầu, chẳng thể lấy xuất ly để cầu, chẳng thể lấy hành để cầu.

 Thân Như Lai chẳng thể lấy hiển sắc để cầu, chẳng thể lấy tướng mạo để cầu, chẳng thể lấy hình sắc để cầu, chẳng thể lấy đến để cầu, chẳng thể lấy đi để cầu.

 Thân Như Lai chẳng thể lấy tác ý tịnh giới để cầu, chẳng thể lấy tác ý đẳng quán để cầu, chẳng thể lấy tác ý chánh huệ để cầu, chẳng thể lấy tác ý giải thoát để cầu, chẳng thể lấy tác ý tri kiến giải thoát để cầu.

 Thân Như Lai chẳng thể lấy hữu tướng để cầu, chẳng thể lấy vô tướng để cầu, chẳng thể lấy các pháp tướng để cầu.

 Thân Như Lai chẳng thể lấy lực tăng ích để cầu, chẳng thể lấy vô úy tăng ích để cầu, chẳng thể lấy vô ngại biện tăng ích để cầu, chẳng thể lấy thần thông tăng ích để cầu, chẳng thể lấy đại bi tăng ích để cầu, chẳng thể lấy bất cộng Phật pháp tăng ích để cầu.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát muốn cầu thân Như Lai thì phải như huyễn như hóa như trăng trong nước, tự tánh như vậy mà cầu thân Như Lai.

 Nầy Xá Lợi Phất! Thân Như Lai là thân không giải thoát, vô tướng giải thoátvô nguyện giải thoát, là thân không biến dị, là thân không động không hoại, là thân không phân biệt, là thân không y chỉ, là thân không tư lự.

 Thân Như Lai là thân an trụ thiện trụ được chẳng biến động.

 Thân Như Lai là thân tự tánh sắc không có sắc, là thân tự tánh thọ không có thọ, là thân tự tánh tưởng không có tưởng, là thân tự tánh hành không có hành, là thân tự tánh thức không có thức.

 Thân Như Lai là thân không có tứ đại vô hữu vô sanh, là pháp hân hi hữu.

 Thân Như Lai chẳng phải cảnh của nhãn, nó chẳng ở trong sắc cũng chẳng ở ngoài; chẳng y cứ nơi nhĩ, chẳng ở trong thanh cũng chẳng ở ngoài; chẳng phải tỷ biết được, chẳng ở trong hương cũng chẳng ở ngoài; chẳng phải thiệt hiển hiện được, chẳng ở trong vị cũng chẳng ở ngoài; chẳng hiện với thân, chẳng trong xúc cũng chẳng ở ngoài.

 Thân Như Lai chẳng y cứ nơi tâm để chuyển, chẳng y cứ nơi ý để chuyển, chẳng y cứ nơi thức để chuyển, thường an trụ bất động, chẳng phải là xoay về cũng chẳng chuyển theo.

 Nầy Xá Lợi Phất! Thân Như Lai lượng đồng hư không, tột pháp giới tận hư không giới.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đó gọi là thân Như Lai bất tư nghị đệ nhứt.

 Chư đại Bồ Tát ấy nghe thân Như Lai bất tư nghị như hư không rồi, tin nhận vâng thờ thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng rất hy kỳ”.

 Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

 “Câu chi na do kiếp
 Hành vô lượng hạnh lớn
 Khéo sạch thân ba nghiệp
 Được thân Phật vô đẳng
 Từ tâm khắp mười phương
 Khởi đại bi bố thí
 Thường rời sự tà dâm
 Được thân thắng hư không
 Nơi Thế Tôn phước điền
 Phật tử rộng cúng dường
 Xả thí y phục quý
 Như vô lượng hằng sa
 Phụng trì giới thanh tịnh
 Như trâu ly giữ đuôi
 Dầu thân bị đập nát
 Đại nhẫn đối oán thù
 Tinh tiến ba la mật
 Tu hành tột khổ nhọc
 Phát thệ nguyện rộng lớn
 Cầu thân Phật thường trụ
 Thích quán các định cảnh
 Thích trí huệ phương tiện
 Thích quán pháp giới tánh
 Nguyện thân đồng pháp giới
 Nơi Phật tu hành rồi
 Thành diệu giác vô đẳng
 Được thân hư không lớn
 Trắng trong rời bụi nhơ
 Tánh không không ngã nhơn
 Vô tướng chẳng nói được
 Chứng thân Như Lai nầy
 Quá cảnh giới của nhãn
 Ý tịnh rời sắc thân
 Bổn không không khởi tác
 Người thấy thân chơn như
 Thì thấy mười phương Phật
 Như các thứ ảo thuật
 Hóa voi ngựa người cuồng
 Phỉnh gạt kẻ ngu khờ
 Như vậy xem mười phương
 Vô lượng Phật ba đời
 Đồng ở thân pháp tánh
 Hư không vô đẳng đẳng
 Pháp giới tột thanh tịnh.

 Như vậy nầy Xá Lợi Phất! Đó gọi là thân Như Lai bất tư nghịĐại Bồ Tát tin nhận vâng thờ thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy kỳ”.

 Lúc đó đức Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất: “Thế nào là đại Bồ Tát ở nơi âm thanh Như Lai bất tư nghị tin nhận vâng theo thanh tịnh không nghi, lại càng hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy kỳ.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai xuất thế thương xót các chúng sanh nên diễn bày chánh pháp để giáo hóaÂm thanh của đức Phật phát ra vừa bằng với chúng hội, vì do nơi sức chúng sanh được điều phụcÂm thanh của Như Lai khắp cả vô lượng thế giới mười phương, vì làm cho lòng chúng sanh hoan hỷ.

 Nầy Xá Lợi Phất! Nhưng chư Như Lai phát ra âm thanh dầu khắp cả thế giới mà chẳng nghĩ là ta vì chúng Tỳ Kheo thuyết pháp, vì chúng Tỳ Kheo Ni thuyết pháp, vì chúng Ưu Bà Tắc thuyết pháp, vì chúng Ưu Bà Di thuyết pháp, vì chúng Bà La Môn, chúng Sát Đế Lợi, chúng Trưởng Giả, chúng chư Thiên, chúng Phạm Thiên v.v... thuyết phápNhư Lai cũng chẳng nghĩ rằng nay ta diễn nói khế kinh, trùng tụng, thọ ký, kệ tụng, tự thuyết, duyên khởi, bổn sự, bổn sanh, phương quảng, vị tằng hữu, thí dụ, luận nghị. Với mười hai phần giáo như vậy, đức Như Lai chưa bao giờ nghĩ là vì chúng mà diễn bày.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai tùy theo các chúng nhóm họp đến, đó là chúng Tỳ Kheo nhẫn đến chúng Phạm Thiên, như các môn chánh cần mà họ đã được nghe, mà vì họ thuyết pháp. Vì thích nghe pháp nên các chúng sanh ấy đều riêng tự cho được nghe tiếng nói pháp từ miệng đức Phật phát ra. Nhưng tiếng nói pháp ấy đối với các loại ngôn từ của họ nói đều không chướng ngại, họ đều riêng hiểu biết nơi pháp mà họ được rõ. Đây thì gọi là âm thanh chẳng thể nghĩ bàn được.

 Nầy Xá Lợi Phất! Chư Phật Như Lai do phước thuở trướccảm quả báo âm thanhvô lượng tướng. Những là âm thanh hiền từ, âm thanh vừa ý, âm thanh vui lòng, âm thanh thanh tịnh, âm thanh ly cấu, âm thanh mỹ diệu, âm thanh thích nghe, âm thanh rành rẽ, âm thanh chẳng cứng chẳng rít, âm thanh làm cho thân tâm vui đẹp thơ thới, âm thanh làm cho tâm hớn hở, âm thanh làm cho tâm vui mừng, âm thanh phát khởi hỷ lạc, âm thanh dễ hiểu, âm thanh dễ biết âm thanh chánh trực, âm thanh khả ái, âm thanh khả hỷ, âm thanh mừng rỡ, âm thanh đẹp ý, âm thanh sư tử hống, âm thanh sấm nổ lớn, âm thanh biển vang lớn, âm thanh Khẩn Na La Thần ca ngậm, âm thanh ca lăng tần già kêu hót, âm thanh Phạm Thiên, âm thanh trống trời, âm thanh cát tường, âm thanh nhu nhuyến, âm thanh hiển sướng, âm thanh sâu xa như sấm to, âm thanh tất cả chúng sanh các căn đều mừng, âm thanh vừa xứng tất cả chúng hội, âm thanh thành tựu tất cả tướng vi diệu.

 Nầy Xá Lợi Phất! Âm thanh của Như Lai đầy đủ những công đức thù thắng như vậy, và còn vô lượng vô biên công đức trang nghiêm.

 Đây gọi là âm thanh bất tư nghị thứ hai của đức Như Lai.

 Chư đại Bồ Tát ấy nghe âm thanh bất tư nghị của đức Như Lai đầy đủ vô lượng công đức thù thắng tin nhận vâng thờ thanh tịnh không nghi, càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy kỳ”.

 Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

 “Đức Phật phát diệu âm
 Gọi là phạm âm thanh
 Do pháp nầy đầy đủ
 Khiến Phạm Thiên vui mừng
 Đức Phật diễn diệu âm
 Từ đại bi phát ra
 Tương ưng với đức từ
 Cũng tương ưng hỉ xả
 Âm thanh đầy đủ ấy
 Tắt lửa tham chúng sanh
 Dứt trừ độc giận thù
 Phá vỡ những si tối
 Giả sử châu Diêm Phù
 Có vô lượng tiếng người
 Dầu được nghe khắp cả
 Vẫn chẳng ngộ giải thoát
 Tiếng thiên địa hư không
 Nghe chẳng tỏ cũng vậy
 Nếu nghe tiếng của Phật
 Chắc chứng được Niết Bàn
 Loài hai chưn, bốn chưn
 Nhiều chưn và không chưn
 Đều đồng tiếng với họ
 Cho họ rõ thiện ác
 Trong Đại Thiên thế giới
 Âm thanh thượng trung hạ
 Theo các loại âm thanh
 Giáo hóa chứng giải thoát
 Diễn tiếng vô phân biệt
 Không trói không nhiếp thọ
 Tại định nói chơn thế
 Người nghe hết phiền não
 Vô biên chúng sanh nghe
 Âm thanh Phật Pháp Tăng
 Và thí giới văn nhẫn
 Âm thanh Phật như vậy
 Tiếng Phật không hạn lượng
 Thanh Trí đều vô biên
 Tin chắc âm thanh Phật
 Chỉ trí huệ Bồ Tát”.

 Đức Phật lại bảo Ngài Xá Lợi Phất: “Thế nào là đại Bồ Tát đối với đại trí bất tư nghị của đức Như Lai mà tin nhận vâng thờ thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý hy kỳ?

 Nầy Xá Lợi Phất! Trí thấy biết vô ngại của đức Như Lai chẳng thể nghĩ bàn, ở trong tất cả pháp y cứ nơi đó mà phát khởiChư đại Bồ Tát thì tín thọ vâng thờ được, càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy kỳ”.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai vì phát sanh tín tâm nên y cứ nơi Như Lai trí ba la mật đa mà rộng nói những ví dụ. Những người có trí bèn được hiểu biết.

 Nầy Xá Lợi Phất! Giả sử có người đem tất cả thảo mộc cây nhánh gốc lá của trong những thế giới số bằng cát sông Hằng chất lại thành một đống lớn rồi đốt cháy thành than đen. Đem hết số than đen ấy đổ vào trong biển của hằng sa thế giới. Sau đó trăm ngàn năm mới lấy đem mài tất cả thành nước mực.

 Nầy Xá Lợi Phất! Trí thấy biết vô ngại của đức Như Lai thành tựu, lấy một giọt nước mực trong biển lớn ấy, do sức trí thấy biết nên phân tích biết rõ ràng đó là do cây hay nhánh lá hoa quả v.v... trong thế giới ấy làm thành. Tại sao? Vì đức Như Lai khéo thông đạt pháp giới nên biết rõ được giọt mực ấy từ cây lá trong thế giới ấy làm thành.

 Theo thứ đệ như vậy nhẫn đến nói rộng ra.
 Nầy Xá Lợi Phất! Đó gọi là đức Như Lai Chánh Biến Triđủ sức đại thần thông như vậy, có đủ sức đại oai đức như vậy, có đủ sức đại tông thế như vậy. Thế nên có thiện nam thiện nữ đối với trí thấy biết rộng lớn của đức Như Lai mà tin nhận thanh tịnh, lại sanh lòng ái kính đối với đức Phật, thì căn lành của thiện nam thiện nữ ấy chẳng có ngằn mé, họ mau hết khổ tế. Tại sao? Vì đức Như Lai khéo thông đạt pháp giới. Do vì thông đạt nên nếu có chúng sanh nào đối với đức Như Laiphát khởi chút căn lành thì mãi mãi đến lúc hết khổ tế, căn lành ấy vẫn chẳng hư hoại.

 Nầy Xá Lợi Phất! Nay ta sẽ vì ông mà nói ví dụ nữa. Khiến cho người trí do đây mà hiểu nghĩa.

 Ví như có nam tử sống trăm tuổi. Người nầy tán chia một đầu sợi lông ra làm một trăm năm mươi phần, rồi lấy một phần lông thấm một giọt nước đem đến chỗ ta mà nói rằng: xin gởi giọt nước nầy cho Ngài, sau đây nếu tôi cần dùng xin Ngài ban lại cho tôi. Đức Như Lai nhận giọt nước ấy đem để trong sông Hằng, nước sông Hằng hòa lẫn cuốn chảy thẳng đến biển lớn. Sau đó trăm năm, người ấy đến xin ta trả lại giọt nước đã gởi.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai thành tựu trí thấy biết chẳng thể nghĩ bàn. Do trí nầy mà đức Như Lai thấy biết giọt nước ấy ở trong biển lớn, bèn lấy một phần lông đến trong biển lớn thấm giọt nước ấy để trao lại cho người gởi.

 Nầy Xá Lợi Phất! Ví dụ ấy có nghĩa là gì? Đó là chúng sanh đã từng đem một giọt nước nhỏ căn lành gởi vào tay phước điền của Như Lai thì còn mãi chẳng mất.

 Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam thiện nữ đối với trí bất tư nghị của đức Như Lai mà tin nhận thanh tịnh sanh lòng ái kính. Vì tưởng niệm đức Như Laicúng dường nhiều thứ, lại đem hoa đẹp rải lên dưng cúng. Căn lành của người nầy không ai biết được ngằn mé, mau hết khổ tế. Tại sao? Vì đức Như Lai khéo thông đạt pháp giới, nên có ai phát khởi một tâm niệm lành đối với đức Như Lai thì cùng tận khổ tế vẫn chẳng hư hoại”.

 Bấy giờ Trưởng Giả Xá Lợi Phất bạch đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Trí bất tư nghị của đức Như Lai có phải rời thức mà chuyển chăng?”.

 Đức Phật phán: “Không phải”.
 Ngài Xá Lợi Phất lại bạch: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu như vậy thì thế nào là trí và thế nào là thức?”.

 Đức Phật phán: “Nầy Xá lợi Phất! Có bốn thứ thức trụ. Vì thức y cứ nơi đó mà an trụ nên gọi là thức trụ.

 Một là sắc thức trụ, thức duyên nơi sắc, thức trụ trong sắc, do đó mà sanh ra ưa thích trụ trước càng thêm lớn mạnh vững chắc rộng lớn.

 Hai là thọ thức trụ, thứ duyên nơi thọ, thức trụ trong thọ, do đó mà sanh ra ưa thích trụ trước càng thêm lớn mạnh vững chắc rộng lớn.

 Ba là tưởng thức trụ, thức duyên nơi tưởng, thức trụ trong tưởng, do đó mà sanh ra ưa thích trụ trước càng thêm lớn mạnh vững chắc rộng lớn.

 Bốn là hành thức trụ, thức duyên nơi hành, thức trụ trong hành, do đó mà sanh ra ưa thích trụ trước càng thêm lớn mạnh vững chắc rộng lớn.

 Những tướng như vậy gọi đó là thức.

 Lại lấy những gì gọi đó là trí? Đó là chẳng trụ trong năm thọ uẩn mà tỏ thấu uẩn thì gọi là trí.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Gọi là thức, đó là hay rõ biết địa đại chủng, thủy đại chủng hỏa đại chủng và phong đại chủng thì gọi là thức.

 Gọi là trí, đó là chẳng trụ trong bốn đại chủng khéo thông đạt được pháp giới của thức mà chẳng xen tạp nhau thì gọi là trí.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Gọi là thức, đó là ha rõ biết sắc được biết của nhãn, thanh được biết của nhĩ, hương được biết của tỷ, vị được biết của thiệt, xúc được biết của thân và pháp được biết của ý thì gọi là thức.

 Gọi là trí, đó là nơi trong tịch tịnh chẳng đi nơi ngoài chỉ y nơi trí, chẳng ở nơi một pháp nào mà sanh phân biệt và các thứ phân biệt thì gọi là trí.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Theo cảnh giới mà sanh thì gọi là thức, theo tác ý mà sanh thì gọi là thức, theo phân biệt mà sanh thì gọi là thức. Còn không lấy không nắm, không có sở duyên, không chỗ rõ biết, không có phân biệt thì gọi là trí.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Gọi là thức, đó là trụ nơi pháp hữu vi. Tại sao? Vì trong pháp vô vi, thức không hiện hành được. Nếu rõ thấu được pháp vô vi thì gọi là trí.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Trụ nơi sanh diệt thì gọi là thức. Không sanh không diệt có chỗ trụ thì gọi là trí.

 Nầy Xá Lợi Phất! Các hành tướng như vậy, hoặc là thức hoặc là trí, đó gọi là đại trí bất tư nghị thứ ba của đức Như Lai.

 Nếu chư đại Bồ Tát nghe đại trí bất tư nghị không chướng không ngại trong tất cả pháp y đó mà sanh khởi như vậy liền tin nhận vâng thờ thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tuởng hy kỳ”.

 Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

 “Vô lượng hằng sa cõi
 Cây cỏ lá bông trái
 Đều đốt thành tro mực
 Ức năm mà nơi biển
 Thập lực trí sâu diệu
 Lấy một giọt bảo lành
 Biết rõ cây cõi nào
 Mài thành giọt mực nầy
 Đem trần thủy mười phương
 Trình bày trước Như Lai
 Trí Phật đồng hư không
 Biết khắp không nghi trệ
 Tâm chúng sanh mười phương
 Hiện hành tham sân si
 Đều biết được như thiệt
 Giải thoát không tăng giảm
 Mười trí lực của Phật
 Soi sáng khắp pháp giới
 Không phân biệt tư lự
 Bồ Tát hay tin nhận”.

 Đức Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất: “Thế nào là đại Bồ Tát đối với đại quang bất tư nghị của đức Như Lai mà tin nhận vâng thờ thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy kỳ?

 Nầy Xá Lợi Phất! Vì chư Phật Như Lai thông đạt pháp giới nên chẳng thể nghĩ bàn: Do vì thông đạt nên tất cả Như Lai phóng quang minh lớn chiếu khắp cõi Đại Thiên mà không chướng ngại.

 Nầy Xá Lợi Phất! Ví như trong hư không không có mây mù, mặt nhựt lên cao phóng ánh sáng lớn chiếu khắp thế gianChư Phật Như Lai phóng đại quang minh chiếu khắp tất cả cũng như vậy.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Trong thế gian, ánh sáng ngọn đèn dầu đối với ánh sáng lớn chói sáng hơn nhiều. Ánh sáng ngọn đuốc sáng hơn đèn dầu. Đống lửa đình liệu lại sáng hơn lửa đuốc. Dược thảo phát ánh sáng lại hơn đống lửa. Ánh sáng tinh tú lại hơn dược thảo. Trăng tròn chiếu sáng hơn tinh tú nhiều. Trời nắng giữa trưa sáng gấp bội vầng nguyệt. Thân trời Tứ Vương cùng cung điện thềm vách đồ trang nghiêm phát ánh sáng hơn mặt trời không gì ví dụ được. Cứ như vậy mà so sánh đến ánh sáng phát ra từ thân trời Tha Hóa cùng cung điện thềm vách đồ trang nghiêm hơn ánh sáng trước. Ánh sáng của các trời Phạm Chúng, Phạm Phụ, Phạm Vương, Thiểu Quang, Vô Lượng Quang, Quang Âm, Thiểu Tịnh, Vô Lượng Tịnh, Biến Tịnh, Quảng Quả, Hữu Tưởng, Vô Tưởng, Vô Phiền, Vô Nhiệt, Thiện Hiện, Thiện KiếnSắc Cứu Cánh Thiên phát ra là tối đệ nhứt so với các ánh sáng trước. Đem ánh sáng trời Sắc Cứu Cánh so với ánh sáng của đức Như Lai Chánh Biến Tri, thì ánh sáng của đức Như Lai hơn kia nhiều, vi diệu chiếu sáng thanh tịnh rộng lớn đệ nhứt, chẳng gì ví dụ được.

 Tại sao?
 Nầy Xá Lợi Phất! Ánh sáng của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn. Ánh sáng ấy từ vô lượng giới tụ phát sanh, từ đẳng trì tụ phát sanh, từ huệ tụ, giải thoát tụ và giải thoát tri kiến tụ phát sanh. Từ vô lượng công đức như vậy phát sanh ánh sáng của đức Như Lai.

 Nầy Xá Lợi Phất! Bao nhiêu những ánh sáng trong cõi Đại Thiên so với ánh sáng của đức Như Lai chẳng bằng một phần trăm, nhẫn đến chẳng bằng một phần ưu ba ni sa đà, ví dụ toán số đều chẳng đếm được.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Như đem vàng diêm phù đàn để trong vàng thường, nó làm cho vàng thường ấy như đống mực không còn chói sáng. Ánh sáng của cõi Đại Thiên ở trước ánh sáng của Như Lai thì tất cả sự chói sáng cũng như vậy.

 Lại tất cả những ánh sáng ở thế gian ở trước ánh sáng của đức Như Lai thì không còn gọi được là có sáng có chói nữa.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Ông phải biết rằng nếu đức Như Lai chẳng vì thương xót các chúng sanh nên nhiếp lấy ánh sáng nơi thân còn một tầm, mà chỉ dùng ánh sáng sanh ra từ một phần ít hạnh nghiệp cũng chiếu được khắp cả cõi Đại Thiên làm cho ánh sáng của mặt nhựt mặt nguyệt không còn phát hiện. Và như vậy thì chẳng còn phân biệt có ngày có đêm, chẳng còn phân biệt có tháng, nửa tháng, ngày, giờ, thời tiết, năm tháng. Chỉ vì thương các chúng sanh mà các đức Như Lai hiện chiếu một tầm.

 Nầy Xá Lợi Phất! Nếu đức Như Lai Chánh Biến Tri phát ý muốn dùng ánh sáng chiếu khắp vô lượng vô biên vô số thế giới thì có thể chiếu khắp. Tại sao? Vì đức Như Lai đã được đệ nhứt Bát nhã ba la mật đa vậy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Nay ta vì ông lại nói ví dụ để thuyết minh lại nghĩa ấy. Những người có trí càng hiểu rõ thêm.

 Ví như có người đem cõi Đại Thiên nghiền nát làm vi trần để trong tay áo rồi đi qua phương Đông quá những thế giới như số vi trần ấy mới bỏ rơi một vi trần, làn lượt đi và bỏ rơi đến hết số vi trần ấy, mà chưa biết hết những thế giới ở phương Đông. Các phương Nam, Tây, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, trên, dưới cũng như vậy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Có người nào có thể được biên tế các thế giới ấy chăng?”.
 Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Không có”.

 Đức Phật phán: “Nầy Xá Lợi Phất! Bao nhiêu ánh sáng có trong các thế giới ấy vô lượng vô biên chẳng nghĩ bàn được. Mà ánh sáng của Như Laiđệ nhứt hơn cả. Tất cả ánh sáng của tất cả thế giới ấy so với ánh sáng của đức Như Lai không bằng một phần trăm nhẫn đến chẳng bằng một phần ưu ba ni sa đà, toán số ví dụ chẳng thể đếm được.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai phát ý muốn dùng ánh sáng chiếu khắp tất cả thế giới thì có thể chiếu khắp.

 Tại sao? Vì đức Như Lai đã được đệ nhứt Bát nhã ba la mật đa vậy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Ánh sáng của đức Như Lai không có chướng ngại. Bao nhiêu tường vách, hoặc những cây cối, hoặc những núi Luân Vi, núi Đại Luân Vi, núi Càn Đà Ma Đạt Na, núi Mục Chơn Lân Đà, núi Đại Mục Chơn Lân Đà, núi Y Sa Đà La, Tuyết Sơn, Hắc Sơnnúi Tu Di đều chẳng che chướng được ánh sáng của Như Lai. Ánh sáng của đức Như Lai đều có thể soi suốt chiếu khắp cõi Đại Thiên.

 Nầy Xá Lợi Phất những chúng sanh ít trí huệ chẳng tin hiểu được ánh sáng của đức Như Lai. Hoặc có chúng sanh thấy ánh sáng của đức Như Lai chỉ chiếu có một tầm. Kế có kẻ thấy chiếu hai tầm. Kế có kẻ thấy chiếu một câu lô xá. Kế có người đại trí nhẫn đến thấy ánh sáng của đức Như Lai chiếu khắp cõi Đại Thiên

 Nầy Xá Lợi Phất! Phạm Thiên Vương chúa của trăm ngàn thế giới có thể thấy ánh sáng của đức Như Lai chiếu khắp trăm ngàn thế giới. Lần lược như vậy, đến bực đại Bồ Tát lên bực thượng địa có thể thấy ánh sáng của đức Như Lai chiếu khắp vô lượng vô biên thế giới.

 Nầy Xá Lợi Phất! Vì thương xót các chúng sanh nên đức Như Lai lại phóng ánh sáng chiếu khắp các cõi chúng sanh cùng tận hư không.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đó gọi là ánh sáng bất tư nghị thứ tư của đức Như LaiChư đại Bồ Tát nghe đức Như Lai nói ánh sáng lớn ấy chẳng thể nghĩ bàn như hư không rồi không lầm không nghi tin nhận thanh tịnh càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy kỳ”.

 Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

 “Ánh sáng mặt nhựt nguyệt
 Của Đế Thích Phạm Thiên
 Nhẫn đến Sắc Cứu Cánh
 Không bằng ánh sáng Phật
 Ánh sáng Sắc Cứu Cánh
 Chiếu khắp cõi Đại Thiên
 So một tia sáng Phật
 Chẳng bằng một phần nhỏ
 Đức Phật phóng ánh sáng
 Chiếu khắp cõi hư không
 Các chúng sanh trí lớn
 Mới thấy được như vậy
 Ánh sáng Phật vô biên
 Bằng với cõi hư không
 Tùy chúng sanh được độ
 Thấy ánh sáng sai khác
 Như có kẻ sanh manh
 Chẳng thấy sáng mặt trời
 Họ chẳng thấy ánh sáng
 Nói mặt nhựt không sáng
 Các chúng sanh hạ liệt
 Chẳng thấy ánh sáng Phật
 Họ chẳng thấy sáng chiếu
 Nói không ánh sáng Phật
 Hoặc thấy sáng một tầm
 Hoặc thấy câu lô xá
 Hoặc đến một do tuần
 Hoặc khắp cõi Đại Thiên
 Hoặc đã trụ Thượng Địa
 Bực Bồ Tát đại trí
 Hoặc ở bực Bát Cửu
 Nhẫn đến bực Thập Địa
 Phật siêu bực Thập Địa
 Vầng sáng vô biên lượng
 Chiếu bất tư nghị cõi
 Để làm các Phật sự
 Chư Phật bất tư nghị
 Phật quang bất tư nghị
 Người tin và được phước
 Cũng là khó tư nghị”.

 Đức Phật lại bảo Ngài Xá Lợi Phất! “Thế nào là đại Bồ Tát đối với chúng tịnh giới bất tư nghịchúng sanh định bất tư nghị của đức Như Lai mà tin nhận vâng thờ thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy kỳ?

 Nầy Xá Lợi Phất! Các ông phải biết chánh thuyết như vầy: nếu các chúng sanhthế gian phụng trì giới hạnh thanh tịnh vô nhiễm. Do vì thanh tịnh nên biết người ấy thành tựu thân nghiệp thanh tịnh, thành tựu ngữ nghiệp thanh tịnh, thành tựu ý nghiệp thanh tịnh. Người ấy dầu ở thế gian mà chẳng bị thế pháp ô nhiễm. Phải biết người ấy là Bà La Môn, là rời lìa các điều ác, là Sa Môn, là người tịch tịnh, là người tu thiền định đệ nhứt, là người được Thiền ba la mật đệ nhứtChúng sanh ấy là Như Lai. Nói như vậy là chánh thuyết.

 Tại sao? Nầy Xá Lợi Phất! Ta chẳng bao giờ thấy ở thế gian hoặc chư Thiên, hoặc Ma Vương, hoặc Phạm Vương, hoặc Sa Môn, hoặc Bà La Môn và các Trời, các A Tu La v.v... có vô lượng vô biên chúng tịnh giới bất tư nghị, chúng chánh định bất tư nghị bằng đức Như Lai.

 Tại sao? Nầy Xá Lợi Phất! Vì đức Như Lai đã được Giới Ba la mật Thiền ba la mật đệ nhứt vậy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Nay ông có muốn nghe đức Phật nói ví dụ về giới ba la mật của đức Như Lai chăng?”.

 Ngài Xá Lợi Phất thưa: “ Bạch đức Thế Tôn! Nay đã phải lúc. nếu các Tỳ Kheo nghe đức Phật nói ví dụ về Giới ba la mật của đức Như Lai, họ sẽ đồng thọ trì như chỗ đã được nghe”.

 Đức Phật phán dạy: “Lành thay, lành thay! Nầy Xá Lợi Phất! Ta sẽ vì ông mà phân biệt giải nói.

 Nầy Xá Lợi Phất! Ý ông nghĩ thế nào? Chúng sanhđại địa, thứ nào nhiều hơn?”.

 Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Như tôi hiểu ý nghĩa của lời đức Phật nói, thì chúng sanh nhiều chớ chẳng phải đại địa”.

 Đức Phật phán dạy: “Đúng như vậy. Nầy Xá Lợi Phất! Chúng sanh nhiều chớ chẳng phải đại địa.

 Nầy Xá Lợi Phất! Giả sử trong cõi Đại Thiên có bao nhiêu chúng sanh, những loài noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, hoặc có sắc, hoặc không sắc, hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, hoặc chẳng phải có tưởng chẳng phải không tưởng, tất cả chúng sanh ấy trong khoảng sát na đồng thời được thân người rồi trong khoảng sát na đồng thời đều chứng quả Vô thượng Bồ đề. Mỗi đức Phật ấy lại hóa làm ngần ấy Phật. Mỗi hóa Phất ấy đều có ngàn đầu, mỗi đầu ấy đều có ngàn miệng, mỗi miệng đều có ngàn lưỡi. Mỗi hóa Phật ấy đều có đủ thập lực, tứ vô úy, tứ vô ngạibiện tài vô chướng vô ngại vô tận. Chư Phật ấy dùng bao nhiêu lưỡi ấy thi thố biện tài vô ngại vô tận y cứ theo tất cả chúng Giới ba la mật của đức Như Laixưng tán vô lượng, dầu trải qua câu chi na do tha trăm ngàn đại kiếp xưng tán luôn cũng không xưng tán hết khắp được chúng Giới ba la mật của đức Như Lai.

 Nầy Xá Lợi Phất! Chúng giới ba la mật của đức Như Lai vô lượng vô biên vô tận chẳng thể nghĩ bàn. Trí huệ vô thượngbiện tài vô chướng vô ngại vô tận của chư Phật cũng vô tận chẳng thể nghĩ bàn.

 Chúng Giới ba la mật của đức Như Laitrí huệ vô thượng biện tài vô ngại của chư Phật, cả hai đều là bất tư nghị, vô lượng vô số đồng với cõi hư không bình đẳng bình đẳng.

 Nầy Xá Lợi Phất! Giả sử tất cả chúng sanh trong hằng sa thế giớimười phương trong khoảng một sát na đồng thời đều được thân người rồi đều thành bực Vô thượng Bồ đề, cũng nói y theo trên để tỉ lệ nhẫn đến cùng với cõi hư không bình đẳng bình đẳng.

 Tại sao? Nầy Xá Lợi Phất! Do vì đức Như Lai đã chứng được Giới ba la mật đệ nhứt vậy”.

 Đức Phật lại bảo Ngài Xá Lợi Phất: “Nay ông có muốn nghe nói ví dụ về Thiền ba la mật đa của đức Như Lai chẳng?”.

 Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Nay đã phải lúc. Nếu chư Tỳ Kheo nghe đức Phật nói ví dụ về Thiền ba la mật đa của đức Như Lai sẽ đồng phụng trì đúng như chỗ được nghe”.

 Đức Phật phán dạy: “Nầy Xá Lợi Phất! Giả sửthời kỳ thế gian nầy đến kiếp hỏa thiêu do mặt nhựt thứ bảy. Vì mặt nhựt ấy mọc ra nên cả cõi Đại Thiên đồng thời bị cháy, cháy mạnh, cháy lớn, cháy khắp lớn mạnh.

 Nầy Xá Lợi Phất! Phải biết đức Như Lai ở tại trong những thế giới đang cháy khắp lớn mạnh như vậy, hoặc kinh hành, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, những chỗ ấy thành tựu mười sự hy kỳ chẳng thể nghĩ bàn.

 Những gì là mười?
 Chỗ đức Như Lai đi đứng ấy, chẳng cần đến công lực, đều bằng phẳng như trong lòng bàn tay. Đây là sự rất hy kỳ bất tư nghì thứ nhứt.

 Chỗ đức Như Lai đi đứng ấy tự nhiên nổi cao sạch đẹp không có lẫn lộn ngói đá. Đây là sự rất hy kỳ bất tư nghị thứ hai.

 Chỗ đức Như Lai đi đứng ấy tự nhiên rộng rãi bằng phẳng trang nghiêm thanh tịnh để cho đức Như Lai thọ dụng. Đây là sự rất hy kỳ thứ ba.
 Chỗ đức Như Lai đi đứng ấy tự nhiên sanh những cỏ thơm xanh mướt mềm mại trơn láng cuốn về phía hữu. Đây là sự rất hy kỳ bất tư nghị thứ tư.

 Chỗ đức Như Lai đi đứng ấy tự nhiên xuất hiện nước bát công đức: nhẹ, mát, mềm, đứng lặng, không nhơ, trong sạch, thích uống và uống nhiều không sanh bịnh. Đây là sự rất hy kỳ thứ năm.

 Chỗ đức Như Lai đi đứng ấy tự nhiên có gió mát hòa huỡn nhẹ nhàng. Đây là do hạnh nghiệp trước của đức Như Lai cảm với mà có gió mát dịu ấy. Ví như ngày rất nóng nực, xế trưa có một chàng trai vì quá nóng bức nên chạy đến tắm trong sông Hằng. Sau khi tắm rửa sạch sẽ, mát mẻ thơ thới, chàng trai ấy leo lên bờ bên kia sông thấy gần đó có khu rừng cây xanh mát, bèn đi vào rừng ấy. Lại thấy trong ấy có trải sẵn giường nệm rộng rãi mịn nhuyễn, gối chăn mềm mại. Chàng trai liền lên giường ấy hoặc ngồi hoặc nằm. Bốn phía giường lại có gió mát thổi nhẹ liên tục.

 Cũng vậy, nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai ở trong thế giới đang cháy khắp lớn mạnh mà đi đứng nằm ngồi, tự nhiên nơi ấy có gió mát thổi nhẹ liên tục. Đây là sự rất hy kỳ bất tư nghị thứ sáu.

 Chỗ đức Phật đi đứng ấy tự nhiên sông rạch ao hồ xuất hiện các loại hoa dưới nước, những là hoa sen xanh, hoa sen vàng, hoa sen đỏ, hoa sen trắng. Các hoa ấy thơm ngát màu rất hy kỳ bất tư nghị thứ bảy.

 Chỗ đức Phật đi đứng ấy tự nhiên nơi đất bằng và gò cao đều mọc các thứ hoa đẹp thơm thế gian chưa từng có. Đây là sự rất hy kỳ bất tư nghị thứ tám.

 Chỗ đức Phật đi đứng ấy tự nhiên thành chất im cương cứng bền. Đây là sự rất hy kỳ bất tư nghị thứ chín.

 Chỗ đức Phật đi đứng ấy, phải biết đó là Phật linh miếu, thế gian chư Thiên, hoặc Ma Vương, hoặc Phạm Vương, hoặc Sa Môn, hoặc Bà La Môn, Trời, Người, A Tu La v.v... đều cung kính cúng dường tôn trọng tán thán. Đây là thành tựu sự rất hy kỳ bất tư nghị thứ mười.

 Mười sự rất hy kỳ bất tư nghị ấy đều do hạnh nghiệp đời trước của đức Như Lai thành tựu. Tại sao? Vì đức Như Lai khéo thông đạt pháp giới. Do vì thông đạt nên đức Như Lai nhập chánh định ấy, y cứ tâm chánh định ấy mà thọ lạc bất thối. Dầu trải đến hằng sa đại kiếp, đức Như Lai cũng vẫn chưa từng khởi xuất tâm chánh định. Y nơi tâm chánh định ấy, trong khoảng thời gian một bữa ăn, đức Như Lai trụ một kiếp ngàn kiếp đến trăm kiếp hoặc trăm kiếp ngàn kiếp đến trăm ngàn câu chi kiếp, hoặc nhiều hơn số kiếp trên. Tại sao? Vì đức Như Lai đã thành tựu Thiền ba la mật đệ nhứt vậy. Do vì đã thành tựu nên đức Như Lai có đủ đại thần lực như vậy, có đủ oai đức lực như vậy, có đủ đại tông thế lực như vậy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Như các Thiên Tử Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ sanh thức của họ duyên một cảnh đến tám vạn bốn ngàn kiếp, chừng nào mà thọ mạng chánh định chưa dứt, sanh thức của họ chẳng bị cảnh giới thức khác di chuyển.

 Nầy Xá Lợi Phất! Các Thiên Tử ấy do sức chánh định thế gian mà còn được an trụ trong thời gian như vậy, huống là Thiền ba la mật của đức Như Lai mà lại không an trụ lâu.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai từ đêm mới chứng Vô thượng Bồ đề nhẫn đến đêm nhập vô dư Niết Bàn giới, trong khoảng thời gian giữa ấy, tâm của đức Như Lai chưa có lúc nào khởi xuất chánh định. Vì thế nên gọi chánh định ấy là tâm không hồi chuyển, là tâm không sở hành, là tâm không quan sát, là tâm không động lự, là tâm không lưu đảng, là tâm không nhiếp tụ, là tâm không tán loạn, là tâm không cao cử, là tâm không trầm hạ, là tâm không phòng hộ, là tâm không phù tàng, là tâm không hân dũng, là tâm không vi nghịch là tâm không ủy tụy, là tâm không động dao, là tâm không kinh hỷ, là tâm không hôn trầm, là tâm không phân biệt, là tâm không dị phân biệt, là tâm không biến phân biệt.

 Lại chánh định ấy là tâm chẳng theo thức, là tâm chẳng y nhãn là tâm chẳng y nhĩ tỷ thiệt thân ý, là tâm chẳng y sắc, là tâm chẳng y thanh hương vị xúc pháp, là tâm chẳng đến các pháp, là tâm chẳng rời trí, là tâm chẳng quan niệm quá khứ, chẳng quan niệm vị lai, chẳng quan niệm hiện tại.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai an trụ trong chánh định, tâm rời lìa như vậy không có một pháp nào là có thể được, mà ở trong tất cả pháp phát sanh sự thấy biết vô ngại. Tại sao? Vì là công dụng vậy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai chẳng khởi xuất chánh định rời lìa tâm ý thức mà hay làm các Phật sự. Tại sao? Vì là công dụng vậy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Chư đại Bồ Tát ấy nghe giới bất tư nghịchánh định của đức Như Lai rồi tin nhận vâng thờ thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy kỳ”.

 Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
 “Vô lượng vô đẳng trăm ngàn kiếp
 Ở trong các loài tu giác hạnh
 Giới văn định nhẫn bất phóng dật
 Đạo Sư hay tu nhơn diệu giác
 Nghiệp quả tối thắng rất thanh tịnh
 Tịnh giới quảng diệu vượt các cõi
 Giới đức của Phật như hư không
 Thanh tịnh không nhơ dường hư không
 Từ đêm Phật mới chứng Bồ đề
 Đến đêm Phật nhập đại Niết Bàn
 Tâm Phật không hành không duyên khác
 Chưa bao giờ khởi xuất đại định
 Giới tụ của Phật không thối thuyết
 Giải thoát thần lực cũng như vậy
 Trụ chánh định trải vô lượng kiếp
 Đức Phật không tư cũng không tưởng
 Trí Phật như không chẳng nghĩ tưởng
 Vô duyên minh đạt chiếu ba đời
 Không tâm ý thức không cải biến
 Chỉ có Bồ Tát tin nhận được”.

 Đức Phật lại bảo Ngài Xá Lợi Phất: “Thế nào là đại Bồ Tát đối với thần lực bất tư nghị của đức Như Lai tin nhận vâng thờ thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hỳ kỳ?

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai được thần thông chẳng thể nghĩ bàn chẳng thể tuyên nói. Nay sẽ vì ông mà phương tiện khai triển.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai thường nói trong chúng Thanh Văn của đức Phật, người được thần thông thì Trưởng Lão Đại Mục Kiền Liênđệ nhứt.

 Nầy Xá Lợi Phất! Nếu đem thần thông ấy để so sánh thì chẳng thấy có thần thông nào của hàng Thanh Văn mà bằng được thần thông của Bồ Tát. Lại nếu đem so sánh thì chẳng thấy có thần thông nào của Thanh Văn và của Bồ Tát mà bằng được thần thông của Phật. Đây gọi là thần thông bất tư nghị của đức Như Lai.

 Chư đại Bồ Tát vì muốn được thần thông của Phật càng phải phát khởi thượng phẩm tinh tiến thì có thể chứng được.

 Nầy Xá Lợi Phất! Nay các ông có muốn nghe nói ví dụ về thần thông bất tư nghị của Phật chăng?”.

 Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Nay đã phải lúc. Chư Tỳ Kheo nếu được nghe ví dụ về thần thôngđức Phật tuyên dạy rồi sẽ đồng thọ trì”.

 Đức Phật phán dạy: “Lắng nghe, ta sẽ vì ông mà tuyên nói.
 Nầy Xá Lợi Phất! Ý ông nghĩ thế nào? Tôn giả Đại Mục Kiền Liên có được đại thần thông chăng?”.

 Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Ngày trước tôi từng nghe đức Như Lai tuyên bố rằng Tôn giả Đại Mục Kiền Liên là bực thần thông đệ nhứt trong hàng Thanh Văn”.

 Đức Phật phán dạy: “Đúng như vậy. Nầy Xá Lợi Phất! Nay lại vì ông mà nói rộng về ví dụ.

 Nầy Xá Lợi Phất! Ví như chư Thanh Văn đông đầy cả cõi Đại Thiên như rừng rậm mía mè lúa đậu tre lau. Chư Thanh Văn ấy dùng sức tinh tiến thế lực chớp nháng đồng thời hiển hiện thần thông biến hóa. Muốn đem thần thông ấy so với thần thông của đức Như Lai, thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, nhẫn đến chẳng bằng một phần ưu ba ni sa đà. Tại sao? vì đức Như Lai đả được thần thông biến hóa ba la mật đệ nhứt vậy.

 Nầy Xà Lợi Phất! Giả sử đức Như Lai lấy một hột cải ném xuống đất, chúng Thanh Văn ấy đồng thời hiển hiện thần thông biến hóa cũng chẳng lay động được hột cải ấy. Tại sao? Vì đức Như Lai đã được thần thông biến hóa ba la mật đệ nhứt vậy.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Đừng nói đến cõi Đại Thiên, giả sử tất cả chúng sanh trong hằng sa thế giớimười phương, những loài noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, phi tưởng phi phi tưởng đều là Thanh Văn thành tựu thần thông đệ nhứt như Đại Mục Kiền Liên. Tất cả Thanh Văn ấy đồng thời đại hiển hiện thần thông biến hóa cũng chẳng lay động được hột cải mà đức Như Lai đả ném xuống đất ấy. Tại sao? Vì đức Như Lai đã được thần thông ba la mật đệ nhứt vậy.

 Đây gọi là đức Như Lai có đủ đại thần thông lực, có đủ đại oai đức lực, có đủ đại tông thế lực như vậy”.

 Lúc bấy giờ đấng Bạc Già Phạm lại bảo Ngài Xá Lợi Phất rằng: “Nầy Xá Lợi Phất! Ông có từng nghe thời kỳ phong kiếp khởi lên, có ngọn gió lớn tên là Tăng già đà. Ngọn gió ấy đem cả cõi Đại Thiên nầy từ núi Tu Di, các biển lớn v.v... rời khỏi vị trí cao cả do tuần rồi làm nát ra bột chăng?”.

 Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Ngày trước tôi ở trước đức Phật thân nghe nói việc ấy”.
 Đức Phật nói: “Nầy Xá Lợi Phất! Đúng như vậy. Lúc phong tai khởi lên, lại có ngọn gió lớn tên là Tăng già đa thổi đem cả cõi Đại Thiên những núi Tu Di biển lớn v.v... cao cả trăm do tuần rồi làm nát ra bột. Hoặc thổi lên cao hai trăm do tuần, hoặc ba bốn năm trăm do tuần, hoặc ngàn hai ba bốn ngàn do tuần, hoặc đến vô lượng trăm ngàn do tuần rồi làm nát ra bụi nhỏ theo gió bay tản mất cả trọn không gì còn, huống là núi đá mà tồn tại được. Ngọn gió ấy lại thổi tan cung trời Dạ Ma, cung trời Đâu Xuất, cung trời Hóa Lạc, cung trời Tha Hóa Tự Tại, cung trời Ma La, cung trời So Thiền, Nhị Thiền, nhẫn đến cung trời Tam Thiền, Biến Tịnh Thiên đều tan thành vi trần tản mất không gì còn.

 Nầy Xá Lợi Phất! Giả sử ngọn gió Tăng già đa ấy vụt nổi lên thổi y của đức Như Lai, thì chẳng thổi động được chút y chừng bằng sợi lông nhỏ, huống là thổi động được chéo y hay toàn cả cái y của đức Như Lai. Tại sao? Vì đức Như Lai đã thành tựu thần thông bất tư nghị, oai nghi bất tư nghị, diệu hạnh bất tư nghị, đại bi bất tư nghị vậy.

 Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Giả sử hằng sa thế giới mười phương có những luồng gió mạnh như vậy nổi lên sắp thổi tan các thế giới ấy. Bấy giờ đức Như Lai dùng một đầu ngón tay mang các thế giới ấy đến xứ khác, hoặc làm cho gió ấy mất hết sức lực phải thổi vụt trở lại. Mà ở nơi thần thông biến hóa và tất cả oai lực của đức Như Lai không hề tổn giảm.

 Nầy Xá Lợi Phất! Thần thông của đức Như Lai chẳng thể nghĩ bàn khó nghe khó tin, chỉ có chư đại Bồ Tát mới tin nhận được và vâng thờ thanh tịnh không lầm không nghi, càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy kỳ”.

 Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

 “Giả sử các chúng sanh ba cõi
 Tất cả biến thành chúng Thanh Văn
 Đều được thần thông biến hóa lớn
 Đồng với Tôn giả Đại Mục Liên
 Như Lai có đại thần thông lực
 Lấy một hột cải ném xuống đất
 Tất cả Thanh Văn hiện thần thông
 Chẳng lay động được hột cải ấy
 Giả sử trong mười phương thế giới
 Số nhiều như số cát sông Hằng
 Ngọn gió Tăng già đa nổi lên
 Có thể thổi tan các thế giới
 Những ngọn gió Tăng già đa ấy
 Đem thổi y phục của Như Lai
 Tận thế lực gió chẳng động được
 Phần nhỏ y phục như đầu lông
 Đấng Đại Mâu Ni dùng một lông
 Ngăn gió lớn ấy chẳng cho thổi
 Phật có đủ thần lực dường ấy
 Vô biên vô lượng như hư không.

Nầy Xá Lợi Phất! Đây gọi là đại thần thông lực bất tư nghị của Như Laichư đại Bồ Tát tin nhận vâng thờ thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy kỳ”.

 Đức Phật lại bảo Ngài Xá Lơị Phất: “Thế nào là đại Bồ Tát đối với trí lực bất tư nghị cuả đức Như Lai mà tin nhận vâng thờ thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy kỳ?

 Nầy Xá Lợi Phất! Chư Phật Như Lai có đủ mười lực như vậy. Vì thành tựu mười lực, nên đức Như Lai Đẳng Chánh Giác ở giữa đại chúng chánh sư tử hống, tự xưng ta ở bực Đại Tôn Thánh chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả thế gian hoặc Trời, hoặc Ma Vương, hoặc Phạm Vương, hoặc Sa Môn, hoặc Bà La Môn đều chẳng thể chuyển đúng pháp được.

 Nầy Xá Lợi Phất! Những gì gọi là mười lực của Như Lai? Một là Xứ phi xứ trí lực, hai là Nghiệp báo trí lực; ba là Chủng chủng giải trí lực; bốn là Chủng chủng giới trí lực; năm là Chủng chủng căn trí lực; sáu là Nhứt thiết biến hành hành trí lực; bảy là Tịnh lự giải thoát tam ma địa tam ma bát đề tạp nhiễm thanh tịnh trí lực; tám là Tùy niệm tiền thế túc trụ tác chứng trí lực; chín là Tử sanh tác chứng trí lực; mười là Lậu tận tác chứng trí lực.

 Thế nào là Thị xứ phi xứ trí lực của đức Như Lai?
 Nầy Xá Lơị Phất! Với thị xứ đức Như Lai biết như thiệt là thị xứ, và với phi xứ biết như thiệt là phi xứ.

 Thế nào là thị phi xứ, thế nào là phi xứ?
 Nầy Xá Lợi Phất! Phi xứ là không chỗ nhiếp thọ. Như thân các hành, ngữ ác hành ý ác hành cảm được quả báo khả hỷ khả lạc khả ái khả ý đó thì không bao giờ có sự ấy.

 Thị xứ là có chỗ nhiếp thọ. Như thân ác hành, ngữ ác hành, ý ác hành mà cảm được quả báo bất khả hỷ bất khả lạc bất khả ái bất khả ý thì có sự ấy.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Phi xứ là không chỗ nhiếp thọ. Như thân diệu hành, ngữ diệu hành, ý diệu hành mà cảm được quả báo bất khả hỷ bất khả lạc bất khả ái bất khả ý thì không bao giờ có sự ấy.

 Thị xứ là có chỗ nhiếp thọ. Như thân diệu hành, ngữ diệu hành, ý diệu hành, mà cảm được quả báo khả hỷ khả lạc khả ái khả ý thì có sự ấy.

 Lại nầy Xá Lơị Phất! Phi xứ là không chỗ nhiếp thọ. Nghĩa là do xan tham mà cảm được giàu lớn, do phạm giới mà sanh nhơn thiên, do giận thù mà cảm thân đoan chánh, do giải đãi mà được thiền, do tán loạn mà nhập chánh định, do ác huệ mà dứt hẳn tất cả tập khí tương tục. Nói như vậy thì không bao giờ có.

 Thị xứ là có chỗ nhiếp thọ. Nghĩa là do xan tham mà cảm được bần cùng, do phá giới mà cảm địa ngục súc sanh ngạ quỷ, do giận thù mà cảm báo xấu xí, do giải đãi mà chẳng đắc thiền, do tâm loạn mà chẳng nhập chánh định, do ác huệ mà chẳng dứt hẳn được tập khí tương tục. Nói như vậy thì có sự ấy.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Phi xứ là không chỗ nhiếp thọ. Nghĩa là do bố thí mà cảm bần cùng, do trì giới mà đọa ác đạo, do nhẫn nhịn mà cảm xấu xí, do chánh cần mà chẳng được thiền, do nhứt tâm mà chẳng nhập chánh định, do thánh huệ mà chẳng dứt hẳn tập khí tương tục. Nói như vậy thì không bao giờ có sự ấy.

 Thị xứ là có chỗ nhiếp thọ. Nghĩa là do bố thí mà cảm được đại phú, do trì giới mà sanh nhơn thiên, do nhẫn nhịn mà cảm thân đoan chánh, do chánh cần mà đắc thiền định do thánh huê mà dứt hẳn tập khí tương tục. Nói như vậy thì có sự ấy.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Phi xứ là không chỗ nhiếp thọ. Nghĩa là nhơn sát sanh mà cảm trường thọ, do trộm cướp mà cảm được đại phú, do hành tà dục mà cảm được vợ trinh lương. Nói như vậy thì không bao giờ có sự ấy.

 Thị xứ là có chỗ nhiếp thọ. Nghĩa là nhơn sát sanh mà cảm báo đoản mạng, do trộm cướp mà cảm báo nghèo cùng, do hành tà hạnh mà cảm báo vợ chẳng trinh lương. Nói như vậy thì có sự ấy.

 Lại phi xứ là không chỗ nhiếp thọ. Nghĩa là người rời sát sanh hay cảm báo đoản thọ, người rời trộm cắp hay cảm báo bần cùng, người rời hạnh tà dục cảm báo vợ không trinh lương. Nói như vậy thì không bao giờ có sự ấy.

 Thị xứ là có chỗ nhiếp thọ. Nghĩa là người rời sát sanh thì cảm báo trường thọ, người rời trộm cắp thì cảm báo đại phú, người rời hạnh tà dục thì cảm báo vợ trinh lương. Nói như vậy thì có sự ấy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Tất cả nghiệp đạo thiện bất thiện thị xứ và phi xứ như vậy nay sẽ nói tóm lược để hiển thị chỗ cốt yếu.

 Người vọng ngữ mà chẳng cảm báo phỉ báng thì không có sự ấy, nếu hay chiêu cảm thì có sự ấy. Người rời vọng ngữ mà cảm báo phỉ báng thì không có sự ấy, nếu chẳng cảm báo phỉ báng thì có sự ấy.

 Người hành ly gián ngữ mà hay cảm được quyến thuộc sum họp thì không có sự ấy, nếu chẳng cảm được thì có sự ấy. Người xa rời ly gián ngữ mà cảm được quyến thuộc tan nát thì không có sự ấy, nếu cảm được quyến thuộc sum họp thì có sự ấy.

 Người hành thô ác ngữ mà cảm được thường nghe âm thanh khả ý thì không có sự ấy, nếu nghe âm thanh bất khả ý thì có sự ấy. Người rời thô ác ngữ mà cảm nghe âm thanh bất khả ý thì không có sự ấy, nếu nghe âm thanh khả ý thì có sự ấy.

 Người hành ỷ ngữ mà cảm được lời dạy bảo ai cũng tin nhận thì không có sự ấy, nếu chẳng tin nhận thì có sự ấy. Người rời ỷ ngữ mà cảm phải lời dạy bảo người chẳng tin thọ thì không có sự ấy, nếu được tin thọ thì có sự ấy.

 Người tham lam mà cảm báo tài sản chẳng tan thì không có sự ấy, nếu cảm báo tan mất thì có sự ấy. Người rời tham lam mà cảm báo tài sản tan mất thì không có sự ấy, nếu cảm chẳng tan mất thì có sự ấy.

 Người cưu giận thù mà chẳng đọa ác đạo thì không có sự ấy, nếu đọa thì có sự ấy. Người rời giận thù mà chẳng sanh thiện đạo thì không có sự ấy, nếu được sanh thì có sự ấy.

 Người tà kiến chấp nhận nhơn tà kiếnđắc đạo thì không có sự ấy, nếu chẳng đắc đạo thì có sự ấy. Người chánh kiến chấp nhận nhơn chánh kiến mà chẳng được thánh đạo thì không có sự ấy, nếu được thánh đạo thì có sự ấy.

 Người tạo tội vô gián mà tâm được an thì không có sự ấy, nếu bất an thì có sự ấy. Người giới hạnh thanh tịnh mà tâm bất an thì không có sự ấy, nếu tâm an thì có sự ấy.

 Nếu quan niệm hữu sở đắc mà được thuận nhẫn thì không có sự ấy, nếu không được thuận nhẫn thì có sự ấy. Người tin hiểu pháp không mà chẳng được thuận nhẫn thì không có sự ấy, nếu được thuận nhẫn thì có sự ấy.

 Nếu ác tác mà được tâm an ổn thì không có sự ấy, nếu chẳng được tâm an thì có sự ấy.

 Người nhiếp tâm mà chẳng được tâm an thì không có sự ấy, nếu được thì có sự ấy.

 Người nữ mà làm Chuyển Luân Vương, làm Thiên Đế Thích, làm Phạm Thiên Vương thì không có sự ấy. Nếu trượng phu mà làm thì có sự ấy.

 Người nữ xuất thế làm Phật thì không có sự ấy. Nếu chuyển thân nữ rồi mà làm Phật thì có sự ấy.

 Nếu người ở bực đệ bát nhẫn chưa chứng sơ quảxuất định thì không có sự ấy, nếu chứng quả rồi mà xuất thì có sự ấy.

 Nếu đến thánh lưu mà còn thọ thân sanh tử thứ tám thì không có sự ấy, nếu chính nơi các uẩn thân nầy mà nhập Niết Bàn thì có sự ấy.

 Nếu bực Nhứt Lai mà còn thọ than sanh tử thứ ba thì kông có sự ấy. Nếu chính nơi các uẩn thân nầy mà nhập Niết Bàn thì có sự ấy.

 Nếu bực Bất Hoàn mà còn sanh lại nơi đây thì không có sự ấy, nếu ở nơi kia mà nhập Niết Bàn thì có sự ấy.

 Nếu A La Hán lại còn nối sanh thì không có sự ấy, nếu chẳng còn nối sanh thì có sự ấy.

 Nếu chư Thánh Nhơn mà còn cầu tà sư và nhận lời tà thì không có sự ấy, nếu chẳng cầu tà sư và chẳng nhận lời tà thì có sự ấy.

 Bực Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn mà có thối chuyển thì không có sự ấy, nếu quyết định được Vô thượng Bồ đề không còn thối chuyển thì có sự ấy.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Phi xứ là không chỗ nhiếp thọ và thi xứ là có chỗ nhiếp thọ.

 Nếu chư Bồ Tát an tọa đạo tràng chưa chứng Bồ đềđứng dậy thì không có sự ấy. Nếu chư Bồ Tát an tọa đạo tràng chứng Phật đạo rồi bèn đứng lên thì có sự ấy.

 Nếu chư Như Lai mà còn tập khí tương tục thì không có sự ấy. Tất cả Như Lai tập khí đã dứt hẳn thì có sự ấy.
Nếu cho rằng đức Như Lai trí còn có chướng ngại thì không có sự ấy. Còn Phật trí vô ngại thì có sự ấy.

 Nếu có ai thấy được đỉnh đầu của đức Như Lai thì không có sự ấy. Không ai thấy được đảnh Phật thì có sự ấy.

 Nếu có người biết được tâm an trụ của đức Như Lai thì không có sự ấy. Nếu chẳng biết được thì có sự ấy.

 Nếu nói đức Như Lai có tâm bất định mà có thể được thì không có sự ấy. Tâm Phật thường ở tại chánh định thì có sự ấy.

 Nếu chư Phật Như Lai hành bất thiệt ngữ thì không có sự ấy. Chư Phật là đấng chơn ngữ, thiệt ngữ, đế ngữ, bất dị ngữ thì có sự ấy.

 Chư Phật còn có lỗi lầm thì không có sự ấy. Do vì không lỗi lầm mà gọi là chư Phật, là Bạc Già Phạm thì có sự ấy.

 Về tứ vô úythập bát bất cộng pháp cũng nói như trên.
 Lại nầy Xá Lợi Phất! Phi xứ là không chỗ nhiếp thọ. Như nói đức Như Lai nơi đời hiện tại sự thấy biết có chướng ngại thì không có sự ấy.

 Thị xứ là có chỗ nhiếp thọ. Đức Như Phật Bạc Già Phạm nơi đời hiện tại sự thấy biết vô chướng vô ngại thì có sự ấy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đây gọi là thị xứ phi xứ trí lực của đức Như Lai chẳng thể nghĩ bàn vô lượng vô biên. Như hư không vô biên tế, thị xứ phi xứ trí lực của đức Như Lai không có biên tế cũng như vậy.

 Nếu có ai muốn cầu tìm biên tế của trí lực thị xứ phi xứ của đức Như Lai thì chẳng khác người muốn tìm cầu biên tế của hư không.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát nghe trí lực thị xứ phi xứ bất tư nghị của đức Như Lai như hư không rồi tin nhận vâng thờ thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy kỳ”.

Đức Thế Tôn muốn tuyên lai nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

 “Mười phương hư không vô biên lượng
 Trí xứ phi xứ cũng vô biên
 Biết đúng trí xứ phi xứ rồi
 Ví chúng nói rộng pháp vi diệu
 Nguời thành tựu căn khí giải thoát
 Biết công hạnh ấy Phật mới dạy
 Người chẳng có căn khí giải thoát
 Biết trí ấy rồi bèn rời bỏ
 Giả sử hư không lay động được
 Mười phương đại địa đồng thời
 Trí lực xứ phi xứ của Phật
 Vẫn như thiệt không động hư.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đây là trí lực thị xứ phi xứ thứ nhứt của đức Như Lai. Do vì thành tựu trí lực nầy mà đức Như Lai Chánh Đẳng Giác ở giữa đại chúng chánh sử tử hống tự xưng ta là bực Đại Thánh chuyển đại pháp luân mà tất cả thế gian, các Sa Môn, Bà La Môn, Ma Vương, Phạm Vương v.v... đều chẳng thể chuyển đúng pháp được.

 Thế nào là nghiệp báo trí lực của đức Như Lai?
 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai Đẳng Chánh Giác dùng trí lực vô thượng biết được đúng như thiệt những nghiệp và quả báo thuở quá khứ, vị laihiện tại, hoặc nhơn hoặc xứ hoặc các dị báo đều biết rõ.

 Thế nào là đức Như Lai biết rõ đúng như thiệt?
 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai đúng như thiệt biết rõ quả báo thuở quá khứ được thiện nhơn xa rời bất thiện sẽ làm nhơn cho thiện căn thuở vị lai.

 Quả báo thuở quá khứ được nhơn bất thiẹân xa rời thiện pháp sẽ làm nhơn cho bất thiện căn thuở vị lai.

 Các tướng nghiệp và báo như vậy, đức Như Lai ở tại đây đều biết rõ như thiệt.
 Hoặc các nghiệp báo sẽ thuận với liệt phần ở thuở vị lai, nếu các nghiệp báo sẽ thuận với thắng phần ở thuở vị lai, các tướng như vậy đức Như Lai ở tại đây đều biết rõ đúng thiệt.

 Hoặc các nghiệp báo thuận với liệt phần ở hiện tại và thuận với thắng phần ở vị lai, các nghiệp báo thuận với thắng phần ở hiện tại và thuận với hạ liệt phần ở vị lai, các nghiệp báo thuận với liệt phần ở hiện tại và cũng thuận với liệt phần ở vị lai, những nghiệp báo thuận với thắng phần ở hiện tại và cũng thuận với thắng phần ở vị lai, các tướng như vậy đức Như Lai ở tại đây đều biết rõ đúng thiệt.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Hoặc các nghiệp báoquá khứphương tiện hẹp kém mà ở vị laiphương tiện rộng lớn, hoặc các nghiệp báo tạo tác ít mà được thắng tiến lớn, hoặc các nghiệp báo tạo tác rộng lớn mà được thắng tiếng ít, các tướng như vậy đều biết rõ đúng thiệt.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Hoặc các nghiệp báo sẽ được nhơn tánh Thanh Văn, sẽ được nhơn tánh Độc Giác, sẽ được nhơn tánh Phật, các tướng như vậy đức Như Lai đều biết rõ đúng thiệt.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Hoặc các nghiệp báo hiện tại thì khổ mà có thể cảm được báo vui khác ở vị lai, hoặc các nghiệp báo hiện tại thì vui mà có thể cảm lấy báo khổ khác ở vị lai, hoặc các nghiệp báo hiện tại khổ cảm được báo khổ khác vị lai, hoặc các nghiệp báo hiện tại vui cảm được báo vui khác vị lai, các tướng nghiệp báo như vậy đức Như Lai đều biết rõ đúng thiệt.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai biết rõ được như thiệt tất cả hữu tình quá khứ vị lai hiện tại, hoặc nghiệp, hoặc nhơn, hoặc các dị báo, hoặc tức, hoặc ly, hoặc có tùy thuận chẳng khác phần, các tướng như vậy đức Như Lai đều biết rõ như thiệt rồi vì các hữu tình mà tuyên nói như thiệt.

 Nầy Xá Lợi Phất! Trí lực biết rõ như thiệt nghiệp nhơn quả báo quá khứ vị lai hiện tại của đức Như Lai Chánh Đẳng Giác vô lượng vô biên bất tư nghịVí như hư không vô biên vô tế, trí lực nghiệp báo của đức Như Lai vô biên tế cũng như vậy.

 Nếu có ai muốn tìm cầu biên tế của trí lực nghiệp báo ấy thì không khác gì người tìm cầu biên tế của hư không.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát nghe trí lực nghiệp báo của chư Như Lai bất tư nghị như hư không rồi tin nhận vâng thờ thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy kỳ”.

 Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng”

 “Như Lai khéo biết nhơn khác quả
 Mắt sáng thấy rõ nghiệp như thiệt
 Thấu suốt ba đời đều vô ngại
 Biết như thiệt nghiệp của hữu tình
 Tất cả hàm linh trong năm loài
 Sẽ được thành các nhơn vui khổ
 Nếu chuyển được nhơn thì khổ chuyển
 Đức Phật soi tỏ biết như thiệt
 Dị báo thiện ác tất cả nghiệp
 Theo đúng cho nên nhơn khác báo
 Dường như viên ngọc nằm trong tay
 Đức Phật nhìn rõ biết như thiệt
 Các báo nghiệp nhơn dầu là ít
 Được quả vô lượngvị lai
 Hoặc vô lượng nhơn cảm quả ít
 Đức Phật thấy khắp biết như thiệt
 Hoặc nhơn sẽ chứng quả Thanh Văn
 Hoặc hạnh sẽ chứng quả Độc Giác
 Hoặc nghiệp sẽ cảm quả vô thượng
 Đức Phật biết rõ không sót thừa
 Hoặc có nghiệp lúc nhơn thì khổ
 Nghiệp ấy sẽ cảm được báo vui
 Hoặc nghiệp lúc tạo nhơn thì vui
 Sẽ mắc quả khổ Phật đều biết
 Hoặc nghiệp nhơn quả đề khổ cả
 Hoặc nghiệp đều vui cả quả nhơn
 Hoặc nghiệp tự thể nhơ tự thể
 Như Lai đều biết rõ như thiệt
 Quả khổ xoay vần cả ba đời
 Hữu tình trôi lăn trong năm nẻo
 Trí lực nghiệp báo của Như Lai
 Đều biết như thiệt không sai sót.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đây gọi là trí lực nghiệp báo thứ hai của đức Như Lai. Do thành tựu trí lực nầy nên đức Phật ở giữa đại chúng chánh sư tử hống tự xưng rằng ta ở bực Đại Thánh Chuyển pháp luân rộng lớn thanh tịnh, mà thế gian những Sa Môn, Bà La Môn, chư Thiên, Ma Vương, Phạm Vương v.v... đều chẳng chuyển được đúng pháp.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Thế nào gọi là Chủng chủng giải trí lực của đức Như Lai?
 
 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai Đẳng Chánh Giác dùng trí lực vô thượng biết được như thiệt các loài hữu tình kia chẳng phải là một dục giải, là nhiều thứ dục giải.

 Nầy Xá Lợi Phất! Ta sẽ vì ông mà phân biệt nói rộng ra.

 Các loài hữu tình kia, hoặc có kẻ ở nơi tham dục mà phát sanh quan niệm sân hận, hoặc có kẻ ở nơi sân hận mà phát sanh quan niệm tham dục, hoặc ở nơi ngu si mà phát sanh quan niệm tham dục hay sân hận, các tướng như vậy đức Phật đều biết rõ như thiệt.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Hoặc có chúng sanh ở nơi pháp bất thiện phát sanh quan niệm bất thiện, hoặc ở nơi pháp thiện phát sanh quan niệm thiện, đức Phật đều biết rõ như thiệt.

 Hoặc có những hữu tình ở nơi phương tiện hạ liệt phát sanh hiểu biết rộng lớn, hoặc ở nơi phương tiện rộng lớn phát sanh hiểu biết hạ liệt, hoặc do sự hiểu phương tiện hạ liệt ấy sẽ ở nơi thắng tiến, hoặc do sự hiểu phương tiện thắng tiến ấy sẽ ở nơi hạ liệt, hoặc do sự hiểu ấy sẽ gieo giống tà định, hoặc do sự hiểu ấy sẽ gieo giống chánh định, hoặc do sự hiểu biết ấy sẽ gieo giống chánh định giải thoát, đức Phật đều biết rõ như thiệt.

 Hoặc do sự hiểu ấy sẽ đến nơi cõi dục, hoặc sẽ đến cõi sắc, hoặc sẽ đến cõi vô sắc, hoặc sẽ đến khắp ba cõi, đức Phật đều biết rõ như thiệt.

 Hoặc do sự hiểu ấy thuận phần hạ liệt sẽ được thắng tiến, hoặc được thắng tiến sẽ ở nơi hạ liệt, đức Phật đều biết rõ như thiệt.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Hoặc do sự hiểu ấy mà đời sau sẽ thọ nhiều đời sống, sẽ thọ nhiều loài, nhiều sự thọ dụng, đức Phật đều biết rõ như thiệt.

 Hoặc do sự hiểu ấy mà thối đọa, hoặc do sự hiểu ấy mà gieo giống giải thoát, đức Phật đều biết rõ như thiệt. Đã biết rõ rồi, theo chỗ đáng nên, đức Phật rộng vì các hữu tìnhdiễn thuyết đúng như pháp.

 Nầy Xá Lợi Phất! Chủng chủng giải trí lực của đức Như Lai chẳng thể nghĩ bàn vô biên vô tế như hư khôngChư đại Bồ Tát ấy nghe Chủng chủng giải trí lực bất tư nghị như hư không của đức Như Lai rồi tin nhận vâng thờ thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy kỳ”.

 Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

 “Thế gian nhiều loài nhiều hiểu biết
 Quá khứ hiện tại nhiều vô lượng
 Tâm hiểu biết của các chúng sanh
 Đấng Đạo Sư đều hay biết rõ
 Hoặc có kẻ phát quan niệm tham
 Lại sẽ an trụ nơi sân hận
 Hoặc có kẻ hiện ở sân hận
 Mà sanh hiểu si Phật biết rõ
 Ở nơi si mà sanh hiểu tham
 Tâm phân biệt chẳng thể nghĩ bàn
 Xen lộn lẫn nhau lưu chuyển khởi
 Đấng Đại Đạo Sư đều biết rõ
 Hoặc có các phương tiện hạ liệt
 Mà có thể sanh hiểu rộng lớn
 Hoặc làm thêm lên những phương tiện
 Đấng Đại Đạo Sư đều biết rõ
 Tùy nhập vào nơi các tà tánh
 Rồi lại nhập vào chỗ phi đạo
 Hoặc nhận hiểu giải thoát ba cõi
 Đức Như Lai đều có thể biết
 Những đời sống và các chúng sanh
 Những sự thọ dụng đều sai biệt
 Hoặc lại có thối thất đọa lạc
 Đấng Lưỡng Túc Tôn đều biết rõ
 Biết rõ các thứ nhận hiểu rồi
 Đấng Đạo Sư phương tiện thuyết pháp
 Đấy là Phật trí lực thứ ba
 Bồ Tát mới có thể tin được.

 Nầy Xá Lợi Phất ! Đây gọi là Chủng chủng giải trí lực thứ ba của đức Như Lai. Do thành tựu trí lực ấy nên đức Như Lai Chánh Đẳng Giác ở giữa đại chúng chánh sư tử hống tự xưng rằng ta ở bực Đại Thánh hay chuyển pháp luân thanh tịnh mà các thế gian, Sa Môn, Bà La Môn, chư Thiên, Ma Vương, Phạm Vương v.v... đều chẳng thể chuyển đúng pháp được.

 Nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào là Chủng chủng giới trí lực của đức Như Lai ?

 Nầy Xá Lợi PhấtĐức Như Lai Chánh Đẳng Giác dùng trí lực vô thượng như thiệt biết rõ các thứ cảnh giới ấy mà các chúng sanh gây tạo hành nghiệp phước, gây tạo hành nghiệp phi phước, hành nghiệp bất động, hoặc do cảnh giới ấy mà gieo giống xuất ly. Các cảnh giới ấy, đức Như Lai ở nơi đây biết rõ như thiệt.

 Nầy Xá Lợi PhấtĐức Như Lai như thiệt biết rõ nhãn giới, sắc giớinhãn thức giới, nhẫn đến ý giới, pháp giớiý thức giới. Các giới như vậy biết rõ như thế nào ? Đó là như thiệt biết rõ nội không, ngoại không, nội ngoại không vậy.

 Đức Như Lai lại như thiệt biết rõ địa giới, thủy giới, hỏa giớiphong giới. Biết rõ các giới ấy như thế nào ? Đó là biết rõ như không giới vậy.

 Những dục giới, sắc giớivô sắc giới đều biết rõ như thiệt, vì khắp phân biệt chỗ phát khởi vậy.
Lại như thiệt biết rõ hữu vi giới, vì là tướng tạo tác vậy ; như thiệt biết rõ vô vi giới, vì là tướng không có tạo tác vậy ; biết rõ tạp nhiễm giới, vì là tướng nó do phiền não dẫn phát ra ; biết rõ thanh tịnh giới, vì tướng nó tự thể sáng sạch vậy.

 Lại như thiệt biết rõ các hành giới, vì là tướng vô minh chẳng thuận lý vậy ; biết rõ Niết Bàn giới, vì là tướng sáng thuận lý vậy.

 Nầy Xá Lợi Phất ! Vì thế nên hoặc là giới có thể an lập thế gian, giới nầy được thế gian y cứ mà an trụ như vậy ; hoặc là giới hay phát khiên dẫn, hoặc là giới hay hưng kiến lập, hoặc giới hay khởi phương tiện, hoặc là giới hay sanh ý dục, hoặc là giới hay khởi phiền não, hoặc là giới hay làm y chỉ, các giới như vậy có vô lượng vô biên cũng đều được đức Như Lai biết rõ như thiệt. Đã biết rõ rồi theo chỗ đáng nên mà vì chúng sanh giảng thuyết đúng như Pháp.

Nầy Xá Lợi PhấtTrí lực chủng chủng giới bất tư nghị của đức Như Lai không có biên tế như hư không. Nếu có ai muốn tìm cầu biên tế của trí lực chủng chủng giới ấy, thì không khác gì người muốn cầu tìm biên tế của hư không.

 Chư đại Bồ Tát nghe chủng chủng giới trí lực bất tư nghị như hư không của đức Như Lai rồi tin nhận vâng thờ thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy kỳ ».

 Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :

 « Thế gian các chúng sanh
 Y chỉ chủng chủng giới
 Tùy chỗ họ lưu chuyển
 Như Lai đều biết rõ
 Phước, phi phước, bất động
 Và thuận với xuất ly
 An trụ giới ấy rồi
 Chứng tịch diệt Niết Bàn
 Hoặc nhãn giới sắc giới
 Và cùng nhãn thức giới
 Nhĩ tỉ thiệt thân ý
 Biết rõ các giới ấy
 Lại biết rõ pháp giới
 Và cùng ý thức giới
 Nội ngoại giới đều không
 Phật biết rõ như thiệt
 Địa giớithủy giới
 Hỏa giới cùng phong giới
 Bốn giới đồng không giới
 Đều biết rõ như thiệt
 Hoặc dục giới sắc giới
 Và cùng vô sắc giới
 Khắp phân biệt chỗ khởi
 Như hư không vô biên
 Giới vô biên cũng vậy
 Phật đều biết rõ cả
 Mà chẳng nói ta biết
 Các giới vốn vô sanh
 Cũng vốn không có diệt
 Đây gọi Niết Bàn giới
 Đức Như Lai biết rõ
 Như hư không vô biên
 Trí của Phật cũng vậy
 Do trí ấy biết rõ
 Biến dị nơi các giới
 Đã biết chủng chủng giới
 Điều phục các chúng sanh
 Phật trí lực thứ tư
 Bồ Tát hay tin được.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đây gọi là Chủng chủng giới trí lực của đức Như Lai. Do thành tựu trí lực nầy mà đức Như Lai Đẳng Chánh Giác ở giữa đại chúng chánh sư tử hống tự xưng rằng ta ở bực Đại Thánh chuyển pháp luân thanh tịnh, các thế gian, Sa Môn Bà La Môn, chư Thiên, Ma Vương, Phạm Vương v.v... đều không thể chuyển đúng pháp được.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Thế nào là Chủng chủng căn trí lực của đức Như Lai?

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai Đẳng Chánh Giác dùng trí lực vô thượng có thể biết rõ như thiệt về tướng các căn tánh sai biệt của tất cả chúng sanh.

 Các tướng ấy đức Như Lai biết rõ như thiệt thế nào?
 Nầy Xá Lợi Phất! Đó là Như Lai biết rõ như thiệt độn căn, trung căn, lợi căn, thắng căn, liệt căn. Do khắp phân biệt theo các căn tánhđức Như Lai biết rõ như thiệt chúng sanh khởi các thứ tham, khởi các thứ sân, khởi các thứ si, hoặc khởi giả lập tham sân si, hoặc khởi tham sân si nhỏ mỏng, hoặc khởi tham sân si điên đảo, hoặc khởi dẹp phục tham sân si.

 Hoặc nhơn bất thiện sanh ra các căn, hoăc các căn do nhơn thiện sanh ra, đức Như Lai đều biết rõ như thiệt. Cũng biết rõ các căn do nhơn bất động sanh ra, hoặc các căn do nhơn xuất ly sanh ra.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai biết rõ như thiệt nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn, ý căn, nam căn, nữ căn, mạng căn, lạc căn, khổ căn, ưu căn, hỷ căn, xả căn, tín căn, chánh cần căn, niệm căn, định căn, huệ căn, vị tri đương tri căn, tri căn, dĩ tri căn. Các tướng căn sai biệt như vậy đức Như Lai đều biết rõ như thiệt.

 Nầy Xá Lợi Phất! Hoặc các chúng sanh an trụ bố thí căn mà tu trì giới phương tiện, bấy giờ đức Như Lai dùng trí thắng liệt căn mà vì họ nói pháp bố thí. Hoặc có chúng sanh an trụ trì giới căn mà tu bố thí phương tiện thì vì họ nói về trì giới. Hoặc có chúng sanh an trụ nhẫn nhục căn mà tu tinh tiến phương tiện, thì vì họ nói về pháp nhẫn nhục.

 Hoặc có chúng sanh an trụ tinh tiến căn mà tu nhẫn nhục phương tiện, thì vì họ nói về pháp tinh tiến.

 Hoặc an trụ thiền định căn mà an trụ tu huệ phương tiện thì vì họ nói về pháp thiền. Hoặc an trụ huệ căntu thiền phương tiện thì vì họ nói về chánh trí huệ.

 Các căn sai biệt về tất cả phần Bồ đề như vậy, đức Như Lai đều biết rõ như thiệt.

 Nầy Xá Lợi Phất! Hoặc có chúng sanh an trụ căn Thanh Văn mà lại tu độc giác phương tiện, thì đức Như Lai dùng Chủng chủng chư căn trí vì họ mà nói hạ thừa. Người an trụ độc giác căn mà tu Thanh Văn phương tiện thì vì họ mà nói trung thừa. Người an trụ đại thừa căn mà tu nhị thừa phương tiện, thì đức Như Lai dùng chư căn trí vì họ nói đại thừa.

 Nếu có các chúng sanh không có căn kham nhậm, không có tướng kham nhậm, đức Như Lai biết họ là phi pháp khí không kham nhậm rồi bèn bỏ để đó.

 Nếu các chúng sanh có căn kham nhậm có tướng kham nhậm, đức Như Lai biết rõ như thiệt là người pháp khí có kham nhậm liền ân cần trịnh trọng vì họ thuyết pháp cho họ được ngộ nhập.

 Như vậy, nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai biết rõ các hữu tình các căn thuần thục và chẳng thuần thục, các căn xuất ly và chẳng xuất lyCăn tánh của các hữu tình, đức Như Lai đúng như thiệt biết rõ tất cả; an trụ tướng như vậy, phương tiện như vậy, tín giải như vậy, bổn nhơn như vậy, sở duyên như vậy, đẳng lưu như vậy, cứu cánh như vậy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Chủng chủng căn trí của đức Như Lai chẳng thể nghĩ bàn vô biên vô tế chư căn trí lực của đức Như Lai thì chẳng khác gì người muốn tìm cầu biên tế của hư không.

 Chư đại Bồ Tát nghe căn lực như hư không ấy rồi tin nhận vâng thờ thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy kỳ”.

 Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
 
 “Đấng đến tột mé căn chúng sanh
 Khéo thấu tánh hạnh của hữu tình
 Tùy theo căn tánh có thể kham
 Đức Như Lai vì họ thuyết pháp
 Căn hạ trung thượng kham nhậm được
 Trí lực của Phật phát trong ấy
 Xem tâm giải thoát của họ rồi
 Đấng Lưỡng Túc Tôn liền thuyết pháp
 Nếu người các căn hay phát khởi
 Phiền não mỏng nhẹ tương tục ít
 Khéo thấu căn tánh của người ấy
 Đức Phật tùy thuậnthuyết pháp
 Nếu các trượng phuthiện căn
 Tùy chỗ siêng tin mà khai thị
 Lại theo căn hành tướng sai biệt
 Nói các thắng nghĩa định huệ thảy
 Nếu người phát khởi siêng tín nguyện
 Như Lai tùy thuận nói tịnh đạo
 Biết họ có đủ công hạnh rồi
 Dạy họ thắng pháp siêu các khổ
 Có căn quyết định Phật Bồ đề
 Mê lầm tu theo hạnh nhị thừa
 Phật dạy đại thừa thành chánh giác
 Đây là trí lực thư năm vậy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đây gọi là Chủng chủng căn trí lực của đức Như Lai. Do thành tựu trí lực thứ năm này mà đức Phật Như Lai ở giữa đại chúng chánh sư tử hống tự xưng rằng ta ở bực Đại Thánh hay chuyển pháp luân thanh tịnh, mà các thế gian, Sa Môn, Bà La Môn, chư Thiên, Ma Vương, Phạm Vương v.v... đều chẳng chuyển được đúng pháp.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Thế nào là Biến hành chư hành trí lực của đức Như Lai?
 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai Chánh Đẳng Giác dùng vô lượng trí lực biết rõ như thiệt biến hành chư hành.

 Nầy Xá Lợi Phất! Các tướng như vậy biết rõ thế nào? Đó là biết rõ tánh hữu tình là tánh chánh định, là tánh bất chánh định, là tánh tà định.

 Thế nào là tánh chánh định?

 Đó là do phương tiện tu tập đời trước khai phát trí huệ lợi căn mà phát sanh tánh ấy, hoặc chư Phật có vì họ thuyết pháp hay chẳng thuyết phápĐức Như Lai biết nhơn quả đời trước của chúng sanh ấy kham nhậm pháp khí tùy chỗ đáng nên thuyết pháp cho họ mau được giải thoát.

 Thế nào là tánh bất định?

 Đó là do sức ngoại duyênthành thục tánh ấy. Nếu được giáo thọ giáo giới đúng pháp thì được giải thoát. Nếu giáo thọ giáo giới chẳng đúng pháp thì chẳng được giải thoátĐức Như Lai vì họ mà nói pháp tùy thuận. Họ nghe được chánh pháp rồi đúng theo lý mà tu hành chứng quả giải thoát. Vì muốn cho các chúng sanh được những sự lợi ích giải thoát như vậy mà đức Phật xuất thế.

 Thế nào gọi là tánh tà định?

 Đó là tánh chúng sanh bị phiền não che úp chẳng tu tập nghiệp hạnh thanh tịnh, thức tánh bạc nhược ngu si sâu dầy an trụ trong lưới tà kiến chẳng phải căn khí chánh pháp, dầu chư Như Lai có vì họ thuyết pháp hay chẳng thuyết pháp, họ cũng chẳng kham nhậm chứng quả giải thoátĐức Như Lai biết hữu tình ấy chẳng phải là pháp khí rồi liền bỏ để đó. Vì thế nên, nầy Xá Lợi Phất! Chư Đại Bồ Tấ vì thương muốn làm lợi ích cho hạng chúng sanh ấy, nên mặc giáp hoằng thệ vào trong đám quân tà kiến để giáo hóa xô dẹp.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai biết rõ như thiệt ba thứ tham hành: hoặc do tướng tịnh mỹ mà phát khởi tham hành, hoặc do nghiệp nhơn đời trước mà phát khởi tham hành.

Đức Như Lai lại biết rõ như thiệt ba thứ sân hành: hoặc do tướng tổn hạiphát khởi sân hành, hoặc do quan sát quá nhiều mà phát khỡi sân hành, hoặc do phiền não đời trước mà phát khởi sân hành.

 Đức Như Lai lại biết rõ như thiệt ba thứ si hành: hoặc có si hành do vô minh phát sanh, hoặc có si hành do vọng có thân kiến mà phát sanh, hoặc có si hành do nghi mà phát sanh.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai biết rõ như thiệt các hành. Có người khổ lạc hai hành đều mau có thể thông vì các căn họ bén nhạy. Có người khổ lạc hai hành đều chậm thông, vì các căn của họ chậm lục vậy.

 Lại biết rõ như thiệt hành chậm, thông cũng chậm vì bỏ sở duyên vậy. Hoặc hành chậm còn thông thì mau vì đạo chẳng ngừng dứt vậy. Hoặc hành mau còn thông thì chậm vì dũng quyết tiến lên vậy, hoặc hành mau thông mau vì chẳng phải tánh ấy vậy.

 Lại biết rõ như thiệt hoặc có các căn hành sức giản trạch đầy đủ mà chẳng phải sức tu tập. Hoặc có các căn hành sức tu tập đầy đủ mà chẳng phải sức giản trạch. Hoặc có các hành hai sức giản trạchtu tập đều đầy đủ.

 Lại biết rõ như thiệt hoặc có các hành tín nguyện đầy đủ mà chẳng phải phương tiện đầy đủ. Hoặc có các hành phương tiện đầy đủ mà chẳng phải tín nguyện đầy đủ. Hoặc có các hành tín nguyện và phương tiện đều đủ. Hoặc có các hành tín nguyện và phương tiện đều chẳng đầy đủ.

 Lại biết rõ như thiệt hoặc có các hành thân nghiệp thanh tịnh mà chẳng phải do ngữ và ý. Hoặc có các hành ngữ nghiệp thanh tịnh mà chẳng phải do thân và ý. Hoặc có các hành ý nghiệp thanh tịnh mà chẳng do thân và ngữ. Hoặc có các hành do thân ngữ ý mà được thanh tịnh.

 Như vậy nhẫn đến chúng hữu tình chỗ có các hành hoặc nhơn lưu chuyển, hoặc nhơn chẳng lưu chuyển, hoặc nhơn cả hai lưu chuyển và bất lưu chuyển, đức Như Lai dùng trí vô ngại đều biết rõ như thiệt.

 Nầy Xá Lợi Phất! Trí lực biến hành chư hành của đức Như Lai chẳng nghĩ bàn được vô biên tế như hư khôngChư đại Bồ Tát nghe trí lực bất tu nghị như hư không ấy rồi tin nhận vâng thờ thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy ky”.

 Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

 “Như Lai như thiệt biết các hành
 Biết được hữu tình tánh chánh định
 Lại biết tướng bất định thành thục
 Và các căn nhơn pháp tương ưng
 Các hành ba thứ tham tương ưng
 Và cùng ba thứ sân si hiệp
 Hành tương ưng vô biên phiền não
 Duyên, nhơn, đức Phật đều thiệt biết
 Người có khổ hành mà lợi căn
 Hoặc có hành ấy mà độn căn
 Người có lạc hành căn lợi độn
 Đấng Đại Đạo Sư biết như thiệt
 Người có độn hành và độn tu
 Hoặc là hành độn mà lợi tu
 Hoặc là hành mau mà tu chậm
 Hoặc là đều mau hoặc đều chậm
 Hoặc có các hành giản trạch sanh
 Chẳng do tu tập đạo lực khởi
 Hoặc tu tập sanh chẳng giản trạch
 Câu sanh biệt dị cùng tương ưng
 Hoặc có các hành sanh tín nguyện
 Mà chẳng phải là phương tiện tịnh
 Hoặc phương tiện tịnh chẳng tín nguyện
 Chẳng tín nguyện hạnh hoặc đủ cả
 Hoặc có tịnh tu nơi thân nghiệp
 Chẳng phải ngữ ý nghiệp thanh tịnh
 Hoặc có ngữ tịnh và thân tịnh
 Mà ý nghiệp kia chẳng thanh tịnh
 Hoặc có nội tâm thường thanh tịnh
 Hai nghiệp thân ngữ chẳng thanh tịnh
 Hoặc có ngữ tịnh và ý tịnh
 Mà thân nghiệp họ chưa được tịnh
 Hoặc thân ngữ ý tịnh chẳng tịnh
 Các hành lưu chuyểntịch diệt
 Đấng Chánh Biến Tri biết như thiệt
 Đây là Phật trí lực thứ sáu.

Nầy Xá Lợi Phất! Đây gọi là biến hành chư hành trí lực của đức Như Lai. Do trí lực thứ sáu ấy mà đức Như Lai tự xưng là bực Đại Thánh chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả thế gian đều chẳng chuyển đúng pháp được.
Lại nầy Xá Lợi Phất! Thế nào là Tịnh lự giải thoát tam ma địa tam ma bát đề phát khởi tạp nhiễm thanh tịnh trí lực của đức Như Lai?

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai Chánh Đẳng Giác dùng trí lực vô thượng biết rõ như thiệt hoặc tự hoặc tham tất cả những pháp tịnh lự giải thoát tam ma địa tam ma bát đề phát khởi tạp nhiễm thanh tịnh.

 Các tướng như vậy biết rõ như thiệt thế nào?
 Đó là biết rõ như thiệt do nhơn do duyên mà tất cả hữu tình có thể bị tạp nhiễm; lại như thiệt biết do nhơn do duyên mà tất cả hữu tình có thể được thanh tịnh.

 Nầy Xá Lợi Phất! Nhơn gì duyên gì có thể khiến tạp nhiễm?
 Đó là do tác ý chẳng xứng lý làm nhơn, do vô minh làm duyên khiến các hữu tình phát khởi tạp nhiễm.

 Vô minh như vậy làm nhơn các hành làm duyên; các hành làm nhơn các thức làm duyên; các thức làm nhơn danh sắc làm duyên; danh sắc làm nhơn sáu nhập làm duyên; sáu nhập làm nhơn các xúc làm duyên; các xúc làm nhơn cảm thọ làm duyên; do thọ làm nhơn ái luyến làm duyên; tham ái làm nhơn chấp thủ làm duyên; do thủ làm nhơn các hữu làm duyên; do hữu làm nhơn lấy sanh làm duyên; do sanh làm nhơn lão tử làm duyên; phiền não làm nhơn các nghiệp làm duyên; kiến chấp làm nhơn tham ái làm duyên; tùy miên làm nhơn các triền làm duyên;

 Do các nhơn và duyên như vậy làm cho tất cả hữu tình pháp khởi tạp nhiễm.
 Những tướng như vậy đức Như Lai đều biết rõ như thiệt.
 Nầy Xá Lợi Phất! Nhơn gì và duyên gì làm cho thanh tịnh?

 Có hai nhơn và hai duyên có thể làm cho tất cả hữu tình thanh tịnh. Đó là do tha thuận âm và tác ý như lý của chính mình làm nhơn, và xa tha duyên một cảnh cùng tì bát xá na thiện xảo phương tiện làm duyên.

 Lại có hai nhơn và hai duyên làm cho thanh tịnh. Đó là trí bất lai và trí bất khứ.

 Lại có hai nhơn và hai duyên làm cho thanh tịnh. Đó là quán vô sanh và chứng chánh định.

 Lại có hai nhơn và hai duyên làm cho thanh tịnh. Đó là hành cụ túc và minh vô minh giải thoát tác chứng.

 Lại có hai nhơn và hai duyên làm cho thanh tịnh. Đó là tu giải thoát môn và tánh giải thoát trí.

 Lại có hai nhơn và hai duyên làm cho thanh tịnh. Đó là tùy giác đế và tùy đắc đế.

 Những nhơn và duyên như vậy có thể làm cho hữu tình thanh tịnh. Các tướng như vậy đức Như Lai đều biết rõ như thiệt.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai biết rõ như thiệt cảnh giới tạp nhiễm của các hữu tìnhcảnh giới thanh tịnh của các hữu tình. Hoặc có cảnh giới tạp nhiễm nhập vào cảnh giới thanh tịnh; hoặc có cảnh giới thanh tịnh nhập vào cảnh giới tạp nhiễm; đây đều do như thiệt quán vậy.

 Hoặc có cảnh giới tạp nhiễm nhập vào cảnh giới tạp nhiễm; hoặc có cảnh giới thanh tịnh nhập vào cảnh giới thanh tịnh; đây đều là do tăng thượng mạn chấp vây.

 Tất cả tướng trên đây đức Như Lai đều biết rõ như thiệt.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai dùng trí như thiệt ở nơi trong các tịnh lự siêu việt gián tạp sai biệt đều biết rõ.

 Đó là ly dục ác bất thiện pháp hữu tầm hữu từ ly sanh hỷ lạc đầy đủ an trụ nơi tịnh lự tối sơ. Đức Như Lai an trụ tịnh lự tối sơ rồi từ diệt tận định mà xuất. Như vậy nhẫn đến nhập diệt tận định rồi từ sơ tịnh lự mà xuất.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai ở nơi bát giải thoát dùng trí như thiệt hoặc thuận thứ lớp mà nhập, hoặc lại nghịch thứ mà nhập, hoặc thuận nghịch nhập, hoặc gián tạp nhập.

 Giải thoát như vậy thế nào là tám thứ?
 Đó là nội có sắc tướng quán ngoại sắc là sơ giải thoát; nội không sắc tướng quán ngoại sắc giải thoátgiải thoát thứ hai; nơi tịnh giải thoát hoặc nơi tịnh tánh khởi tịnh giải là giải thoát thứ ba; hư không vô biên xứ định là giải thoát thứ tư; thức vô biên xứ địnhgiải thoát thứ năm; vô sở hữu xứ địnhgiải thoát thứ sáu; phi tưởng phi phi tưởng xứ địnhgiải thoát thứ bảy; diệt thọ tưởng địnhgiải thoát thứ tám.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai dùng trí như thiệt hoặc an trụ trong một tam ma địa mà lại thị hiện tam ma địatam ma bát đề khác, hoặc lại thị hiện các thứ quán giải. Dầu như vậy mà chư Như Lai đối với các đẳng trì chưa từng hỗn loạn.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Chư Phật Như Lai chẳng do duyên nơi tam ma địa mà nhập tam ma địa. Hoặc y nơi một tam ma địathành tựu tất cả những tam ma địa khác. Hoặc chẳng khởi một tam ma địa mà có thể nhập khắp tất cả tam ma địa. Lai chư Như Lai tâm thường an trụ trong định không xoay vần duyên. Lại chư Như Lai không bao giờ có tâm bất định. Lại chư Như Lai an trụ chánh định thâm diệu, không ai có thể thấy biết được chánh định của Như Lai được.

 Nầy Xá Lợi Phất! Tam ma địa của hàng Thanh Văn được bị tam ma địa của Độc Giác chói lấp. Tam ma địa của chư Độc Giác được bị tam ma địa của Bồ Tát chói lấp. Tam ma địa của chư Bồ Tát bị tam ma địa của Phật chói lấp. Tam ma địa của chư Phật không gì chói lấp được. Tại sao? Do vì trí không chói lấp của Như Lai thường hiện khởi vậy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai biết như thiệt như vậy; giáo thọ như vậy, giáo giới như vậy mà có thể phát khởi các tam ma địa của Thanh Văn Duyên Giác.

 Đức Như Lai dùng giáo thọ giáo giới như vậy có thể phát khởi diệu tam ma địa của chư Bồ Tát.

 Chư Phật Như Lai biết rõ như thiệt rồi bèn làm giáo thọ giáo giới như vậy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Trí lực phát khởi tịnh lự giải thoát tam ma địa ma bát đề tạp nhiễm thanh tịnh của đức Như Lai vô biên vô tế chẳng thể nghĩ bàn đồng như hư không. Nếu có ai muốn tìm biên tế định lực của đức Như Lai thì chẳng khác với kẻ tìm biên tế của hư không.

 Nầy Xá Lợi Phất! Chư Đại Bồ Tát nghe trí lực Thiền định giải thoát của đức Như Lai chẳng thể nghĩ bàn như hư không rồi tin nhận vâng thờ thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy kỳ”.

 Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

 “Do đây hữu tình khởi tạp nhiễm
 Do đây hữu tình được thanh tịnh
 Đại Hùng biết rõ như vậy rồi
 Rộng vì tuyên dương pháp vi diệu
 Do tác ý trái lý làm nhơn
 Vô minh làm duyên sanh tạp nhiễm
 Vô minh làm nhơn hành làm duyên
 Nhẫn đến xoay vần sanh các khổ
 Tát ý trái lý và vô minh
 Làm căn bổn sanh các chi kia
 Chư Phật biết rõ như thiệt rồi
 Tùy chỗ đáng nên tuyên diệu pháp
 Tất cả cội gốc của tạp nhiễm
 Đó là nghiệp hànhvô minh
 Lại từ đây làm duyên cho thức
 Triển chuyển như vậy sanh các khổ
 Do chỗ nói tùy thuận âm kia
 Và do nội tâm quán đúng lý
 Do hai nhơn hai duyên đây
 Tất cả chúng sanh chứng thanh tịnh
 Do chỉ tác ý đúng lý nhơn
 Và do chánh quán làm duyên kia
 Mà các chúng sanh chứng giải thoát
 Đại Sư đều biết rõ như thiệt
 Hành giả an trụ giới thanh tịnh
 Quán sát các pháp đều không tịch
 Và khéo tu tập môn giải thoát
 Xa rời sanh tử bức ngặt khổ
 Như đây chư Phật thiệt biết rõ
 Tất cả chúng sanh hạnh thanh tịnh

 Không vô tướng nguyện giải thoát môn
 Thiện thệ theo căn mà hiển thị
 Độc Giác tối thắngThanh Văn
 Thuận nghịch nhập xuất các tịnh lự
 Như Lai tuyên bày chỗ chứng kia
 Như có gai độc và oán thù
 Định giải thoát của chư Phật chứng
 Rốt ráo không oán không gai độc
 Phải biết bực thứ bảy của Phật
 Không thiền định nào xô dẹp được.

Nầy Xá Lợi Phất! Đây gọi là Chư định trí lực của đức Như Lai. Do được trí lực thứ bảy nầy mà đức Như Lai tuyên bố ta là bực Đại Thánh chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả thế gian đều chẳng chuyển được.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Thế nào là Túc trụ tùy niệm tác chứng trí lực của đức Như Lai?

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai Chánh Đẳng Giác dùng trí lực vô thượng tùy theo chỗ ghi nhớ đều biết rõ như thiệt.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai đùng như thiệt biết rõ vô lượng đời trước của Phật và của tất cả hữu tình khác. Hoặc ghi nhớ một đời, mười đời, trăm đời, ngàn đời, đến câu chi na do tha trăm ngàn đời thảy đều có thể nhớ biết rõ.

 Đức Như Lai lại nhớ biết rõ kiếp loài, kiếp thành, kiếp thành hoại, hoặc vô lượng kiếp hoại, vô lượng kiếp thành, vô lượng kiếp thành hoại. Hoặc nhớ biết rõ trăm câu chi kiếp, đến vô lượng trăm ngàn câu chi na do tha kiếp.

 Đức Như Lai có thể nhớ biết rõ đời trước của Phật đã từng ở tại xứ ấy, có tên họ ấy, dòng ấy, có sắc ấy tướng ấy, hình dạng ấy, sống bao lâu, khổ vui ra sao, từ chỗ ấy chết rồi sanh chỗ kia, từ chỗ kia chết rồi sanh xứ nầy.

 Vô lượng đời trước của mình và của kẻ khác, đức Như Lai đều nhớ biết rõ từng chi tiết.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai biết rõ đúng như thiệt nghiệp nhơn đời trước của tất cả hữu tình. Do nghiệp nhơn ấy mà hữu tình đến sanh xứ nầy. Biết rõ nghiệp nhơn ấy của họ rồi, đức Như Lai theo đúng chỗ đáng nên dạy mà thuyết pháp cho họ.

 Đức Như Lai biết rõ như thiệt tất cả hữu tình đời trước có tâm niệm nối tiếp không hở, duyên theo cảnh như vậy mà sanh tâm như vậy, do cảnh duyên ấy không đủ nên tâm ấy dứt.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Hoặc có một hữu tình tâm niệm xoay đổi tuần tự mãi mãi nối tiếp như vậy cả hằng sa kiếp, lời nói chẳng thể kể xiết, cho đến tất cả hữu tình đều có tâm niệm như vậy, đức Như Lai nhớ đến, liền có thể biết rõ như thiệt tất cả tâm niệm ấy.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai y theo tâm niệm xoay đổi của tất cả hữu tình đến tận hậu tế cả câu chi kiếp kể nói chẳng hết được, mà trí lực của Phật cũng không cùng tận.

 Trí lực Túc trụ tùy niệm các chứng của Phật chẳng thể nghĩ bàn, không gì bằng, không gì sánh, là vô lượng vô số chẳng thể tuyên nói, lại chẳng thể nói là có biên tế.
 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai dùng thần lực Phật làm cho hữu tình nhớ biết đời trước rồi bảo họ rằng: Nay ngươi nên nhớ đời trước đã trồng căn lành như vậy, hoặc ở chỗ Độc Giác, hoặc noi chánh pháp mà trồng căn lành. Các căn lành như vậy ngươi phải nhớ biết hết.

 Các hữu tình ấy nhờ thần lực Phật nhớ đến đều biết rõ vô lượng căn lành đời trước của mình.

 Đức Như Lai dùng thần lực làm cho hữu tình nhớ biết thiện căn đời trước rồi theo đúng chỗ nên dây mà thuyết pháp cho họ.

 Nầy Xá Lợi Phất! Hoặc có hữu tình được chẳng thối chuyển nơi Vô thượng Chánh giác tùy theo sở nguyện mà cầu giải thoát: Hoặc theo Thanh Văn thừa, hoặc theo Độc Giác thừa, hoặc phát tâm Vô thượng Bồ đề, đức Như Lai đều biết rõ như thiệt.

 Nầy Xá Lợi Phất! Trí lực Túc trụ tùy niệm tác chứng của Phật chẳng thể nghĩ bàn, là vô lượng vô số vô biên vô tế bằng với hư không.

 Nếu có ai muốn suy tìm biên tế trí lực của Phật, thì chẳng khác gì người muốn suy tìm biên tế của hư không.

 Nầy Xá Lợi Phất! Chư đại Bồ Tát nghe trí lực Túc trụ chẳng thể nghĩ bàn như hư không như vậy rồi, liền tin nhận vâng thờ chẳng lầm chẳng nghi, vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy kỳ”.

 Đức Thế Tôn muốn tuyên lai nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

 “Vô lượng câu chi na do kiếp
 Trí lực của Phật đều biết rõ
 Phật nhớ đời trước mình và người
 Như xem trái cây trên bàn tay
 Nhớ biết rõ họ tên sắc tướng
 Sống chết xứ kia sanh xứ nầy
 Hữu tình có đủ nghiệp nhơn ấy
 Biết chỗ đáng dạy mà thuyết pháp
 Vô biên vô tế đời quá khứ
 Bao nhiêu tâm niệm của hữu tình
 Tâm ấy nối tiếp sanh niệm ấy
 Trí lực của Phật biết rõ cả
 Một hữu tình cho đến tất cả
 Tâm niệm nối tiếp không ngừng hở
 Đã qua số kiếp như hằng sa
 Không thể dùng lời kể nói hết
 Nhẫn đến câu chi số kiếp sau
 Phật biết rõ cả tâm niệm họ
 Trí lực Như Lai vẫn vô tận
 Nên gọi trí Phật như biển cả
 Tất cả hữu tình tín nguyện lành
 Đã từng cúng dường chư Phật Thánh
 Phật dùng thần lực gia hộ họ
 Khiến nhớ tịnh hạnh đã từng tu
 Như Lai biết rõ các hữu tình
 Quá khứ đã tu các phước hạnh
 Biết họ đã trụ trí ba thừa
 Giải thoát bất thối vô thượng đạo
 Trí biết quá khứ vô biên tế
 Chẳng thể nghĩ bàn chẳng sánh bằng
 Phật trí lực túc trụ thứ tám
 Chư đại Bồ Tát tin nhận được.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đây gọi là trí lực Túc trụ của Phật. Do được trí lực thứ tám nầy nên đức Như Lai tuyên bố ta ở ngôi Thế Tôn chuyển pháp luân lớn than tịnh mà tất cả thế gian chẳng thể chuyển được.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Thế nào là trí lực Thiên nhãn thông tác chứng của Như Lai?

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác dùng trí lực thiên nhãn thanh tịnh vô thượng vượt hơn tất cả mà nhìn xem các loài hữu tình chết nơi đây sanh về kia, hoặc liệt hoặc thắng, hoặc nhan sắc đẹp hay xấu, hoặc đến cõi lành, hoặc qua loài ác, đúng như nghiệp nhơn mà họ đã gây nên. Tất cả tướng sai khác như vậy, đức Như Lai đều thầy rõ đúng như thiệt.

 Đức Như Lai lại thấy rõ nghiệp hành của các hữu tình gây tạo. Các hữu tình gây tạo nghiệp xấu ác nơi thân như vậy, nơi khẩu như vậy, nơi ý như vậy, sanh tà kiến chê bai Hiền Thánh. Do nghiệp nhơn tà kiến như vậy nên khi chết họ đọa vào các ác đạo hoặc sanh vào địa ngục, hoặc sanh vào súc sanh, hoặc sanh vào lòai quỷ.

 Đức Như Lai cũng thấy biết rõ các hữu tình gây tạo nghiệp lành tốt nơi thân, nơi khẩu, nơi ý như vậy, chẳng chê bai Hiền Thánh, tu tập chánh kiến. Những hữu tình nầy nương nơi nghiệp nhơn chánh kiến như vậy, sau khi chết sanh về cõi lành, hoặc sanh lên trời, hoặc sanh trong thế giới an lạc.

 Đức Như Lai lại dùng thiên nhãn thanh tịnh xem thấy thế giới nhiều thứ tướng dạng của chư Phật khắp mười phương hơn số cát sông Hằng, hết hư không tế, tột lượng pháp giới, chẳng thể tuyên nói được.

 Hoặc thầy có quốc độ bị hỏa tai, có quốc độ đương hoai, có quốc độ đương thành.

 Hoặc thấy các hữu tình lúc chết, lúc sanh.
 Hoặc thấy chư đại Bồ Tát từ cung Đâu Suất giáng thần vào thai mẹ, hoặc thấy có Bồ Tát xuất thai, hoặc thấy mỗi phương đều đi bảy bước, hoặc thấy đương vào ở nội cung, hoặc thấy đương xuất gia khổ hạnh, hoặc thấy thành Vô thượng Bồ đề, hoặc thấy đương chuyển pháp luân, hoặc thấy có chư Phật xả thọ mạng nhập đại Niết Bàn.

 Đức Như Lai dùng thiên nhãn thanh tịnh hoặc thấy trong các thế giới mười phương chư Thanh Văn rốt ráo nhập Niết Bàn, hoặc thấy chư Độc Giác hiện thần thông báo đáp phước thí chủ rồi nhập Niết Bàn.

 Lại có những thứ mà các loài hữu tình chẳng thấy được, nhưng đều bị thiên nhãn của Như Lai thấy suốt rõ.

 Có những thứ mà thiên nhãn của ngũ thông tiên nhơn, của Thanh Văn, của Độc Giác và của Bồ Tát đều chẳng thấy được, nhưng thiên nhãn của Phật đều thấy rõ ràng.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai dùng thiên nhãn thanh tịnh quan sát các loài hữu tình nơi vô lượng thế giới: Những chúng sanh nào là của đức Như Lai hóa độ, những chúng sanh nào thấy Như Lai rồi mới hóa độ được. Bấy giới đức Như Lai tùy chỗ đáng được lợi íchhiện thân ở trước họ làm cho họ được tỏ ngộ. Còn những chúng sanh khác thì không hay biết.

 Nầy Xá Lợi Phất! Trí lức Thiên nhãn tùy niệm tác chứng của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn, không có biên tế đồng với hư không. Những kẻ tìm cầu biên tế của thiên nhãn Như Lai thì chẳng khác người tìm biên tế của hư không.

 Nầy Xá Lợi Phất! Chư Đại Bồ Tát nghe trí lực chẳng thể nghĩ bàn như hư không nầy rồi liền tin nhận vâng thờ vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy kỳ”.

 Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

 “Thiên nhãn của Phật rất thanh tịnh
 Do vô lượng kiếp tu tịnh nghiệp
 Phật dùng thiên nhãn thấy mười phương
 Vô lượng thế giới Phật thanh tịnh
 Hoặc hoại, hoặc thành, hoặc thành hoại
 Nhẫn đến hoặc trụ, hoặc hỏa tai
 Hoặc có Phật, hoặc không có Phật
 Mắt Phật tự nhiên đều thấy rõ
 Hữu tình nhiều loài khó nghĩ bàn
 Nhẫn đến loài có sắc không sắc
 Hoặc đọa loài ác sanh cõi lành
 Mắt Phật tự nhiên đều thấy rõ
 Hoặc thấy câu chi Phật hiện tại
 Hoặc thấy Như Lai nhập Niết Bàn
 Cũng thấy Thanh Văn hoặc Duyên Giác
 Chứng quả hiện thông đến phước thí
 Có chư Bồ Tát độ chúng sanh
 Hoặc đến bực gần Vô Thượng Giác
 Ở ngôi Như Lai không chướng ngại
 Mắt Phật tự nhiên đều thấy rõ
 Thiên nhãn của Phật rất thanh tịnh
 Thấy rõ các loài tột vi tế
 Trí lực thứ chín chẳng nghĩ bàn
 Chư đại Bồ Tát hay tin nhận

Nầy Xá Lợi Phất! Đây gọi là trí lực Thiên nhãn tùy niệm tác chứng. Do trí lực thứ chín nầy mà đức Phật tuyên bố ta là bực Thế Tôn chuyển pháp luân lớn mà tất cả thế gian chẳng chuyển được.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Thế nào là trí lực Lậu tận tác chứng của Như Lai?
 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác dùng trí lực vô thượng biết rõ như thiệt là hết các lậu là vô lậu, tâm giải thoát, huệ giải thoát, tự nhiên thông đạt, tác chứng đầy đủ mà an trụ ngôi vị ấy biết rõ đúng thiệt ta đã dứt hết dòng sanh, đã nên phạm hạnh, việc làm đã xong chẳng còn thọ sanh thân sau.

 Nầy Xá Lợi Phất! Trí lực vô lậu của đức Như Lai rất thanh tịnh sán suốt dứt hẳn tất cả tập khí nối tiếp.

 Hàng Thanh Văn cũng như hàng Độc Giác dầu là vô lậu mà chỉ dứt trừ được phần ít tập khí, rời xa đại bi và các biện tài vô úy.

 Chỉ có đức Như Lai các lậu dứt hẳn mà đủ cả Phật pháp vi diệu, dứt trừ tất cả tập khí nối tiếp, đủ đức đại bi, biện tài, vô úy bao trùm các hữu tình trong tất cả thế gian dầu chẳng hở một sát na tâm niệmtrí lực của Như Lai vẫn luôn thanh tịnh vô lậu.

 Tại sao vậy? Vì đức Như Lai không có tập khí nghiệp, tập khí phiền não, tập khí quên mất oai nghi.

 Nầy Xá Lợi Phất! Như hư không luôn trong sạch chẳng chung lộn với tất cả bụi khói mây mù.

 Cũng vậy trí lực vô lậu của đức Như Lai chẳng chung lộn với tất cả phiền não tập khí.

 Nầy Xá Lợi Phất! Chư Phật Như Lai an trụ nơi trí lực vô lậu ấy rồi có thể nói pháp vô lậu vô chấp cho những chúng sanh hữu lậu hữu chấp.

 Các phiền não các chấp trước của tất cả chúng sanh đều từ hư vọng phân biệt khởi lên.

 Đức Như Lai quan sát biết rõ như vậy rồi, vì muốn họ chẳng còn khởi lên các phiền não các chấp trước, nên theo đúng chỗ đáng dạy mà dùng các thí dụ để thuyết pháp cho họ biết rõ thiệt phiền não đều hư vọng. Vì biết là hư vọng mà họ chẳng chấp lấy. Vì chẳng chấp lấy mà rốt ráo họ chứng Niết Bàn.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai biết rõ đúng thiệt tất cả hữu tình các phiền não khởi diệt, các phiền não hiện hành. Biết rõ rồi, đức Như Lai theo đúng chỗ nên dạy mà thuyết pháp.

 Nầy Xá Lợi Phất! Trí lực vô lậu tác chứng của đức Như Lai chẳng thể nghĩ bàn, không có biên tế, đồng với hư không. Nếu có kẻ muốn tìm cầu biên tế trí lực vô lậu của Như Lai, thì chẳng khác gì người tìm biên tế của hư không.

 Nầy Xá Lợi Phất! Chư Đại Bồ Tát nghe trí lực vô lậu chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai rồi liền tin nhận vâng thờ vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy kỳ”.

 Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa nầy mà nói kệ rằng:

 “Trí Phật vô lậu rất thanh tịnh
 Rộng lớn vô lượng không chướng ngại
 Do thành trí lực thứ mười nầy
 Mà nói đạo Bồ đề tịnh diệu
 Trí vô lậu của hàng Thanh Văn
 Còn thừa tập khí theo ràng buộc
 Trí lực vô lậu của Đạo Sư
 Tất cả tập khí như tro tàn
 Có người chứng bực Duyên Giác thừa
 Rời xa đại bi với biện tài
 Chỉ có chư Phật trí vô lậu
 Đầy đủ đại bi với biện tài
 Chư Phật ở nơi trí vô lậu
 Biết rõ tướng lậu của chúng sanh
 Đều từ hư vọng phân biệt sanh
 Mà họ chưa biết chơn lý ấy
 Đại bi của Phật dạy bảo họ
 Là vô thường, bất tịnh, vô ngã
 Họ thấy các pháp không thể tánh
 Sẽ chứng quả Như Lai tịch tịnh
 Các pháp không ngã không chúng sanh
 Không thọ không nhơn không tác giả
 Hữu tình phân biệt hư vọng chấp
 Phật khởi lòng bi cứu thoát họ
 Từ bi của Phật chẳng mỏi nhàm
 Trí lực luôn tròn chẳng quên mất
 Thế nên chư Phật thường phương tiện
 Vì độ chúng sanhthuyết pháp
 Trí lực thứ mười dẹp phục cả
 Không có biên tế đồng hư không
 Vì Phật thường ở trí lực nầy
 Mà vô lượng pháp đời luôn có.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đây là trí lực vô lậu của đức Như Lai. Do thành tựu trí lực thứ mười nầy mà đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác tự tuyên bố ta ở ngôi Thế Tôn, ở giữa đại chúng như sư tử rống chuyển pháp luân lớn mà tất cả thế gian, Trời, Người, Sa Môn, Bà La Môn, Ma Vương, Phạm Vương đều chẳng chuyển được đúng pháp.

 Nầy Xá Lợi Phất! Do nghe công đức chẳng thể nghĩ bàn của đức Như Laichư đại Bồ Tát đối với mười trí lực ấy tin nhận vâng làm, tâm niệm thanh tịnh không lầm không nghi càng vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy kỳ.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Thế nào là đại Bồ Tát đối với đức vô úy chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai mà tin nhận vâng thờ tâm chí thanh tịnh không lầm không nghi càng thêm vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy kỳ?

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác có bốn đức vô úy chẳng thể nghĩ bàn.

 Do thành tựu bốn vô úy nầy mà đức Như Lai ở giữa đại chúng tự tuyên bố ta ở ngôi Thế Tôn như sư tử rống chuyển pháp luân lớn mà tất cả thế gian, Trời, Người, Ma Vương, Phạm Vương, Sa Môn, Bà La Môn đều chẳng chuyển được đúng pháp.

 Nầy Xá Lợi Phất! Những gì gọi là bốn đức vô sở úy?
 Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác thành tựu trí lực vô thượng nên ở giữa đại chúng tự tuyên bố ta là bực Đẳng Chánh Giác. Trong đại chúng ấy chẳng thấy có ai hoặc người hoặc trời mà có thể ở trước đức Như Lai chỉ trích rằng đối với pháp ấy, Ngài chẳng phải là Đẳng Chánh Giác.

 Nầy Xá Lợi Phất! Thế nào là đức Như Lai có hiệu là Đẳng Chánh Giác?
 Đối với tất cả các pháp, đức Như Lai có thể bình đẳng chánh giác, không có gì là chẳng bình đẳng.

 Hoặc pháp phàm phu, hoặc pháp thánh nhơn, hoặc pháp chư Phật, hoặc pháp hữu học, hoặc pháp vô học, hoặc pháp Độc Giác, hoặc pháp Bồ Tát đều bình đẳng bình đẳng.

 Hoặc pháp thế gian, hoặc pháp xuất thế gian, hoặc có tội, hoặc vô tội, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc hữu vi, hoặc vô vi, tất cả pháp như vậy, đức Như Lai đều có thể bình đẳng chánh giác, vì thế nên gọi Phật là bực Đẳng Chánh Giác.

 Nầy Xá Lợi Phất! Thế nào gọi là tánh bình đẳng?
 Tự thể của các kiến thức cùng với tánh không kia, tánh nó bình đẳng.
 Tự thể của sắc tướng cùng với vô tướng kia, tánh nó bình đẳng.
 Tự thể của ba cõi cùng với vô nguyện kia, tánh nó bình đẳng.
 Tự thể của pháp sanh cùng với vô sanh kia, tánh nó bình đẳng.
 Tự thể của pháp khởi cùng với vô khởi kia, tánh nó bình đẳng.
 Tự thể của tánh tham cùng với vô tham kia, tánh nó bình đẳng.
 Tự thể của tam thế cùng chơn như kia, tánh nó bình đẳng.
 Tự thể của vô minh hữu ái cùng với minh giải thoát, tánh nó bình đẳng.
 Tự thể của sanh tử lưu chuyển cùng với Niết Bàn tịch tịnh, tánh nó bình đẳng.

 Vì đối với tất cả phát đức Như Lai đều bình đẳng chánh giác nên gọi đức Phật là bực Đẳng Chánh Giác.

 Đức vô úy ấy của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn, đức Như Lai lại dùng đại bi để làm phương tiện.

 Chơn như bình đẳng, chơn tánh là như tánh, chẳng phải tánh chẳng như, là tánh chẳng đổi khác, là tánh không che tội, là tánh không bố úy, là tánh không lui sụt, là tánh không trái cãi. Do cớ ấy mà sáng rỡ cả đại chúng, hay làm cho họ vui đẹp, toàn thân thơ thới, sanh lòng tin thanh tịnhvui mừng hớn hở.

 Nầy Xá Lợi Phất! Tất cả chúng sanhthế gian không ai có thể đối với đức vô úy của Như Lai mà sanh sự trái cãi. Tại sao? Vì đức vô úy của Như Lai không trái cãi được. Như tánh bình đẳngpháp giới tánh lưu bố cùng khắp trong các thế giới không ai trái hại được.

 Như đức vô úy của Như Lai nơi tất cả pháp thậm thâm vi tế khó biết mà có thể đẳng chánh giác được, đức Như Lai an trụ đại bi như vậy dùng các thứ ngôn ngữ âm thanh, các thứ pháp môn mà khai thị pháp vi diệu cho các hữu tình. Nếu ai có thể y theo pháp ấy mà tu tập công hạnh viễn ly thì mau hết khổ.

 Nếu có hữu tình chẳng phải bực Đại Sư mà tự xưng là Đại Sư, chẳng phải Đẳng Chánh Giác mà tự xưng là Đẳng Chánh Giác, do sức vô úy chẳng nghĩ bàn của Như Lai khiến các hữu tình ấy đều bị che chói mất ngạo mạn phải bỏ chạy trốn.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức vô úy của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn vô biên vô tế đồng như hư không. Nếu có kẻ muốn tìm cầu biên tế của đức vô úy ấy thì chẳng khác gì kẻ muốn tìm cầu biên tế của Như Lai.

 Nầy Xá Lợi Phất! Chư đại Bồ Tát nghe nói đức vô úy chẳng thể nghĩ bàn ấy rồi liền tin nhận vâng thờ không lầm không nghi vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy kỳ.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đây gọi là đức vô úy chánh đẳng giác. Do thành tựu đức vô úy thứ nhứt nầy mà đức Như Lai ở giữa đại chúng như sư tử rống chuyển pháp luân lớn mà tất cả thế gian chẳng thể chuyển được đúng pháp.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác vì đã thành tựu trí lực vô thượng nơi ở giữa đại chúng tuyên bố nay đây ta đã hết tất cả phiền não tập khí. Trong đại chúng ấy không có ai hoặc người hoặc trời có thể ở trước đức Như Laichỉ trích rằng Ngài còn có phiền não ấy chưa dứt.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Thế nào là tánh phiền não dứt hết của đức Như Lai?
 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai ở nơi dục giới phiền não, tâm đã khéo giải thoát, vì đã dứt hẳn tất cả tập khí tham dục.

 Đức Như Lai ở nơi sắc vô sắc giới phiền não, tâm đã khéo giiải thoát, vì đã dứt hẳn tất cả tập khí sân khuể.

 Đức Như Lai ở nơi vô minh phiền não, tâm đã khéo giải thoát, vì đã dứt hẳn tất cả tập khí si mê.

 Đức Như Lai ở nơi các kiến phiền não, tâm đã khéo giải thoát, vì đã dứt hẳn tất cả tập khí phiền não hiện hành.

 Vì cớ như vậy nên gọi đức Như Laiphiền não đã hết.
 Nầy Xá Lơị Phất! Thuyết pháp như trên ấy là y cứ nơi thế tục chớ chẳng phải thắng nghĩa.

 Trong thắng nghĩa không có một pháp nào ở trước thánh trí có thể biết rõ, có thể dứt hẳn, có thể tu tập, có thể chứng nhập.

 Tại sao vậy? Nầy Xá Lợi Phất! Nói là dứt hết đó chưa bao giờ chẳng dứt hết, tánh vốn rốt ráo hết chẳng do đối trị mà nói là hết.

 Tánh như thiệt là hết. Vì tánh như thiệt là hết nên không có pháp nào bị hết. Vì không pháp bị hết thì chính là vô vi. Vì vô vi nên không sanh không diệt cũng không có trụ. Thế nên nói rằng đức Như Lai xuất thếNếu không xuất thế thường trụ pháp tánh thường trụ pháp giới thì thánh trí huệ chuyển vận trong ấy. Dầu chuyển vận như vậy ma không có chuyển không không có hoàn.

 Nầy Xá Lợi Phất! Do pháp môn thắng nghĩa ấy nên không có các phiền não, cũng không có phiền não hết mà có thể chứng đắc.

 Đức Như Lai an trụ nơi đại bi như vậy rồi vì các hữu tình mà tuyên nói pháp phiền não dứt hết.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Đức vô úy của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn lại dùng đại bi để làm phương tiện, là chơn như bình đẳng, là chơn tánh, là tánh như chẳng phải là tánh chẳng như, là tánh chẳng đổi khác, tánh chẳng che tội, tánh không bố úy, tánh không lui sụt, tánh không trái cãi. Vì cớ ấy nên làm sáng rỡ đại chúng khiến họ vui đẹp toàn thân thơ thới sanh lòng tin thanh tịnh vui mừng hớn hở.

 Nầy Xá Lợi Phất! Chúng sanh trong đời không có ái đối với đức vô úy của Như Lai mà có thể sanh sự trái cãi. Tại sao? Vì đức Như Lai vô úy ấy chẳng trái cãi được.
Chơn như bình đẳng ở trong pháp giới tánh lưu bố cùng khắp trong các thế giới không ai trái hại được.

 Đức vô úy của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn như vậy, là vô lượng vô số không có biên tế thành tựu pháp vi diệu.

 Do đức Như Lai dùng đại bi huân tập nơi tâm mà vì các chúng sanh nói pháp phiền não dứt hết cho họ dứt hẳn các phiền não.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức vô úy của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn vô biên vô tế như hư không. Nếu có kẻ muốn tìm cầu biên tế ấy thì chẳng khác gì kẻ muốn tìm biên tế của hư không.

 Nầy Xá Lợi Phất! Chư đại Bồ Tát nghe đức Như Lai tuyên nói đức vô úy chẳng thể nghĩ bàn ấy rồi tin nhận vâng thờ không lầm không nghi vui mừng hớn hở pháp ý tưởng hy kỳ.

 Đây gọi là đức vô úy vô lậu. Do thành tựu đức vô úy thứ hai ấy, đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác ở giữa đại chúng như sư tử rống tự tuyên bố ta là Thế Tôn chuyển pháp luân lớn, tất cả trời người thế gian chẳng chuyển được.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác thành tựu trí lực vô thượng nên ở giữa đại chúng tuyên bố: Phật nói pháp chướng đạo thì quyết định là pháp chướng đạo giải thoát. Trong thế gian hoặc người hoặc trời không có ai ở trước đức Như Lai mà có thể chỉ trích rằng Ngài nói pháp chướng đạo ấy chẳng chướng đạo được.

 Nầy Xá Lợi Phất! Thế nào gọi là pháp chướng ngại đạo?
 Nầy Xá Lợi Phất! Có một pháp hay làm chướng ngại, đó là tâm chẳng thanh tịnh.

 Lại có hai pháp hay làm chướng ngại, đó là vô tàmvô úy.
 Lại có ba pháp hay làm chướng ngại, đó là thân ác hành, ngữ ác hành và ý ác hành.
 Lại có bốn pháp hay làm chướng ngại, đó là do tham dục mà làm sự chẳng nên làm, do sân khuể mà làm sự chẳng nên làm, do si mê mà làm sự chẳng nên làm va do hãi sợ mà làm sự chẳng nên làm.
 Lại có năm pháp hay làm chướng ngại, đó là sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, uống rượu.

 Lại có sáu pháp hay làm chướng ngại, đó là chẳng kính Phật, chẳng kính Pháp, chẳng kính Tăng, chẳng kính luật nghi, chẳng kính chánh định, chẳng kính chánh huệ.

 Lại có bảy pháp hay làm chướng ngại, đó là mạn, thắng mạn, thắng thượng mạn, tăng thượng mạn, tà mạn, hạ mạn và ngã mạn.

 Lại có tám pháp hay làm chướng ngại, đó là tà kiến, tà tư, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà cần, tà niệm, tà định.

 Lại có chín pháp hay làm chướng ngại, đó là nơi chính thân mình ở trong ba đời quá khứ vị laihiện tại mà làm sự chẳng lợi ích rồi sanh sự não hại; đối với chỗ mà mình mến thích ở trong ba đời mà làm sự chẳng lợi ích rồi sanh sự não hại; đối với chỗ mà mình không mến thích ở trong ba đời mà làm sự chẳng lợi ích rồi sanh sự não hại.

 Lại có mười pháp hay làm chướng ngại, đó là mười nghiệp đạo bất thiện.
 Đây là nói lược mười loại pháp hay làm chướng ngại. Vì muốn ngăn dứt hẳn các loại pháp chướng ngại ấy mà đức Như Lai vì các hữu tình tuyên nói chánh pháp.

 Nầy Xá Lợi Phất! Nhẫn đến tất cả tác ý trái với chơn lý tương ưng với các kiết sử, hoặc do nơi các pháp mà có quan niệm ưa ham tương ưng với điên đảo mà trái đạo giải thoát, có ái kiến chấp trước đối với pháp có mà ưa ham, nơi thân ngữ ý nghiệp có sự sở y, tất cả sự tướng ấy đức Như Lai biết rõ là chướng ngại cả. Đã biết rõ rồi, đức Như Lai nói là pháp hay chướng ngại.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức vô úy ấy của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn lấy đại bi làm phương tiện, chơn như bình đẳng là chơn tánh như tánh, chẳng phải tánh chẳng như, là tánh không đổi khác, tánh không che lỗi, tánh không hãi sợ, tánh không lui sụt, tánh không trái cãi. Vì cớ ấy nên làm cho đại chúng sáng rỡ khiến họ vui đẹp toàn thân thơ thới sanh lòng tin thanh tịnh vui mừng hớn hở.

 Nầy Xá Lợi Phất! Chúng sanh trong đời không có ai đối với đức vô úy của Như Lai mà có thể trái cãi. Tại sao? Vì đức vô úy của Như Lai chẳng trái cãi được, như tánh bình đẳng ở tánh pháp giới lưu bố cùng khắp trong các thế giới, không ai trái cãi được. Vô úy ấy là vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn, không gì sánh bằng, chẳng thể tuyên nói, thành tựu pháp vi diệu. Nhưng do đại bi huân tập nơi tâm nên đức Như Lai vì các hữu tình mà nói pháp chướng ngại, vì muốn họ ngăn dứt hẳn pháp chướng ngại ấy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức vô úy của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn vô biên vô lượng như hư không. Nếu kẻ muốn tìm cầu biên tế của đức vô úy ấy thì chẳng khác gì kẻ muốn tìm biên tế của hư không.
Nầy Xá Lợi Phất! Chư đại Bồ Tát nghe đức Như Lai tuyên nói đức vô úy chẳng thể nghĩ bàn ấy như hư không rồi liền tin nhận vâng thờ không lầm không nghi vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy kỳ.

 Đây gọi là đức vô úy tuyên nói pháp chướng ngại.
 Do đức Như Lai thành tựu đức vô úy thứ ba ấy, ở giữa đại chúng như sư tử rống chuyển pháp luân lớn mà tất cả thế gian chẳng thể chuyển được.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác thành tựu trí lực vô thượng ở giữa đại chúng tuyên bố rằng Phật nói đạo chơn chánh hết khổ của thánh xuất thế đã tu, nếu hữu tình nào tu tập đạo ấy thì quyết định giải thoát.

 Trong đại chúng, hoặc người hoặc trời không có ai ở trước đức Như Lai mà có thể chỉ trích rằng Ngài nói đạo ấy chẳng giải thoát được.

 Nầy Xá Lợi Phất! Thế nào gọi là đạo của thánh giải thoát?
 Nầy Xá Lợi Phất! Có một pháp hay làm cho chúng sanh rốt ráo thanh tịnh giải thoát, đó là chánh đạo.

 Lại có hai pháp hay làm cho chúng sanh rốt ráo giải thoát, đó là xa ma thatỳ bát xá na.
 Lại có ba pháp hay làm cho chúng sanh rốt ráo giải thoát, đó là môn giải thoát không, môn giải thoát vô tướng và môn giải thoát vô nguyện.
 Lại có bốn pháp hay làm cho chúng sanh rốt ráo giải thoát, đó là duyên nơi thân để quán niệm, duyên nơi thọ để quán niệm, duyên nơi tâm để quán niệm và duyên nơi pháp để quán niệm.
 Lại có năm pháp hay làm cho chúng sanh rốt ráo giải thoát, đó là tín căn, cần căn, niệm căn, định cănhuệ căn.
 Lại có sáu pháp hay làm cho chúng sanh rốt ráo giải thoát, đó là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm xảniệm Thiên.
 Lại có bảy pháp hay làm cho chúng sanh rốt ráo giải thoát, đó là niệm giác chi, trạch pháp giác chi, cần giác chi, hỉ giác chi, khinh an giác chi, định giác chixả giác chi.
 Lại có tám pháp hay làm cho chúng sanh rốt ráo giải thoát, đó là tám chi thánh đạochánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh niệmchánh định.
 Lại có chính thứ pháp căn bổn vui thích hay làm cho chúng sanh rốt ráo giải thoát, đó là duyệt, hỷ, khinh an, chỉ tức lạc, định, như thiệt trí, kiến, yểm ố và ly dục giải thoát.
 Lại có mười pháp hay làm cho chúng sanh rốt ráo giải thoát, đó là mười nghiệp đạo lành.

 Đức Như Lai vì các hữu tình tuyên nói pháp hành giải thoát của thánh như vậy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Nhẫn đến tất cả những đạo pháp chánh thiện Bồ đề, hoặc tương ưng với giới tụ, hoặc tương ưng với định tụ, hoặc tương ưng với huệ tụ, hoặc tương ưng với giải thoát tụ, hoặc tương ưng với giải thoát tri kiến tụ, hoặc tương ưng với thánh đế đều gọi là pháp hành hay giải thoát.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Hay khéo giải thoát là nói chánh hạnh. Nói là chánh hạnh có nghĩa là ở trong pháp ấy không có một pháp nào hoặc tăng hoặc giảm hoặc lai hoặc khứ hoặc thủ hoặc xả. Tại sao? Vì chẳng phải người hành chánh hạnh mà hành một thứ giác phầnNếu có thể đúng như thiệt mà thấy biết tất cả các pháp đều là tánh bất nhị, thì gọi đó là hạnh xuất ly của thánh.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức vô úy ấy của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn lấy đại bi làm phương tiện, chơn như bình đẳng là chơn tánh như tánh, chẳng phải tánh chẳng như, là tánh chẳng đổi khác, tánh chẳng che lỗi, tánh chẳng lui sụt, tánh không hãi sợ, tánh chẳng trái cãi. Vì thế nên làm sáng rỡ đại chúng khiến họ vui đẹp toàn thân thơ thới sanh lòng tin thanh tịnh vui mừng hớn hở.

 Nầy Xá Lợi Phất! Chúng sanh trong đời chẳng có ai đối với đức vô úy của Như Lai mà có thể tranh cãi. Tại sao? Vì đức vô úy của Như Lai chẳng tranh cãi được, tánh chơn như bình đẳng ở tánh pháp giới lưu bố cùng khắp trong các thế giới không ai trái hại được.

 Hạnh giải thoát của thánh như vậy vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn chẳng gì sánh bằng thành tựu pháp vi diệu chẳng tuyên nói được. Nhưng vì đại bi huân tập nơi tâm nên đức Như Lai khai thị diễn nói hạnh giải thoát của thánh cho chúng sanh. Nếu có chúng sanh nào hiểu rõ như thiệt tu hành chánh đạo, thì quyết định giải thoát mau rốt ráo hết khổ.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức vô úy của Như Lai vô biên vô tế như hư không. Nếu có kẻ nào muốn tìm cầu biên tế của đức vô úy ấy thì chẳng khác gì kẻ muốn tìm cầu biên tế của hư không.

 Nầy Xá Lợi Phất! Chư đại Bồ Tát nghe đức vô úy chẳng thể nghĩ bàn của đức Như Lai rồi liền tin nhận vâng thờ không lầm không nghi vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy kỳ.

 Đây gọi là đức vô úy nói đạo giải thoát của thánh.
 Do đức Như Lai thành tựu đức vô úy thứ tư ấy nên ở giữa đại chúng như sư tử rống chuyển pháp luân lớn mà tất cả thế gian hoặc Người hoặc Trời, Ma Vương, Phạm Vương, Sa Môn, Bà La Môn đều không thể chuyển đúng pháp được.

 Nầy Xá Lợi Phất! Bốn đức vô úy ấy của Như Lai vô biên vô tế như hư không, tất cả chúng sanh không thể thấu được biên tế ấy.

 Chư đại Bồ Tát nghe đức vô úy chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai như hư không rồi liền tin nhận vâng thờ không lầm không nghi càng thêm vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy kỳ.”

 Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

 “Tự nhiên chánh giác ngộ
 Các pháp tánh bình đẳng
 Như Lai thấy rõ pháp
 Nên hiệu Đẳng Chánh Giác
 Hoặc các pháp phàm phu
 Pháp hữu học vô học
 Pháp Độc Giác tối thắng
 Phật pháp đều bình đẳng
 Tất cả pháp thế gian
 Thiện, bất thiện, bất động
 Và các pháp xuất thế
 Đường Niết Bàn bình đẳng
 Không, vô tướng, vô nguyện
 Vô vihữu vi
 Vô sanh và vô khởi
 Đều thấy tánh bình đẳng
 Biết tánh bình đẳng rồi
 Theo chỗ đáng tuyên nói
 Độ thoát các hữu tình
 Đức Như Lai vô úy
 Tự giải thoát ba cõi
 Rồi khai thị giải thoát
 Đức Như Lai Thế Tôn
 Hiển vô úy thứ hai
 Phật biết rõ pháp chướng
 Tập khí chẳng chứng đạo
 Chẳng thanh tịnh hạ liệt
 Chẳng có lòng hổ thẹn
 Chưa có giữ nghiệp thân
 Nghiệp khẩu và nghiệp ý
 Tham sân si hãi sợ
 Sát sanh trộm của người
 Tà dâmvọng ngữ
 Say rượu chẳng kính nhường
 Bảy mạn tám chi tà
 Đều chẳng phải đạo pháp
 Chín điều hại nhiều tội
 Mười nghiệp đạo bất thiện
 Suy tưởng chẳng hiệp lý
 Ngu si không giải thoát
 Điên đảo tu các hạnh
 Chấp hư vọng phóng dật
 Phật biết nói chướng ngại
 Đây vô úy thứ ba
 Môn thanh tịnh vô lượng
 Tu tập chứng Bồ đề
 Phật tự nhiên thông đạt
 Nói pháp môn cam lộ
 Nhẫn đến số vô lượng
 Rất nhiều pháp mầu lành
 Giúp Bồ đề thanh tịnh
 Được chư Phật ngợi khen
 Nếu khéo tu tập rồi
 Mà chẳng chứng giải thoát
 Không bao giờ như vậy
 Đấng Thập Lực nói thiệt
 Nếu suy tưởng hiệp lý
 Dứt phiền não rộng lớn
 Quán các pháp bình đẳng
 Khéo tu tập hạnh thánh
 Chẳng chấp trước các tướng
 Là pháp là phi pháp
 Thì giải thoát lo sợ
 Đức Phật nói như vậy
 Khéo biết tất cả pháp
 Rỗng trống như hư không
 Thì giải thoát các cõi
 Nếu phóng dật tạo nghiệp
 Luân hồi tam giới mãi
 Nên Phật thương chúng sanh
 Muốn họ chứng giải thoát
 Đấng Thế Tôn Thập Lực
 Thuyết pháp độ thế gian
 Là vô úy thứ tư
 Thanh tịnh như hư không.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đây gọi là đức vô úy bất tư nghị của Như Laichư đại Bồ Tát tin nhận vâng thờ không lầm không nghi vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy kỳ.

 Nầy Xá Lợi Phất! Thế nào đại Bồ Tát đối với đức đại bi chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai mà tin nhận vâng thờ chẳng lầm chẳng nghi vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy kỳ?

 Nầy Xá Lợi Phất! Chư Phật Như Lai đức đại bi thường chuyển vận luôn. Tại sao? Chư Phật Như Lai chẳng bỏ tất cả chúng sanh, vì thành thục chúng sanh nên tất cả thời gian đại bi thường chuyển luôn chẳng dứt.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đại bi ấy của Như Lai vô lượng như vậy, chẳng thể nghĩ bàn, không gì sánh bằng như vậy, vô biên như vậy, chẳng thể nói như vậy, mãnh lợi như vậy, lâu dài như vậy mà tùy thuận chúng sanh, nhẫn đến tất cả ngữ nghiệp của Như Lai, đối với đại bi ấy cũng khó tuyên nói. Tại sao vậy? Như Bồ đề của Như Lai chứng được chẳng thể nghĩ bàn, đại bi của Như Laichúng sanhphát khởi cũng chẳng thể nghĩ bàn như vậy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Thế nào là Như Lai chứng được Bồ đề?
 Nầy Xá Lơị Phất! Do đức Như Lai nhập vô văn vô trụ như vậy nên chứng được Bồ đề.

 Những gì là căn? Những gì là trụ?
 Có thân là căn, hư vọng phân biệt là trụ.

 Nơi pháp ấy, đức Như Lai biết rõ bình đẳng nên nói do đức Như Lai nhập vô căn vô trụ nên chứng được vô thượng Bồ đề.

 Chúng sanh chẳng thể biết rõ được hai pháp ấy.
 Đức Như Lai đối với họ phát khởi đại bi: Nay Phật quyết định sẽ khai thị cho họ biết rõ pháp vô căn vô trụ như vậy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Luận về Bồ đề, tánh của nó tịch tĩnh. Hai pháp gì gọi là tịch và tĩnh? Nơi trong là tịch, nơi ngoài là tĩnh. Tánh của nhãn căn là không lìa rời ngã và ngã sở, tánh của nhĩ tỷ thiệt thâný căn là không rời lìa ngã và ngã sở. Nếu biết rõ như vậy thì gọi là tịch. Thiệt biết rõ tánh của nhãn căn là không rời chẳng duyên theo sắc trần, nhẫn đến thiệt biết rõ ý căn là không rời chẳng duyên theo pháp trần. Nếu biết rõ như vậy thì gọi là tĩnh.

 Nơi hai pháp tịch tĩnh ấy, chúng sanh chẳng biết rõ. Đức Như Lai đối với họ phát khởi đại bi: Nay Phật quyết định sẽ khai thị cho họ biết rõ hai pháp tịch và tĩnh.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Phật chứng Bồ đề tự tánh thanh tịnh.
 Thế nào gọi là tự tánh thanh tịnh?

 Nầy Xá Lợi Phất! Tánh Bồ đề, thể nó không nhiễm ô. Tánh Bồ đề đồng với hư không. Tánh Bồ đề là tánh hư khôngBồ đề với hư không bình đẳng bình đẳng tánh rốt ráo thanh tịnh.

 Phàm phu ngu si chẳng biết được tự tánh thanh tịnh như vậy nên bị khách trần phiền não làm ô nhiễm.

 Tất cả chúng sanh đối với tự tánh thanh tịnh ấy chẳng biết rõ được. Đức Như Lai phát khởi đại bi: Phật quyết địn sẽ khai thị cho họ biết rõ tự tánh thanh tịnh như vậy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Phật chứng Bồ đề không nhập không xuất.
 
 Thế nào gọi là hai pháp nhập và xuất?
 Nhập là nói chấp các pháp. Xuất là nói chẳng chấp các pháp.

 Đức Như Lai thấy rõ pháp tánh bình đẳng không nhập không xuất, cũng như đức Như Lai thấy rõ không thử ngạn không bỉ ngạnTại vì sao? Vì tánh của tất cả pháp rời lìa thử ngạnbỉ ngạn. Chứng được pháp ấy nên gọi là Như Lai.

 Đối với pháp tánh không nhập không xuất ấy, tất cả chúng sanh không biết rõ được, đức Như Lai phát khởi đại bi: Nay Phật quyết định sẽ khai thị cho họ biết rõ pháp tánh không nhập không xuất.

 Nầy Xá Lợi Phất! Phật chứng Bồ đề không tướng không cảnh.
 Thế nào gọi là không tướng không cảnh?
 Chẳng được nhãn thức gọi là không tướng, chẳng xem nơi sắc gọi là không cảnh. Nhẫn đến chẳng được ý thức gọi là không tướng, chẳng xem nơi pháp gọi là không cảnh.

 Nầy Xá Lợi Phất! Không tướng không cảnh ấy là chỗ sở hành của chư thánh. Kẻ phàm phu ngu si trong ba cõi chẳng đi được nơi chỗ đi của chư thánh nên chẳng biết rõ không tướng không cảnh. Đức Như Lai phát khởi đại bi: Nay Phật quyết định sẽ khai thị cho họ biết rõ pháp không tướng không cảnh ấy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Nói Bồ đề ấy, không có quá khứ vị lai hiện tại, ba đời bình đẳng, ba tướng luân dứt.

 Thế nào gọi là ba tướng luân dứt?
 Nơi đời quá khứ tâm không đoái niệm, nơi đời vị lai thức không chạy đến, nơi đời hiện tại ý không phát khởiTâm ý thức ấy không có an trụ: chẳng phân biệt quá khứ, chẳng chấp trước vị lai, chẳng hí luận hiện tại.

 Tất cả chúng sanh chẳng giác ngộ được tánh ba đời bình đẳng, ba luân thanh tịnh.

 Đức Như Lai đối với họ phát khởi đại bi: Nay Phật sẽ quyết định khai thị làm cho họ giác ngộ ba đời ba luân bình đẳng thanh tịnh như vậy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Phật chứng Bồ đề vô vi vô tánh.
 Sao gọi là vô vi vô tánh?
 Tánh Bồ đề ấy chẳng phải nhãn thức biết được, nhẫn đến chẳng phải ý thức biết được, nhẫn đến chẳng phải ý thức biết được.

 Nói vô vi là không sanh không diệt cũng không có trụ. Vì lìa hẳn ba tướng ấy nên gọi là vô vi.

 Nầy Xá Lợi Phất! Người biết vô vi phải biết hữu vi. Tại sao? Vì tự tánh của các pháp tức là vô tánh. Luận về vô tánh tức là thể tánh không hai.

 Vì tất cả chúng sanh chẳng giác ngộ được vô tánh vô vi ấy nên đức Như Lai đối với họ mà phát khởi đại bi: Nay Phật quyết định sẽ khai thị cho họ giác ngộ vô tánh vô vi ấy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Phật chứng Bồ đề dấu tích không sai biệt.

 Sao gọi là dấu tích không sai biệt?
 Chơn nhưpháp tánh, cả hai đều gọi là dấu tíchTánh không khác biệt, tánh không an trụ goị là không sai biệt.

 Thiệt tế của các pháp gọi là dấu tíchTánh không động dao gọi là không sai biệt.

 Các pháp tánh không gọi là dấu tích. Tánh chẳng thể được gọi là vô sai biệt.
 Các pháp vô tướng gọi là dấu tích. Tánh chẳng thể tìm gọi là vô sai biệt.
 Các pháp vô nguyện gọi là dấu tíchTánh không phát khởi gọi là vô sai biệt.
 Không tánh chúng sánh gọi là dấu tích. Tức thể tánh là không gọi là vô sai biệt.
 Là tướng hư không gọi là dấu tích. Tánh chẳng thể được gọi là vô sai biệt.
 Tánh ấy vô sanh gọi là dấu tích. Tánh ấy vô diệt gọi là vô sai biệt.
 Tánh ấy vô vi gọi là dấu tích. Tánh ấy không hành không trụ gọi là vô sai biệt.
 Là tướng Bồ đề gọi là dấu tích. Tánh ấy tịch tĩnh gọi là vô sai biệt.
 Là tướng Niết Bàn gọi là dấu tích. Tánh ấy vô sanh gọi là vô sai biệt.

 Nầy Xá Lợi Phất! Vì tất cả chúng sanh chẳng giác ngộ được dấu tích vô sai biệt ấy, nên đức Như Lai đối với họ phát khởi đại bi: Nay Phật quyết định sẽ khai thị cho họ giác ngộ dấu tích vô sai biệt ấy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Nói Bồ đề ấy, chẳng thể dùng thân để chứng, chẳng thể dùng tâm để chứng.

 Tại sao? Vì tánh của thân vô tri, không có tác dụng như cỏ cây đất đá tường vách. Tánh của tâm cũng vậy, như ảo như mơ như trăng đáy nước.

 Nếu giác ngộ được thân tâm như vậy thì gọi là Bồ đề.

 Nầy Xá Lợi Phất! Chỉ do ngôn ngữ thế tụcgiả danh Bồ đề. Thiệt tánh của Bồ đề chẳng nói gọi được, chẳng thể dùng thân để được, chẳng thể dùng tâm để được, chẳng thể dùng pháp để được, chẳng thể dùng phi pháp để được, chẳng thể dùng phi chơn thiệt để được, chẳng thể dùng chơn đế để được, chẳng thể dùng hư vọng để được.

 Tại sao? Vì tánh Bồ đề lìa rời ngôn ngữ, rời lìa tất cả pháp tướng. Lại vì Bồ đề không có hình tướng để thông ngôn ngữ. Như hư không kia không có hình không có chỗ nên chẳng nói được.

 Nầy Xá Lợi Phất! Cứ như thiệt mà tìm cầu thì tất cả pháp đều không thể nói. Tại sao? Vì trong các pháp đều không có ngôn ngữ. Trong ngôn ngữ cũng không có các pháp.

 Vì tất cả chúng sanh chẳng giác ngộ được chơn lý của các pháp như vậy, nên đức Như Lai đối với họ phát khởi đại bi: Nay Phật quyết định sẽ khai thị chơn lý của các pháp ấy cho họ giác ngộ nghĩa lý chơn thiệt như vây.

 Nầy Xá Lợi Phất! Nói Bồ đề ấy không lấy không cất.

 Những gì gọi là không lấy không cất?
 Biết rõ nhãn căn thì gọi là không lấy, chẳng xem nơi sắc trần thì gọi là không cất.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai chứng Bồ đề không lấy không cất ấy nên chẳng xem các sắc trần chẳng trụ nơi thức. Nhẫn đến chẳng lấy ý căn chẳng xem pháp trần chẳng trụ nơi thức. Dầu chẳng trụ nơi thức mà đức Như Lai biết rõ được chỗ trụ của tất cả chúng sanh.

 Biết rõ thế nào? Đó là chúng sanh trụ ở bốn pháp.
 Những gì là bốn? Tất cả chúng sanh, tâm của họ trụ nơi thức, tâm của họ trụ nơi thọ, tâm của họ trụ nơi tưởng, tâm của họ trụ nơi hành.

 Đức Như Lai biết thiệt rõ trụ và chẳng trụ như vậy.

 Vì tất cả chúng sanh chẳng giác ngộ được thiệt tế vô trụ như vậy nên đức Như Lai đối với họ phát khởi đại bi: Nay Phật quyết định sẽ khai thị cho họ giác ngộ thiệt tế vô trụ ấy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Nói Bồ đề là tên khác của không. Do không không nên Bồ đề cũng không. Do Bồ đề không nên các pháp cũng không. Thế nên đức Như Lai đúng với tánh không ấy mà giác ngộ các pháp. Đức Như Lai chẳng do không mà giác ngộ pháp không tánh. Đức Như Lai do trí nhứt lý mà giác ngộ pháp tánh không. Không với Bồ đề, tánh ấy không hai. Vì không hai nên chẳng thể nói đây là Bồ đề, đây là tánh không. Bởi pháp không hai nên không có hai tướng không hành, rốt ráo chẳng hành cũng chẳng hiện hành.

 Nói là không ấy là xa rời nắm lấy. Trong thắng nghĩa đế không có pháp để được. Vì tánh không nên nói là không. Như nói thái hưhư không, nhưng tánh thái hư chẳng nói gì được. Pháp không ấy nói tên là không, nhưng tánh không ấy chẳng nói gọi được. Ngộ nhập các pháp thiệt không có tên mà giả lập tên gọi, nhưng tên gọi ấy không phương không xứ, các pháp cũng không phương không xứ như tên gọi lấy.

Đức Như Lai biết rõ các pháp tứ bổn lai không sanh không khởi. Biết như vậy rồi chứng giải thoát, nhưng thiệt tánh ấy không phược không thoát.
Phàm phu ngu si chẳng giác ngộ được tánh Bồ đề ấy, nên đức Như Lai đối với họ phát khởi đại bi: Nay Phật quyết định khai thị cho họ giác ngộ thiệt tánh Bồ đề như vậy.

Nầy Xá Lợi Phất! Tánh Bồ đề bình đẳng với hư không. Nhưng tánh của hư không chẳng có bình đẳng không bình đẳng. Tánh Bồ đề cũng vậy, không có đẳng chẳng đẳng. Như các pháp tánh không, chơn thiệt, chẳng thể nói là bình đẳng hay chẳng bình đẳng.

 Đức Như Lai giác ngộ tất cả pháp bình đẳng, không pháp nào chẳng bình đẳngGiác ngộ đúng thiệt không có chút pháp nào khả dĩ là bình đẳng và chẳng bình đẳng.

 Lượng trí như thiệt của đức Như Lai cùng tột lượng các pháp. Gì gọi là trí như thiệt? Đó là biết rõ các pháp vốn không có mà sanh, sanh rồi lìa tan, không có chủ mà sanh, không có chủ mà tan. Hoặc sanh hoặc tan đều tùy theo các duyên, trong ấy không có một pháp nào hoặc sanh hoặc tan, cũng không gì tùy theo. Vì thế nên gọi đức Như Lai dứt các nẻo đường mà nói pháp vi diệu.

 Vì tất cả chúng sanh chẳng giác ngộ được pháp dứt các nẻo đường ấy, nên đức Như Lai đối với họ phát khởi đại bi: Nay Phật quyết định sẽ khai thị cho họ giác ngộ pháp dứt các nẻo đường ấy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Nói Bồ đề là như. Những gì gọi là tướng như? Như tướng Bồ đề, các sắc cũng vậy, đồng chơn như ấy, không có thối hoàn mà chẳng đến khắp. Thọ tưởng hành và thức cũng vậy, đồng chơn như ấy không chẳng đến khắp.

 Nầy Xá Lợi Phất! Như tướng Bồ đề đồng chơn như ấy, tánh tứ đại cũng như vậy, đồng chơn như ấy không có thối hoàn mà chẳng đến khắp. Nhẫn đến nhãn giới sắc giới nhãn thức giới, ý giới pháp giới ý thức giới cũng như vậy.

 Như tướng Bồ đề chỉ là giả thi thiết, tất cả các pháp uẩn xứ giới cũng giả thi thiết như vậy.

 Biết rõ tướng như vậy thì gọi là như.
 Nầy Xá Lơị Phất! Đức Như Lai thiệt giác ngộ chẳng điên đảo, biết rõ rất cả như tiền tế, trung tế và hạâu tế cũng như vậy. Tại sao? Vì tiền tế vô sanh, hậu tế không đến, trung tế rời xa. Tất cả như vậy gọi là như.

 Một pháp như vậy, tất cả các pháp cũng vậy. Tất cả các pháp như vậy, một pháp cũng vậy. Chẳng phải trong tánh như mà có thể được một tánh và nhiều tánh.

 Tất cả chúng sanh chẳng giác ngộ được pháp như ấy, nên đức Như Lai vì họ mà phát khởi đại bi: Nay Phật quyết định sẽ khai thị cho họ giác ngộ pháp chơn ấy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Nói Bồ đề là nhập nơi hành và nhập nơi vô hành.

Những gì gọi là hành và vô hành?
 Nầy Xá Lơị Phất! Phát khởi pháp lành gọi là hành. Tất cả các pháp là bất khả đắc gọi là vô hành.

 An trụ nơi tâm vô trụ gọi là hành. Môn giải thoát vô tướng tam muội gọi là vô hành.

 Nói hành là cân lường toán số quán sát nơi tâm. Nói vô hành là quá cân lường toán số v.v...

 Thế nào nói là quá cân lường v.v...? Vì tất cả chỗ không có tác dụng các thức.

 Nầy Xá Lợi Phất! Nói hành là ỡ chỗ ấy quán sát hữu vi. Nói vô hành là ở chỗ ấy chứng nơi vô vi.

 Phàm phu ngu si chẳng giác ngộ được pháp nhập hành vô hành ấy nên đức Như Lai vì họ mà phát khởi đại bi: Nay Phật quyết định sẽ khai thị cho họ giác ngộ pháp nhập hành vô hành như vậy.

 Nầy Xá Lơị Phất! Nói Bồ đề là không lưu không thủ.

 Những gì gọi là không lưu không thủ? Vì lìa bốn lưu tánh nên gọi không lưu. Lìa bốn lưu tánh nên gọi không lưu. Lìa bốn lưu tánh là lìa dục tánh, lìa hữu lưu tánh, lìa vô minh lưu tánh và lìa kiến lưu tánh.

 Vì lìa bốn thủ tánh nên gọi không thủ. Lìa bốn thủ tánh là lìa dục thủ tánh, lìa hữu thủ tánh, lìa kiến thủ tánh và lìa giới thủ tánh. Bốn thủ ấy đều do vô minhtối tăm, bờ ao nước ái ứ bít. Do chấp ngã nên cảm thọ uẩn xứ giới.

 Trong ấy, đức Như Lai biết thiệt rõ căn bổn của ngã thủ mà tự chứng thanh tịnh, cũng làm cho chúng sanh chứng được thanh tịnh.

 Nầy Xá Lợi Phất! Vì đã chứng thanh tịnh ấy, nên ở trong các pháp, đức Như Lai không có phân biệt. Tại sao? Vì phân biệt thì phát khởi suy tưởng chẳng đúng chơn lý. Mà chứng thanh tịnh ấy chỉ là tương ưng với chơn lý nên chẳng phát khởi vô minh. Vì chẳng phát khởi vô minh nên chẳng phát khởi được mười hai hữu chi. Nếu chẳng phát khởi mười hai hữu chi. Nếu chẳng phát khởi mười hai hữu chi thì là vô sanh. Nếu là vô sanh thì là quyết định. Nếu là quyết định thì là liễu nghĩa. Nếu là liễu nghĩa thì là thắng nghĩa. Nếu là thắng nghĩa thì là nghĩ không chơn. Nếu là nghĩa không chơn thì là nghĩa chẳng nói được. Nghĩa chẳng nói được là nghĩa duyên khởi. Các nghĩa duyên khởi là nghĩa pháp. Nghĩa các pháp là nghĩa Như Lai.

 Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có thể quán duyên khởi như vậy tức là quán pháp. Nếu quán pháp tức là quán Như Lai. Quán như vậy thì rời ngoài chơn như không có sở quán.

 Trong ấy thế nào là có sở hữu? Đó là tướng và duyên. Hai pháp ấy, nếu có thể quán không tướng không duyên tức là chơn thiệt quán.

 Đức Như Lai do giác ngộ các pháp bình đẳng như vậy nên bình đẳng.

 Phàm phu ngu si chẳng giác ngộ được tánh không lưu không thủ ấy. Đức Như Lai vì họ mà phát khởi đại bi: Nay Phật quyết định sẽ khai thị cho họ giác ngộ tánh không lưu không thủ ấy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Nói Bồ đề ấy, tánh nó thanh tịnh, không có cấu nhơ, không có chấp trước. Thế nào gọi là thanh tịnh không có cấu nhơ và không có chấp trước? Vì không nên là thanh tịnh, vì vô tướng nên không cấu nhơ, vì vô nguyện nên không chấp trước.

 Lại vì vô sanh nên thanh tịnh, vì vô tác nên không cấu, vì vô thủ nên không chấp.

 Lại là tự tánh nên thanh tịnh, vì khắp sạch nên không cấu, vì sáng sạch nên không chấp.

 Lại vì không hí luận nên thanh tịnh, vì lìa hí luận nên không cấu, vì hí luận tịch tĩnh nên không chấp.

 Lại vì là chơn như nên thanh tịnh, là pháp giới nên không cấu, là thiệt tế nên không chấp.

Lại vì hư tĩnh nên thanh tịnh, vì vô ngại nên không cấu, vì không tịch nên không chấp.

 Lại vì biết rõ khắp nơi nên thanh tịnh, vì chẳng hành nơi ngoài nên không cấu, vì chẳng thể được nên không chấp.
Lại vì khắp biết rõ uẩn nên thanh tịnh, vì là giới tự thể nên không cấu, vì xứ tổn giảm nên không chấp.

 Lại vì quá khứ tận trí nên thanh tịnh, vì vị lai vô sanh trí nên không cấu, vì hiện tại pháp giới trụ trí nên không chấp.

 Tánh thanh tịnh không không cấu không chấp như vậy đồng đến một câu, đó là câu tịch tĩnh. Những tịch tĩnh ấy là tột tịch tĩnh. Tột tịch tĩnh là khắp tịch tĩnh. Khắp tịch tĩnh gọi là Đại Mâu Ni.

 Nầy Xá Lợi Phất! Dường như Thái hư, Bồ Tát đề cũng vậy. Như tánh Bồ đề, các pháp cũng vậy. Như tánh các pháp, chơn thiệt cũng vậy. Như tánh chơn thiệt, quốc độ, Niết Bàn cũng vậy. Vì thế nên nói Niết Bàn các pháp bình đẳng. Cũng gọi là cứu cánh, vì không tướng biên tế. Không có đối trị, vì rời tướng đối trị.

 Các pháp như vậy bổn lai thanh tịnh không cấu không chấp.
 Nầy Xá Lợi Phất! Nơi tất cả các pháp vô sắc v.v... như vậy, đức Như Lai giác ngộ như thiệt, xem thấy các tánh của hữu tình thanh tịnh không cấu không chấp, đức Phật khởi đại bi: Nay Phật quyết định sẽ khai thị cho các hữu tình giác ngộ pháp thanh tịnh không cấu không chấp.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức đại bi chẳng thể nghĩ bàn ấy của Như Lai chẳng do công dụng nhậm vận thường chuyển luôn lưu bố khắp đầy mười phương thế giới không có chướng ngại.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức đại bi ấy của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn vô biên vô tế như hư không. Nếu có ai muốn tìm cầu biên tế của đức đại bi ấy thì chẳng khác gì kẻ muốn tìm cầu biên tế của hư không.

 Nầy Xá Lơị Phất! Chư đại Bồ Tát nghe đức đại bi của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn đồng hư không rồi liền tin nhận vâng thờ không lầm không nghi vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy kỳ”.

 Đức Thế Tôn muôn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

 “Chư Phật chứng Bồ đề
 Không căn không chỗ trụ
 Như chỗ Phật đã chứng
 Đem dạy cho chúng sanh
 Chư Phật chứng Bồ đề
 Tịch tĩnh tột tịch tĩnh
 Thấy nhãn căn nội không
 Thấy sắc trần ngoại không
 Hữu tình chẳng giác ngộ
 Tịch tĩnh tột tịch tĩnh
 Phật biết rõ chơn như
 Vì họ khởi đại bi
 Tánh Bồ đề sáng sạch
 Thanh tịnh đồng hư không
 Vì chúng sanh chẳng rõ
 Nên Phật khởi đại bi
 Chư Phật chúng Bồ đề
 Không đến đi lấy bỏ
 Vì chúng sanh chẳng rõ
 Nên Phật khởi đại bi
 Chư Phật chứng Bồ đề
 Không tướng không cảnh giới
 Là chỗ đi của Thánh
 Phàm phu chẳng biết được
 Vì họ chẳng biết rõ
 Hoặc biết mà chẳng thấu
 Đức Phật đối với họ
 Phát khởi lòng đại bi
 Tự tánh của vô vi
 Không sanh cũng không diệt
 Cũng vẫn không có trụ
 Ba luân luôn giải thoát
 Phàm phu chẳng giác ngộ
 Tự tánh của hữu vi
 Phật thương khởi đại bi
 Dạy chơn lý như vậy
 Bồ đề chẳng phải thân
 Cũng chẳng phải tâm chứng
 Tự tánh thân vô vi
 Tâm như ảo như mộng
 Phàm phu chẳng giác ngộ
 Tánh thể của thân tâm
 Phật thương khởi đại bi
 Dạy diệu lý như vậy
 Chư Phật tự nhiên chứng
 Bồ đề thắng quảng đại
 Ngồi an dưới thọ vương
 Quan sát tánh chúng sanh
 Trèo lên xe sanh tử
 Chạy vòng khắp các loài
 Vì thấy họ như vậy
 Nên Phật khởi đại bi
 Bị kiêu mạn phá hoại
 Kiến chấp luân quấn gói
 Với khổ tưởng là vui
 Vô thường tưởng là thường
 Chấp là tịnh là ngã
 Là chúng sanh thọ giả
 Như Lai quan sát thấy
 Vì họ khởi đại bi
 Tánh tất cả chúng sanh
 Che trùm trong màn si
 Không có ánh sáng huệ
 Như mây che mặt nhựt
 Như Lai quan sát thấy
 Vì họ khởi đại bi
 Dùng trí sáng không nhơ
 Soi sáng đường cho họ
 Chúng sanh vào ác đạo
 Thường mê mất đường chánh
 Đọa địa ngục ngạ quỷ
 Hoặc đọa loài súc sanh
 Chư Phật đã biết rõ
 Dẫn dắt đi đường chánh
 Nay Phật thấy họ rồi
 Khởi đại bi khai thị
 Phật biết tất cả pháp
 Chơn như và thiệt tánh
 Thanh tịnh đồng hư không
 Chứng thành chơn giải thoát
 Chúng sanh chẳng biết được
 Pháp tịnh diệu như vậy
 Như Lai vì thương họ
 Mà phát khởi đại bi.

 Nầy Xá Lơị Phất! Đây gọi làđức đại bi chẳng thể nghĩ bàn của Như LaiChư đại Bồ Tát nghe đức đại bi chẳng thể nghĩ bàn ấy rồi liền tin nhận vâng thờ không lầm không nghi càng thêm vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy kỳ.
Nầy Xá Lợi Phất! Thế nào là đại Bồ Tát đối với đức Phật pháp bất cộng chẳng thể nghĩ bàn của đức Như Lai mà tin nhận vâng thờ không lầm không nghi vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy kỳ?

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai thành tựu mười tám Phật pháp bất cộng. Do thành tựu mười tám pháp bất cộng ấy nên đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác ở giữa đại chúng như sư tử rống tuyên bố rằng: Ta ở ngôi Thế Tôn chuyển pháp luân lớn mà tất cả thế gian hoặc Người hoặc Trời, Va Mương, Phạm Vương, Sa Môn, Bà La Môn đều chẳng thể chuyển được đúng pháp.

 Những gì gọi là mười pháp Phật pháp bất cộng?
 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai ở đời không có các sự lầm lỗi. Vì không lầm không lỗi nên gọi là Như Lai.

 Nầy Xá Lợi Phất! Thân nghiệp của Như Lai không lầm lỗi. Tất cả thế gian, hoặc kẻ ngu người trí đều không thể đúng pháp chỉ trích là Như Lailỗi lầm nơi thân nghiệp. Tại sao? Vì thân nghiệp của đức Phật Thế Tôn rốt ráo không lỗi lầm.

 Nầy Xá Lơị Phất! Chư Phật Như Lai bước đi trong đời luôn ngó thẳng đến trước. Tất cả cử chỉ, hoặc xoay mình ngó lại, hoặc cúi hoặc ngước, đắp, cầm bát, đến lui qua lại, đi đứng ngồi nằm đều không mất đi oai nghi, luôn đoan nghiêm tường tự.

 Nầy Xá Lợi Phất! Nếu lúc đức Như Lai đi vào thành ấp, hoặc lúc trở về, hai bàn chưn đạp trên không mà tướng thiên bức luân hiện rõ trên đất, mùi thơm đẹp ý và hoa sen vàng tự nhiên vọt ra đỡ chưn của Như Lai.

 Nếu có tất cả loài hữu tình trong loài súc sanh được chưn Phật chạm phải, thì hưởng thọ vui khoái mãn bảy ngày đêm, sau khi chết được sanh về cõi lành vui.

 Nầy Xá Lơị Phất! Đức Như lai mặc y phục, y phục ấy chẳng dính vào thân. Lực lượng của bốn ngón tay Như Lai, ngọn gió tỳ lam chẳng lay động được.

 Nầy Xá Lợi Phất! Ánh sáng nơi thân của Như Lai chiếu luôn không ngớt, chạm đến chúng sanh thì làm cho họ vui thích.

Nầy Xá Lợi Phất! Vì không có tất cả thân tướng lỗi lầm như vậy nên nói là thân nghiệp của đức Như Lai không có lỗi lầm.

 Như chính Phật tự chứng thân nghiệp không lỗi lầm, cũng vì chúng sanh tuyên nói pháp ấy cho họ dứt hẳn thân nghiệp lỗi lầm.

 Nầy Xá Lợi Phất! Ngữ nghiệp của đức Như Lai không có lỗi lầm. Tất cả thế gian, hoặc người trí kẻ ngu đều không thể chỉ tríchngữ nghiệp của Như Lailỗi lầm. Tại sao? Vì đức Như Lai là đấng nói đúng thời, đấng nói thiệt, đấng nói chắc, đấng nói phải thời, đấng làm đúng như lời nói, đấng khéo giảng giải từ ngữ, đấng nói lời mà người nghe vui thích, đấng không nói lập lại, đấng nói văn nghĩa trang nghiêm, đấng phát một âm nào cũng đều khiến người nghe tin hiểu vui đẹp.

 Nầy Xá Lợi Phất! Vì tất cả lời nói không có tướng lỗi như vậy nên gọi rằng ngữ nghiệp của Như Lai không lỗi lầmNhư tự mình chứng ngữ nghiệp không lỗi, cũng vì chúng sanh nói pháp ấy cho họ dứt hẳn lỗi lầm nơi ngữ nghiệp.

 Nầy Xá Lợi Phất! Tâm niệm cuả Như Lai không lỗi lầm. Tất cả Thế Gian, hoặc người trí kẻ ngu không thể rình tầm, đúng pháp chỉ trích được rằng tâm nghiệp của Như Lai có lỗi.

 Tại sao? Vì đức Như Lai chẳng xả pháp định thậm thâm mà có thể phát khởi làm những Phật sự, chẳng nhọc ý lo nơi tất cả pháp mà trí vô ngại nhậm vận thường chuyển nên nói đức Như Lai tâm nghiệp không lỗi lầmNhư tự mình chứng tâm không lỗi lầm, cũng vì chúng sanh mà nói pháp ấy cho họ dứt hẳn lỗi lầm nơi tâm.

 Đây gọi là Phật pháp bất cộng thứ nhứt của Như Lai: “Ba nghiệp không lầm lỗi.”

 Nầy Xá Lợi Phất! Thế nào là đức Như Lai phát ngôn không có sốt bạo? Vì đức Như Lai không sốt bạo mà phát ngôn vậy.

 Tất cả thế gian, hoặc Ma Vương hoặc quyến thuộc Ma, hoặc chư Thiên, hoặc các nhà ngoại đạo đều chẳng thể rình tìm được chỗ sơ suất của Như Lai.

 Nầy Xá Lợi Phất! Ngôn âm của Như Lai vốn không sốt bạo, không theo nơi sốt bạo. Tại sao? Vì từ lâu đức Như Lai đã lìa hẳn những tham ái và giận hờn. Dầu được tất cả chúng sanh tôn kính mà tâm Như Lai chẳng cao hứng. Dầu bị khinh khi cũng chẳng có niệm buồn.

 Nầy Xá Lợi Phất! Việc làm của đức Như Lai không có quá thời và chẳng cứu cánh, cũng chẳng vì việc ấy mà có ăn năn và theo việc ấy mà phát ngôn sốt bạo.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai không có tranh cãi với thế gian nên không có lời sốt bạo. Đức Như Lai luôn dùng ở chánh định vô tranh, không chấp ngã, ngã sở, cũng không có sở thử rời xa những triền phược nên không có lời sốt bạo.

 Nầy Xá Lợi Phất! Như tự mình chứng vô lượng ngôn âm không sốt bạo, đức Phật cũng vì chúng sanh nói pháp ấy, cho họ dứt hẳn những sốt bạo.

 Đây gọi là Phật pháp bất cộng thứ hai của đức Như Lai: “Lời nói không sốt bạo”.

 Nầy Xá Lợi Phất! Thế nào là đức Như Lai không quên mất chánh niệm? Vì đức Như Lai luôn an trụ trong tịnh lự giải thoát tam muội, chẳng ba giờ phát sanh mê loạn nơi một pháp nào. Tại sao? Vì trong chánh định, chánh trí chẳng si mê. Vì xem thấy không chướng ngại những tâm hành động chuyển của các hữu tình. Vì theo chỗ đáng dạy mà vì họ tuyên nói diệu pháp không quên mất. Vì ở trong các pháp nghĩa giảng giải biện tài vô ngại không quên mất. Vì đối với quá khứ vị laihiện tại, trí vô ngại thấy suốt vô lượng không quên mất.

 Như tự mình chứng chánh niệm không quên mất, cũng vì chúng sanh nói pháp ấy cho họ chứng được chánh nhiệm ấy.

 Đây gọi là Phật pháp bất cộng thứ ba của đức Như Lai: “Chánh niệm không quên mất”.

 Nầy Xá Lợi Phất! Thế nào là đức Như Lai không có tâm chẳng định?
 Nầy Xá Lợi Phất! Hoặc đi đứng ngồi nằm hoặc ăn uống, hoặc nói nín, đức Như Lai luôn ở trong thâm định không bao giờ xuất xả. Tại sao? Vì đức Như Lai chứng được thậm thâm tối thắng thiền định ba la mật đa, đã thành tựu tĩnh lự thậm thâm không chướng không ngại.

 Nầy Xá Lợi Phất! Không có hữu tình nào hoặc nhập định hay xuất định mà thấy được tâm và tâm sở của Như Lai, chỉ trừ lúc Như Lai dùng thần lực gia bị cho họ.

 Như tự mình đã chứng được tâm thường ở trong chánh định, đức Như Lai cũng vì các hữu tình nói pháp ấy cho họ rời hẳn tâm tán loạn.

 Đây gọi là Phật pháp bất cộng thứ tư của Như Lai: “Không có tâm chẳng định”.
 Nầy Xá Lợi Phất! Thế nào là đức Như Lai không có các dị tưởng? Nếu có dị tưởng thì có thể có tâm niệm không bình đẳng. Tâm Như Lai thường bình đẳng nên đối với tất cả pháp, đức Như Lai không có dị tưởng.

 Nầy Xá Lợi Phất! Nơi các Phật độ, đức Như Lai không có dị tưởng, vì Phật độ như hư không. Nơi các hữu tình, đức Như Lai không có các dị tưởng, vì tánh hữu tình vô ngã. Nơi chỗ chư Phật, đức Như Lai không có các dị tưởng, vì trí bình đẳng pháp tánh khôngsai biệt. Nơi tất cả pháp, đức Như Lai không có các dị tưởng, vì pháp ly dục tánh nó bình đẳng. Với người trì giới, Như Lai không yêu, với người phá giới, Như Lai không giận, với kẻ ơn đều đền đáp, với kẻ oán không lòng hại, với người được độ đều bình đẳng, với kẻ tà định không có lòng khinh mạn, nơi tất cả các pháp đều bình đẳng mà an trụ, vì thế nên nói đức Như Lai không có dị tưởng.

 Như mình đã chứng không có dị tưởng, đức Như Lai cũng vì chúng sanh mà tuyên nói pháp ấy cho họ dứt hảnh các thú dị tưởng.

 Đây gọi là Phật pháp bất cộng thứ năm của Như Lai: “Không có dị tưởng”.
 Nầy Xá Lợi Phất! Thế nào là đức Như Lai không chẳng biết rõ mà xả?
 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai đã tu tập xong thánh đạochứng đức xả ấy, chẳng phải là chưa tu thánh đạo mà chứng. Đức Như Lai đã tu nơi tâm, đã tu nơi giới đã tu nơi huệ mà chứng đức xả ấy, chẳng phải chưa tu mà chứng.

 Nầy Xá Lơị Phất! Đức xả của Như Laitùy theo trí huệhiện hành, chẳng phải tùy ngu si. Đức xả của Như Laixuất thế, chẳng sa nơi thế gian. Đức xả của Như Lai là thánh là xuất ly, chẳng phải chẳng thánh chẳng xuất ly. Đức xả của Như Lai thường chuyển pháp luân thanh tịnh thương mến chúng sanh chẳng bỏ rơi. Đức xả của Như Lai nhậm vận thành tựu, vì chẳng theo nơi đối trị.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức xả của Như Lai không cao chẳng cao cũng chẳng hạ liệt, an trụ được nơi bất động rời xa hai bên, vượt khỏi tất cả suy lường xem xét, quán đãi theo thời cũng chẳng quá thời, không động lay không tư lự, không phân biệt không phân biệt khác, không tu không tổn không có kiêu căng phóng dật, không có thị hiện, là chơn tánh là như tánh, là tánh chẳng hư vọng, chẳng phải tánh chẳng nhu, có vô lượng tánh như vậy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức đại xả của Như Lai thành tựu như vậy, vì muốn chúng sanh được viên mãn đức xả ấy mà nói pháp nầy.

 Đây gọi là đức xả vô phân biet Phật pháp bất cộng thứ sáu của Như Lai.

Lại nầy Xá Lợi Phất! Thế nào gọi là chí dục không lui giảm của Như Lai? Những gì là chí dục không lui giảm?

Lại còn có nghĩa gì gọi là chí dục của Như Lai?
Chí dục đại từ của Như Lai không giảm. Chí dục đại bị của Như Lai không giảm. Chí dục thuyết pháp của Như Lai không giảm. Chí dục điều phục chúng sanh của Như Lai không giảm. Chí dục thành thục chúng sanh của Như Lai không giảm. Chí dục giải thoát của Như Lai không giảm. Chí dục giáo đạo Bồ Tát của Như Lai không giảm. Chí dục nối giống Tam Bảo khiến chẳng đoạn tuyệt của Như Lai không giảm. Tất cả Như Lai chẳng theo nơi dục mà hành động. Chí dục của Như Lai dùng trí huệ làm tiền đạo.

 Như tự mình đã chứng chí dục không lui giảm, cũng vì chúng sanh tuyên nói pháp ấy cho họ chứng đước chí dục nhứt thiết trí trí viên mãn.

 Đây gọi là chí dục không giảm Phật pháp bất cộng thứ bảy của Như Lai.

 Lại nầy Xá Lơị Phất! Thế nào gọi là chánh cần không lui sụt giảm của Như Lai?

 Đó là chánh cần chẳng bỏ chúng sanh được hóa độChánh cần chẳng có ý xua đuổi chúng nghe phápGiáo hóa chẳng lui mất như vậy nên gọi chánh cần của Như Lai chẳng giảm.

 Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có chúng sanh thích nghe pháp đáng là pháp khí có thể nghe pháp mãi cả kiếp không biết mỏi, gặp thính chúng như vậy, đức Như Lai cũng thuyết pháp suốt kiếp chẳng rời pháp tòa chẳng ăn uốngthuyết pháp luôn chẳng nghỉ.

 Giả sử cách xa hằng ha sa thế giới có một chúng sanh thuộc giới hạn giáo hóa của Phật, đức Như Lai liền đích thân đến tại chỗ họ để giáo hóa cho họ được ngộ nhậpChánh cần của Như Lai không hề mỏi mệt nhọc nhàm chán.

 Nầy Xá Lợi Phất! Thân của Như Lai không hề mệt mỏi, ngữ và tâm của Như Lai cũng không hề mỏi mệt. Tại sao? Vì thân ngữ và tâm của Như Lai thường khinh an luôn.

 Nầy Xá Lợi Phất! Từ nhiều kiếp đức Như Lai phát khởi tinh tấnca ngợi đức tinh tấn, vì chúng sanh mà nói pháp ấy cho họ siêng tu tập đức tinh tán để được chứng thánh giải thoát.

 Đây gọi là đức chánh cần không giảm Phật pháp bất cộng thứ tám của Như Lai.
 Nầy Xá Lợi Phất! Thế nào là đức Như Lai đối với tất cả pháp và tất cả chủng mà tất cả niệm không lui giảm? Vì niệm của đức Như Lai không lui giảm vậy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai chứng được Vô thượng Bồ đềquán trí không gián đoạn. Tâm của tất cả chúng sanh nối tiếp biết các sự quá khứ vị lai, nơi trong ấy đức Như Lai đều biết rõ không có quên mất. Và biết thiệt tâm hành của chúng sanh rồi, đức Như Lai không hề tác ý trong đó mà sự nhớ biết của Như Lai không lui giảm.
Nầy Xá Lơị Phất! Đức Như Lai an lập ba tụ chúng sanh, căn tánh ngộ nhập hiểu biếttu hành của họ, xét biết rõ rồi đức Như Lai chẳng để ý nghĩ nhớ quan sát nữa, mà đức Như Lai thường vì họ thuyết pháp đúng chỗ chẳng hề thôi nghỉ. Tại sao? Vì đức niệm của Như Lai không lui giảm vậy.

 Như tự mình chứng niệm không lui giảm, cũng vì chúng sanh mà tuyên nói pháp ấy cho họ vĩnh viễn dứt niệm thối giảm.

 Đây gọi là đức niệm không giảm Phật pháp bất cộng thứ chính của Như Lai.
 Lại nầy Xá Lợi Phất! Thế nào là tam ma địa của Phật không thối giảm?

 Nầy Xá Lợi Phất! Tam ma địa của Phật và tất cả pháp, tánh ấy bình đẳng, không chẳng bình đẳng. Vì tất cả pháp và tất cả chủng pháp không có tánh gì chẳng bình đẳng.

 Lại có nhơn duyên gì mà tam ma địa của Phật không giảm?
 Vì chơn như bình đẳng thì tam ma địa bình đẳng, vì tam ma địa bình đẳng thì Như Lai bình đẳng. Vì hay chứng nhập tánh bình đẳng như vậy, nên tam ma địa ấy gọi là đẳng định.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Nếu tham tế bình đẳng thì ly tham tế bình đẳng. Nếu sân tế bình đẳng thì ly sân tế bình đẳng. Nếu si tế bình đẳng thì ly si tế bình đẳng. Nếu hữu vi tế bình đẳng thì vô vi tế bình đẳng. Nếu sanh tử tế bình đẳng thì Niết Bàn tế bình đẳng.

 Vì Như Lai chứng nhập tánh bình đẳng như vậy nên tam ma địa của Như Lai không lui giảm. Tại sao? Vì tánh bình đẳng không thối giảm vậy.

 Nầy Xá Lơị Phất! Tam ma địa của Phật chẳng phải tương ưng với nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý. Tại sao? Do không tương ưng vậy, nhưng nơi đức Như Lai sáu căn không thiếu.

 Tam ma địa của Phật chẳng y nơi địa thủy hỏa phong bốn đại, chẳng y nơi dục giới sắc giới vô sắc giới, chẳng y nơi thế gian nầy và thế gian khác. Tại sao? Do không y vậy. Vì thế mà không lui không giảm.

 Đã tự chứng tam ma địa không giảm, đức Như Lai cũng vì chúng sanh tuyên nói pháp ấy cho họ chứng được các tam ma địa.

 Đây gọi là tam ma địa không giảm Phật pháp bất cộng thứ mười của Như Lai.
 Lại nầy Xá Lơị Phất! Thế nào là trí huệ không giảm của Như Lai?
 Nầy Xá Lợi Phất! Những gì là trí huệ của Như Lai?

 Đó là trí biết rõ các pháp chẳng nhờ người khác. Trí nói diệu pháp cho các hữu tình. Trí thiện xảo vô tận. Trí hiểu biết vô ngạiTrí phân biệt tất cả nghĩa. Trí ngộ nhập một nghĩa cả trăm ngàn đại kiếp nói cũng chẳng hết. Trí dứt lưới nghi khi được nghe. Trí nơi tất cả chỗ không chướng ngại. Trí lập và nói ba thừa. Trí thấu rõ khắp tám muôn bốn ngàn tâm hành của hữu tình. Trí mở dạy tám muôn bốn ngàn pháp tạng.

 Nầy Xá Lợi Phất! Trí huệ của Như Lai vô biên vô tế không có cùng tận. Vì trí huệ ấy chẳng thể cùng tận vậy.

 Do trí huệ ấy chẳng cùng tận, nên từ trí huệ ấy thuyết pháp cũng không cùng tận, vì thế mà gọi trí huệ của Như Lai không lui giảm.

 Như tự chứng trí huệ không giảm, đức Như Lai cũng vì chúng sanh nói pháp ấy cho họ chứng được trí huệ vô tận.

 Đây gọi là trí huệ không giảm Phật pháp bất cộng thứ mười một của đức Như Lai.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Thế nào là giải thoát không giảm của Như Lai?
 Nầy Xá Lợi Phất! Những gì là giải thoát của Như Lai?

 Nầy Xá Lợi Phất! Hàng Thanh Văn thừa do ngộ âm thanhđược giải thoát. Hàng Độc Giác thừa do ngộ các duyên mà được giải thoátChư Phật Như Lai do xa rời tất cả chấp trước hai bên mà được giải thoát, nên gọi là Như Lai giải thoátGiải thoát ấy, với tiền tế thì không hệ phược, với hậu tế thì không chuyển hành, với hiện tai thì không trụ trước.

 Nầy Xá Lợi Phất! Nhãn với sắc, hai chấp giải thoát. Nhĩ với thanh, tỷ với hương, thiệt với vị, thân với xúc, hai chấp giải thoát. Vì y chỉ giải thoát nên nhiếp thọ không chấp.

 Nầy Xá Lợi Phất! Tâm cùng với trí, tự tánh sáng sạch, thể không vết không nhơ. Vì thế nên chư Phật do sát na tâm tương ưng huệ mà chứng được Vô thượng Bồ đề.

 Theo chỗ chứng Bồ đề của mình, đức Như Lai cũng vì chúng sanh nói pháp ấy cho họ chứng viên mãn Bồ đề.

 Đây gọi là giải thoát không giảm Phật pháp bất cộng thứ mười hai của Như Lai.
 Lại nầy Xá Lợi Phất! Thế nào là tất cả thân nghiệp của Như Lai do trí làm tiền đạo và theo trí mà chuyển.

 Nầy Xá Lợi Phất! Do vì Phật đã thành tựu thân nghiệp ấy nên tất cả hữu tình hoặc thấy Như Lai liền điều phục, hoặc nghe Như Lai thuyết pháp cũng đều điều phục. Vì thế nên Như Lai hoặc hiện yên lặng điều phục chúng sanh, hoặc hiện uống ăn điều phục chúng sanh, hoặc hiện các oai nghi điều phục chúng sanh, hoặc hiện những tướng thù thắng điều phục chúng sanh, hoặc hiện tùy hình hảo điều phục chúng sanh, hoặc hiện vô kiến đảnh điều phục chúng sanh, hoặc hiện tướng nhìn xem điều phục chúng sanh, hoặc hiện thần quang chiếu sáng điều phục chúng sanh, hoặc hiện bước đi cất chưn hạ chưn điều phục chúng sanh, hoặc hiện qua lại thành ấp điều phục chúng sanh.

 Nầy Xá Lợi Phất! Nói tóm lại, không có oai nghi nào của Phật mà chẳng điều phục chúng sanh, vì thế nên nói tất cả thân nghiệp của Như Lai do trí làm tiền đạo theo trí mà chuyển.

 Như tự chứng thân nghiệp như vậy, đức Như Lai cũng vì chúng sanh nói pháp ấy cho họ chứng nhập thân trí như vậy.

 Đây gọi là thân nghiệp theo trí chuyển Phật pháp bất cộng thứ mười ba của Như Lai.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Thế nào là tất cả ngữ nghiệp của Như Lai do trí làm tiền đạo và theo trí mà chuyển?

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Phật Như Lai không bao giờ luống thuyết pháp. Do trí là tiền đạo nên lời Phật thọ ký đều tròn đủ cả. Lời Phật nói ra đều rõ ràng vi diệu.

 Nầy Xá Lợi Phất! Ngôn ngữ của Phật theo hiện thật mà chuyển chẳng thể nghĩ bàn. Nay sẽ lược kể:

 Ngôn ngữ của Phật là lời nói dễ hiểu rõ, là lời nói dễ biết rõ, lời nói chẳng cao đại, lời nói chẳng ti hạ, lời nói thù thắng, lời nói chẳng tà khúc, lời nói chẳng vấp váp, lời nói chẳng phiền loạn, lời nói chẳng ngập ngừng, lời nói chẳng thô cứng, lời nói chẳng ẩn mất, là lời nói nhu hòa, lời nói đáng vui thích, lời nói chẳng trống thiếu, lời nói chẳng nhẹ rung, lời nói chẳng lập cập, lời nói chẳng phiền trọng, lời nói chẳng quá mau, lời nói khéo quyết đoán, lời nói khéo giảng giải, lời nói tột hay tốt, lời nói thắng diệu, lời nói khéo xướng đạo, lời nói thanh lớn, lời nói như sấm nổ, lời nói không sót thừa, lời nói như uống cam lộ, lời nóiý nghĩa, lời nói đáng gần gũi, lời nói quảng đại, lời nói đáng yêu, lời nói không nhiễm trần, lời nói rời trần cấu, lời nói không nhơ, lời nói không đục, lời nói không lỗ mãng, lời nói oai nghiêm, lời nói không chướng ngại, lời nói hay dạy dỗ, lời nói sáng sạch, lời nói chánh trực, lời nói không khiếp sợ, lời nói không khuyết giảm, lời nói chẳng nhẹ gấp, lời nói hay sanh vui mừng, lời nói làm cho thân khoan khoái, lời nói làm cho tâm hớn hở lời nói làm hết tham, lời nói làm dứt sân, lời nói làm mất si, lời nói trừ ma, lời nói dẹp ác, lời nói xô ngã dị luận, lời nóibiểu thị, lời nói như tiếng trống trời, lời nói mà người trí vui thích, lời nói như tiếng tiên điểu, lời nói như tiếng Thiên Đế, lời nói như tiếng Phạm Thiên, lời nói như tiếng hải triều, lời nói như tiếng vân lôi, lời nói như tiếng động đất động núi, lời nói như tiếng chim hồng chúa, chim hạc chúa, chim công chúa, chi hoàng li, chim cộng mạng, chim ngỗng chúa, chim nhạn chúa, lời nói như tiếng lộc vương, như tiếng nhạc, như tiếng loa, như tiếng tiêu, lời nói dễ biết dễ hiểu, lời nói rành rẽ, lời nói đẹp dạ, lời nói đáng lắng nghe, lời nói sâu xa, lời nói không ngọng ngịu, lời nói vui tai, lời nói sanh căn lành, lời nói không thiếu văn cú, lời nói khéo trình bày văn cú, lời nói đúng văn cú, đúng nghĩa, đúng pháp, đúng thời, đáp đúng, chẳng lỗi thời, lời nói biết căn tánh thắng liệt, lời nói trang nghiêm bố thí, thanh tịn trì giới, truyền day nhẫn nhục, luyện tập tinh tấn, khiến thích thiền định, ngộ nhập chánh huệ, lời nói đức từ khéo nhóm, đức bi không mỏi, đức hỉ trong sạch, chứng nhập đức xả, lời nói an lập ba thừa, lời nói nối vững Tam Bảo, lời nói thành lập ba tụ, lời nói thanh tịnh ba giải thoát, lời nói tu khắp đế lý, tu khắp trí huệ, lời nói người đạt chẳng mê, lời nói bực thánh khen ngợi, lời nói lượng như hư không, lời nói thành tựu vi diệu nhứt thiết chủng. Lời nói của Như Lai vô lượng vô biên thanh tịnh vi diệu như vậy. Vì thế nên nói ngữ nghiệp của Như Lai dùng trí làm tiền đạo theo trí mà chuyển.

 Như tự mìn đã chứng ngữ nghiệp như vậy, đức Như Lai cũng vì chúng sanh mà tuyên nói pháp ấy cho họ được chứng nhập ngữ nghiệp như vậy.

 Đây gọi là ngữ nghiệp theo trí chuyển Phật pháp bất cộng thứ mười bốn của Như Lai.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Thế nào là tất cả ý nghiệp của Như Lai dùng trí làm tiền đạo theo trí mà chuyển?

 Luận về Như Lai thì tâm ý và thức đều chẳng nói được.

 Luận về Như Lai thì phải do trí để cầu, vì trí tăng thượng nên gọi là Như Lai . Trí của Như Lai theo đến tâm của tất cả chúng sanh, theo vào ý của tất cả chúng sanh, chẳng rời thức của tất cả chúng sanh, đốt sạch các pháp, các tam ma địa, chẳng theo các duyên, vượt quá tất cả cảnh giới sở duyên, xa rời duyên sanh, dứt ba cõi các loài, vượt khỏi giống kiêu mạn, giải thoát nghiệp ma, rời các dua nịnh dối trá, bỏ ngã ngã sở, dứt trừ vô minh si ám, khéo tu các trợ đạo chi, đồng với hư không, chẳng có phân biệt, không khác biệt với pháp giới.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai chứng nhập ý nghiệp như vậy, trí làm tiền đạo theo đúng tâm của chúng sanhthuyết pháp cho họ cũng chứng nhập ý ấy.

 Đây gọi là ý nghiệp theo trí chuyển Phật pháp bất cộng thứ mười lăm của Như Lai.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Thế nào là đức Như Lai đối với đời quá khứ dùng trí vô trước vô ngại chuyển hành?

 Nầy Xá Lợi Phất! Tại sao trí ấy gọi là chuyển hành?

 Đức Như Lai dùng trí vô ngại có thể biết được trong vô lượng vô biên đời quá khứ có bao nhiêu quốc độ hoặc thành hoặc hoại, tất cả sự việc xảy ra đó vô lượng vô số, đức Như Lai đều xét biết. Cho đến trong những quốc độ ấy có bao nhiêu cây cỏ rừng rậm cây thuốc, ở nơi đây đức Như Lai đều biết rõ. Trong những quốc độ ấy có bao nhiêu chúng sanh sự việc của chúng sanh, đức Như Lai đều biết rõ. Trong đó có chư Phật xuất thế, chư Phật thuyết chánh pháp, ở nơi đây đức Như Lai đều biết thiệt rõ. Trong đó có bao nhiêu chúng sanh do Thanh Văn thừa đắc đạo, hoặc do Độc Giác thừa hoặc Đại thừa đắc đạo, đức Như Lai đều biết rõ. Cho đến những quốc độ ấy có hình tướng sai biệt, chúng Tỳ Kheo Tăng, thọ lượng, chánh pháp trụ thế, uống ăn thở hít, đức Như Lai đều biết rõ.

 Nầy Xá Lợi Phất! Tướng dạng đời quá khứ của tất cả hữu tình, hoặc chết, hoặc sanh, hoặc cõi, hoặc loài, ở nơi đây đức Như Lai đều biết thiệt rõ.

 Các hữu tìn ấy bao nhiêu chủng tánh, bao nhiêu căn tánh, bao nhiêu hành tánh, bao nhiêu hiểu biết, có vô lượng thứ sai biệt đức Như Lai đều biết rõ.

 Đức Như Lai lại biết những tâm nối tiếp nhau của tất cả chúng sanh ấy. Như là những tâm không hở xen như vậy những tâm sanh khởi như vậy, đức Như Lai đều biết rõ.

 Nầy Xá Lợi Phất! Hoặc dùng hiện trí, hoặc dùng chủng loại trí, đức Như Lai chứng biết được tất cả tâm nối tiếp đã quá vãng trong đới quá khứ.

 Tự mình đã chứng trọn vẹn trí ấy, đức Như Lai cũng vì chúng sanh mà nói pháp ấy cho họ được chứng nhập trí như vậy.

 Đây gọi là trí vô ngại biết đời quá khứ Phật pháp bất cộng thứ mười sáu của Như Lai.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Thế nào là đức Như Lai đối với đời vị lai dùng trí vô trước vô ngại chuyển hành?

 Cớ sao trí ấy gọi là chuyển?
 Nầy Xá Lợi Phất! Trong đời vị lai có bao nhiêu đức Phật, hoặc sẽ xuất hiện, hoặc sẽ diệt độ, hoăc lại sẽ có, hoặc lại sẽ không, ở tạ đây đức Như Lai đều biết rõ.

 Cho đến đương lai hỏa kiếp, đương lai thủy kiếp, đương lai phong kiếp phá hoại, các quốc độ sẽ tồn tại lâu hay mau, tất cả những sự khác biệt ấy, ở tại đây đức Như Lai đều biết rõ.

 Lại đương lai các quốc độ có bao nhiêu địa giới, có bao nhiêu vi trần, có bao nhiêu cỏ cây lùm rừng cây thuốc, cho đến bao nhiêu tinh tú khác biệt, ở tại đây đức Như Lai đều biết rõ.

 Khắp đến trong mỗi mỗi quốc độ đương lai chư Phật, Độc Giác, Thanh VănBồ Tát xuất hiện ra đời, hoặc uống ăn, hoặc đi đứng, hoặc thở hít, ở tại đây đức Như Lai đều biết rõ.

 Cho đến mỗi mỗi đức Phật giáo hóa sai khác, quan sát tánh của hữu tình sẽ chứng giải thoát, hoặc nương Thanh Văn thừa, hoặc nương Độc Giác thừa, hoặc nương Đại thừa mà chứng giải thoát, ở tại đây đức Như Lai đều biết rõ.

 Cùng tận đời vị lai trong mỗi mỗi quốc độ có bao nhiêu chúng sanh chỗ sanh ra sai khác, cho đến tâm và tâm sở của chúng hữu tình ấy, ở tại đây đức Như Lai đều biết rõ.

 Tự mình đã chứng được trí ấy, đức Như Lai cũng vì chúng sanh mà tuyên nói pháp ấy cho họ chứng được trí như vậy.

 Đây gọi là trí vô ngại biết đời vị lai Phật pháp bất cộng thư mười bảy của Như Lai.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Thế nào là đức Như Lai đối với đời hiện tại trí vô ngại vô trước chuyển hành?

 Cớ sao trí ấy gọi là chuyển?
 Nầy Xá Lợi Phất! Đối với trong tất cả quốc độ hiện tạimười phương có bao nhiêu Phật hiện tại, những chúng Thanh Văn, những chúng Độc Giác, những chúng Bồ Tát, có bao nhiêu sai khác đức Như Lai đều biết rõ.

 Đức Như Lai biết rõ hiện tại những sắc tướng của các tinh tú, cỏ cây lùm rừng, địa giới, vi trần v.v... tất cả sự việc của tất cả quốc độ hiện tạimười phương, đức Như Lai đều biết rõ. Cho đến tất cả thủy giới, hỏa giới, phong giới trong tất cả quốc độ hiện tạimười phương, đức Như Lai đều biết rõ, cũng biết rõ cả hư không giới.

 Đức Như Lai biết rõ hiện tại ba thứ thế gian giới. Biết rõ hiện tại địa ngục chúng sanh giới, sanh nhơn và xuất nhơn của họ. Biết rõ hiện tại súc sanh giới, sanh nhơn và xuất nhơn. Biết rõ hiện tại ngạ quỷ giới, sanh nhơn và xuất nhơn. Biết rõ hiện tại nhơn gian chúng sanh giới, sanh nhơn và tử nhơn. Biết rõ hiện tại thiên thượng chúng sanh giới, sanh nhơn và tử nhơn. Biết rõ hiện tại các tâm tâm sở nối tiếp của tất cả chúng sanh, có tánh phiền não hoặc rời tánh phiền não. Biết rõ hiện tại những chúng sanh được hóa độcăn tánh sai biệt, hiện tại những chúng sanh phải được hóa độcăn tánh sai biệtVô lượng sự tướng như vậy, đức Như Lai đều biết thiệt rõ.

 Tự mình đã có chứng trí như vậy, đức Như Lai cũng vì chúng sanh mà tuyên nói pháp ấy cho họ chứng được trí ấy.

 Đây gọi là trí vô ngại biết đời hiện tại Phật pháp bất cộng thứ mười tám của Như Lai.

 Nầy Xá Lợi Phất! Chư Phật Như Lai thành tựu mười tám Phật pháp bất cộng như vậy viên mãn không thừa phóng quang minh chiếu sáng tất cả đại chúng khắp mười phương, che khuất tất cả chúng hội thiên ma.

 Nầy Xá Lợi Phất! Phật pháp bất cộng của Như Lai chẳng thể nghĩ bà vô biên vô tế như hư không. Nếu có người muốn tìm cầu biên tế của Phật pháp bất cộng ấy thì chẳng khác gì người muốn tìm cầu biên tế của hư không.

Chư đại Bồ Tát nghe Phật pháp bất cộng của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn như hư không rồi liền tin nhận vâng thờ không làm không nghi càng thêm vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy kỳ”.

 Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy nên nói kệ rằng:

 “Thân, ngữ ý nghiệp của Đạo Sư
 Không có lỗi lầm cũng không động
 Và dùng pháp ấy độ chúng sanh
 Đây là pháp bất cộng của Phật
 Tâm Phật chẳng cao cũng chẳng hạ
 Rốt ráo rời xa sân và ái
 Luôn luôn không tranh dứt hẳn tranh
 Là pháp bất cộng của Như Lai
 Đạo Sư nơi pháp và cùng trí
 Giải thoát sở hành không vong niệm
 Những trí vô ngại cũng không mất
 Là pháp bất cộng của Như Lai
 Hoặc đứng hoặc ăn hoặc kinh hành
 Hoặc ngồi hoặc nằm tâm thường định
 Không loạn cũng không chúng sanh tưởng
 Là Pháp bất cộng của Như Lai
 Đạo Sư nơi quốc độ chư Phật
 Hữu tình và Phật không dị tưởng
 Đại trí an trụ tánh bình đẳng
 Là pháp bất cộng của Như Lai
 Đạo Sư không có xả giản trạch
 Vì khéo tu đạo thắng quyết định
 Không có phân biệt nơi các pháp
 Là pháp bất cộng của Như Lai
 Đạo Sư dục lành không lui giảm
 Thường chung cùng từ bi phương tiện
 Điều phục chúng sanh rộng vô lượng
 Là pháp bất cộng của Như Lai
 Đạo Sư tinh tấn thường không giảm
 Hóa độchúng sanh lượng vô biên
 Ba nghiệp điều phục các chúng sanh
 Là pháp bất cộng của Như Lai
 Đạo Sư đại niệm thường không giảm
 Ngồi tòa Bồ đề thành chánh giác
 Giác ngộ các pháp vô lượng giác
 Là pháp bất cộng của Như Lai
 Không phân biệt không dị phân biệt
 Tự nhiên an trụ định bình đẳng
 Tịnh lự chẳng y tất cả pháp
 Là pháp bất cộng của Như Lai
 Trí huệ của Phật rất các tường
 Liễu đạt tất cả hạnh chúng sanh
 Diễn nói pháp mầu tùy ý
 Là pháp bất cộng của Như Lai
 Thanh Văn Độc Giác chứng giải thoát
 Giải thoát của Phật rất thù thắng
 Vô ngại ly cấu như hư không
 Đại xả của Phật khó nghĩ biết
 Chư Phật bổn lai không tâm niệm
 Tánh giải thoát tâm luôn nối tiếp
 Như pháp giải thoát vì chúng nói
 Là pháp bất cộng của Như Lai
 Chúng sanh mắt thấy Phật oai nghi
 Hoặc đứng hoặc đi vào thành ấp
 Tướng hảo quang minh hiển hiện ra
 Họ được điều phục đồng tu thiện
 Đạo Sư từ oai phóng quang minh
 Vô lượng chúng sanh thọ an lạc
 Quang minh chiếu khắp độ chúng sanh
 Là pháp bất cộng của Như Lai
 Đạo Sư tự nhiên diễn pháp âm
 Chúng sanh đều nghe tùy ý hiểu
 Được nghe tiếng pháp như vang ứng
 Là pháp bất cộng của Như Lai
 Đạo Sư vĩnh viễn không ý nghiệp
 Những hành nghiệp chuyển đều do trí
 Trí vào trong tâm của chúng sanh
 Là pháp bất cộng của Như Lai
 Các tam ma địatịnh lự
 Khéo tu thành mãn lìa hí luận
 Trụ tánh bình đẳng như hư không
 Là pháp bất cộng của Như Lai
 Nơi tất cả pháp đời quá khứ
 Bao nhiêu quốc độ bao nhiêu chúng
 Trí Phật vô ngại đều biết rõ
 Là pháp bất cộng của Như Lai
 Nơi tất cả pháp đời vị lai
 Thế giới sẽ có hoặc sẽ không
 Chúng sanh quốc độ và chư Thánh
 Phật đều biết rõ không sót dư
 Đạo Sư quan sát đời vị lai
 Tâm tĩnh không bao giờ tán loạn
 Chúng sanh và pháp biết như thiệt
 Là pháp bất cộng của Như Lai
 Nơi tất cả pháp đời hiện tại
 Phật trí vô ngại đều biết rõ
 Cảnh giới của Phật đồng hư không
 Là pháp bất cộng của Như Lai
 Đã nói pháp bất cộng của Phật
 Đủ số mười tám chẳng nghĩ bàn
 Chơn như thiệt tánh đồng hư không
 Chư đại Bồ Tát tin nhận được
 
 Nầy Xá Lợi Phất! Đây gọi là đức Như Lai thành tựu mười tám Phật pháp bất cộng.
 
 Do thành tựu mười tám pháp ấy nên đức Như Lai ở giữa đại chúng như sư tử rống tuyên bố rằng đức Phật ỏ bực Thế Tôn hay chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả thế gian hoặc Người hoặc Trời, Ma Vương, Phạm Vương, Sa Môn, Bà La Môn đều chẳng thể chuyển đúng pháp được.

 Nầy Xá Lợi Phất! Chư đại Bồ Tát đã an trụ nơi đức tin thanh tịnh, đối với mười bất tư nghị và mười thứ pháp chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, đều tin nhận vâng thờ chẳng lầm chẳng nghi, càng thêm vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy kỳ”.
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.