BA MƯƠI NGÀY THIỀN QUÁN
Joseph Goldstein
Nguyễn Duy Nhiên Việt dịch
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, Hà Nội 2008
Buổi tối thứ mười tám
Sự
trong sạch và hạnh phúc
Nhà văn Mark Twain có kể câu chuyện về một người được sinh lên thiên đàng. Khi
anh ta đến nơi, người ta ban cho anh một đôi cánh và một cây đàn. Những ngày
đầu, anh dùng đôi cánh của mình để bay đi đây đó, và mỗi khi muốn nghe nhạc
trên cõi trời, anh cầm cây đàn lên gảy. Nhưng sau một thời gian, cả hai thứ ấy
trở thành một gánh nặng cho anh. Cuối cùng, anh khám phá ra rằng ở thiên đàng
không cần đến đôi cánh để đi đây đó, và chỉ cần khởi ý muốn là tự nhiên những
nhạc công trên trời sẽ hiện ra và hòa tấu nhạc cho anh nghe. Vậy là anh ta bỏ
đôi cánh và cây đàn xuống, và anh bắt đầu thật sự vui chơi.
Cũng vậy, chúng ta đôi khi tự giới hạn chính mình bằng những ý niệm về vấn đề
trong sạch và hạnh phúc. Chúng ta tự mang lên trên người những đôi cánh, cây
đàn, hào quang không cần thiết, khi nghĩ rằng hạnh phúc có nghĩa là phải có một
cái gì hay là phải hành động theo một cách thức đặc biệt nào đó. Khi chúng ta
dẹp qua một bên những quan niệm hẹp hòi, ta sẽ có thể bắt đầu kinh nghiệm được
những niềm vui sâu xa hơn.
Có nhiều loại hạnh phúc khác nhau, tùy thuộc vào mức độ trong sạch của mình.
Sắc dục hay là thú vui qua các giác quan là loại hạnh phúc đầu tiên mà ta có
thể cảm nhận được: nhìn những cảnh đẹp, nghe những âm thanh êm tai, ngửi nếm
những mùi vị thơm ngon, có những cảm giác thoải mái... Là con người, chúng ta
ai cũng đã nhiều lần được hưởng những thú vui này. Mặc dù chúng chỉ tạm bợ,
nhưng chúng cũng đã đem lại cho ta một phần nào thú vị, hạnh phúc.
Lại còn có một loại hạnh phúc sắc dục cao quý hơn được mô tả trong kinh sách,
về những cõi trời, nơi mà mọi vật đều tuyệt mỹ và tươi mát. Chúng sinh ở đây có
thân bằng ánh sáng, không biết đến sự đau đớn hay khó chịu. Mọi thú vui ham
muốn đều được thỏa mãn. Nơi đây có những lâu đài làm bằng ngọc quý, có những
nhạc công thiên thần, cùng tiên thánh và các hàng Bồ Tát. Kinh nói rằng đức Bồ
Tát Di-lặc, vị Phật tương lai, hiện đang ngự trị ở một cõi trời như thế và đang
thuyết pháp cho chúng sinh ở đó nghe. Hạnh phúc ở cõi trời thuộc vào loại cao
quý hơn.
Con đường đưa đến hạnh phúc trong sạch trong cõi Dục giới là những hành động
trong sạch, giai đoạn đầu tiên của sự tinh luyện. Những hành động trong sạch có
nghĩa là thực hành bố thí, trì giới, không chạy theo tham, sân, si. Những hành
động trong sạch này là nhân sinh ra những quả tốt lành, hạnh phúc, để ta hưởng
thụ cả trong hai cõi người và trời.
Có một loại hạnh phúc cao hơn cả hạnh phúc của cõi trời. Đó chính là sự hạnh
phúc và an lạc của thiền định. Khi tâm đã phát triển một định lực cao độ, ta sẽ
có một niềm an lạc siêu thoát, vi diệu, vượt trên mọi khoái lạc sắc dục. Tâm ta
lúc ấy không còn chạy theo những đối tượng của các giác quan và hoàn toàn tập
trung vào một đề mục duy nhất. Hạnh phúc này vững bền hơn những khoái lạc của
các giác quan, vì những hạnh phúc của sắc dục đến và đi rất mau chóng.
Có những trạng thái của tâm có thể đạt được bằng sức mạnh của thiền định, gọi
là cõi Phạm thiên hay cõi của Bốn tâm vô lượng. Chúng có tên gọi như vậy vì
phẩm chất của tâm lúc đó tương đương với cõi trời Phạm thiên, một cảnh giới cao
tột nhất mà ta có thể kinh nghiệm được.
Tâm vô lượng đầu tiên là tâm đại từ. Từ ở đây không có nghĩa là lòng thương vì
sự quyến luyến hay ý muốn chiếm hữu, mà là một lòng thương yêu mong muốn cho
hết thảy chúng sinh khắp nơi đều được an lạc và hạnh phúc. Ở trạng thái này,
tâm ta có một định lực rất mạnh, có khả năng phóng tỏa tình thương vô tận đi
khắp mọi phương hướng.
Tâm vô lượng thứ hai là tâm đại bi, có nghĩa là lòng thương xót mọi loài đang
chịu đau khổ - muốn làm vơi đi mọi nỗi khổ của chúng sinh.
Tâm vô lượng thứ ba là tâm đại hỷ, có nghĩa là chia sẻ niềm vui có được hạnh
phúc, an lạc của kẻ khác, thấy người khác được hạnh phúc mà mình cũng vui theo.
So với thói thường là ngược lại, người ta thường hay ghen tức, ganh tỵ với hạnh
phúc của kẻ khác. Một tâm biết hân hoan với niềm vui của người khác sẽ luôn tỏa
sáng và thanh thản, nhẹ nhàng.
Tâm vô lượng cuối cùng là tâm đại xả, có nghĩa là một tâm bình đẳng, hoàn toàn
không bị chi phối bởi những thăng trầm, buồn vui của cuộc đời. Một tâm lúc nào
cũng giữ được sự bình đẳng và an ổn.
Hạnh phúc của Bốn tâm vô lượng sẽ xuất hiện khi định lực được phát triển đầy
đủ. Cũng như sự trong sạch của phẩm hạnh tùy thuộc vào hành động, sự trong sạch
của tâm tùy thuộc vào định lực.
Nhưng còn có một niềm hạnh phúc to tát bội phần hơn cả cõi Phạm thiên, đó là
hạnh phúc của thiền định, hạnh phúc của Vipassana, hạnh phúc của trí tuệ. Tâm
thức này có khả năng quán chiếu, thẩm thấu vào tự thể của mọi vật, kinh nghiệm
được sự sinh diệt của mọi hiện tượng một cách rõ rệt. Hạnh phúc của Vipassana
bao giờ cũng siêu việt hơn tất cả, vì trong nhận thức sáng suốt hành giả được
nếm mùi vị của tự do, giải thoát. Không phải đắm chìm trong những khoái lạc của
sắc dục, cũng không phải bị thu hút vào trong một trạng thái an vui của thiền
định. Niềm hạnh phúc ở đây là của trí tuệ, khi tâm ta trở nên rực rỡ và tri
giác tỏa chiếu sự trong sáng của nó. Điều này cũng giống như khi ta lau chùi một
ly thủy tinh cho đến khi nó chiếu sáng lấp lánh. Bằng sự tu tập chánh niệm, tâm
ta cũng đạt đến một sự rực rỡ như vậy, và hưởng được niềm an lạc vô biên bắt
nguồn từ trí tuệ thâm sâu.
Có một giai đoạn tinh luyện gọi là quan niệm chân chánh, có thể làm khởi lên
hạnh phúc Vipassana. Quan niệm chân chánh ở đây có nghĩa là thoát ra khỏi ý
niệm về một cái ngã, sự mê chấp rằng ta có một tự thể riêng biệt. Thật ra chúng
ta chỉ là một quá trình diễn tiến của thân và tâm, luôn hoạt động và chuyển
biến. Có lần đức Phật giảng một bài kinh gọi là “Tất cả”. Bài kinh có tên là
Tất cả vì ngài diễn tả mọi hiện tượng trong vỏn vẹn sáu câu: “Mắt và đối tượng
của mắt. Tai và âm thanh. Mũi và mùi hương. Lưỡi và vị nếm. Thân và cảm giác.
Tâm thức và ý niệm hay những đối tượng của nó.”
Tất cả chỉ có vậy, ngoài những điều ấy không còn gì khác hơn nữa. Đức Phật dạy
rằng, cả thế giới chỉ hiện hữu trong phạm vi tấm thân dài mấy thước này mà
thôi. Hiểu được các giác quan căn bản và những đối tượng của chúng, là ta hiểu
được sự sinh diệt liên tục của sáu thức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý khi tiếp
xúc với đối tượng của chúng là sáu trần. Cả vũ trụ này chỉ là sự tập hợp của
những chuỗi liên tục, xảy ra rất nhanh của các sự nghe, thấy, ngửi, nếm, cảm
giác và kinh nghiệm những ý niệm khác nhau. Chỉ có sáu đối tượng và sáu thức để
nhận biết chúng: chúng ta chỉ là tiến trình liên tục này. Những sự kiện ấy
chẳng xảy đến cho một cá nhân nào hết. Không có một tự thể riêng biệt nào để ta
có thể gọi rằng: “cái này chính là tôi”, bởi vì mỗi thức và đối tượng của nó
sinh lên và diệt đi trong từng khoảnh khắc.
Đức Phật có diễn lại giáo lý này một cách thật cô đọng như sau: “Trong cái
thấy, chỉ có cái bị thấy; trong cái nghe, chỉ có cái bị nghe; trong cái cảm
giác (ngửi, nếm, đụng chạm) chỉ có cái bị cảm giác; trong cái suy nghĩ chỉ có
cái bị suy nghĩ.” Không có gì khác ngoài những điều đó, hoàn toàn không có một
cá nhân nào để cho nó xảy đến.
Nghe, thấy, ngửi, nếm,
cảm giác ở thân,
ý thức.
Hiện hữu của ta chỉ là một
chuỗi
liên tục của sáu tiến trình này.
Chúng ta đặt tên cho sự vật rất nhiều.
Có
vô số ý niệm để
diễn tả những
kinh nghiệm của ta. Nhưng mắt ta chỉ thấy màu
sắc và
hình dáng, nó không thấy những tên gọi.
Chúng ta chỉ nghe
âm thanh.
Chúng ta đặt tên cho những
âm thanh khác khau, nhưng thật ra chúng chỉ là sự
rung động trong không khí chạm vào lỗ tai, khiến cho
nhĩ thức khởi sinh lên.
Một mối
liên hệ đơn giản giữa nhân và quả. Chẳng có ai ở đó. Sự việc xảy ra quá
nhanh chóng, chúng gây cho ta một
ảo giác là những việc ấy xảy đến cho một người
nào. Khi tâm ta yên lặng, ta sẽ bắt đầu
kinh nghiệm được sự
tinh luyện trong
nhận thức của mình, ta sẽ thấy rằng cái ta chỉ là một tiến trình của thức và
trần, thoát ra ngoài
ý niệm về một tự thể riêng biệt. Và khi sự
tinh luyện được
thâm sâu,
chúng ta sẽ
trở thành là một với dòng
biến chuyển, thay vì là
mê muội
níu kéo, chấp giữ nó.
Quan niệm chân chánh nghĩa là có một
ý thức rõ ràng, nhìn
sự vật bằng
chân tướng của nó, một khởi đầu cho cái nhìn
biến thể. Đây chính là
hạnh phúc đầu tiên của
mùi vị giải thoát.
Hiểu được tự thân của sự vật là cánh cửa
đi vào một
hạnh phúc cao tột nhất:
niềm vui của Niết-bàn,
giác ngộ. Nơi đây có một sự
an tĩnh, nghỉ ngơi, tươi mát
vượt ra ngoài tiến trình
thân tâm. Và một điều
huyền diệu của
giáo pháp nữa là,
mọi
hạnh phúc đều sẽ đến với ta khi ta hướng về sự
tự do cao tột nhất.
Hỏi: Ông có thể
diễn tả hạnh phúc của Niết-bàn được không?
Đáp: Niết-bàn có ba thứ
hạnh phúc: Các
hạnh phúc này được coi như là những niềm
vui khác nhau, phát xuất từ sự
hoàn toàn chấm dứt khổ đau.
Khi tôi còn ở
Ấn Độ,
chúng tôi sống trên đỉnh một ngọn núi, và cách đó một
khoảng chừng nửa tiếng đi bộ, phía dưới một dốc núi khá cao, là một khu chợ
trời. Ở đây
đa số hàng hóa đều được chuyên chở bằng cách mang vác trên lưng. Có
một số các bà lão người
Tây Tạng, mang trên lưng những thân cây thật to, leo
lên núi mỗi ngày. Họ lê từng bước, uốn cong người xuống, vác nặng trên lưng và
đi lên dốc. Bạn hãy tưởng tượng đến sự nhẹ nhàng,
thoải mái của họ khi lên đến
nơi và bỏ
gánh nặng xuống! Một
cảm giác thư thái vô cùng khi ta có thể trút bỏ
đi
gánh nặng ấy.
Hạnh phúc của Niết-bàn là trút bỏ được
gánh nặng của khổ đau. Đây là
hạnh phúc
cao tột nhất. Để hiểu được
con đường phải đi và
kinh nghiệm giác ngộ ra sao, có
lẽ ta cũng nên biết qua về những
hạnh phúc khác nhau của Niết-bàn và các
hoạt
động của chúng.
Hạnh phúc đầu tiên hết là
hạnh phúc do
sự tích lũy của
trí tuệ và
chánh kiến,
được gọi là
con đường tâm thức. Đây mới chỉ là một cái nhìn thoáng qua, một
kinh nghiệm đầu tiên của Niết-bàn.
Con đường tâm thức này có
công năng nhổ tung
hết mọi gốc rễ của khổ đau một cách mạnh mẽ như
sấm sét. Ở đây ta không đè nén
khổ đau như trong khi
thiền định, nhưng là nhổ bứng tận gốc rễ, tháo tung mọi
xiềng xích trong tâm. Trong giai đoạn này ta
diệt trừ được ba sợi dây xích hằng
trói buộc ta vào
vòng sinh tử luân hồi từ bấy lâu nay. Chúng là sự
hoài nghi,
mê tín (tin vào những
hình thức,
lễ nghi như là một
phương tiện dẫn đến
giác
ngộ) và
chấp ngã.
Ba chướng ngại này sẽ
bị loại trừ ra khỏi tâm ta một cách
chớp nhoáng bằng
con đường tâm thức với đối tượng là Niết-bàn.
Ngay tiếp sau đó là loại
hạnh phúc Niết-bàn thứ hai, được gọi là quả
tâm thức.
Ta
kinh nghiệm kết quả của
con đường tu tập, mà đối tượng cũng là Niết-bàn.
Trong giai
đoạn kết quả, không có gì để ta nhổ bứng, những việc ấy đã được
hoàn
tất trong giai đoạn thứ nhất. Giai
đoạn kết quả này là lúc mà ta
kinh nghiệm
được sự
an lạc của Niết-bàn. Những ai có một
định lực kiên cố, có thể
đi vào
trạng thái kết quả Niết-bàn này bất cứ khi nào họ muốn. Họ ngồi xuống và có thể
tự ý
đi vào trong
trạng thái này, hay trụ ở đây
trong vòng nửa tiếng, một tiếng
hay một vài ngày. Trong kinh nói rằng người ta có thể trụ trong sự
an lạc của
Niết-bàn trong
thời gian tối đa là bảy ngày mỗi lần. Yên lặng, tươi mát, xả bỏ,
tự do. Một khi
ta ra khỏi
trạng thái kết quả ấy, vì tâm vẫn còn vướng víu những
sự
bất thiện khác, ta vẫn phải
tiếp tục đi theo con đường thiền quán. Cũng
giống như những gì
chúng ta đang làm bây giờ đây, sự
thực hành được
tiếp tục.
Bạn thấy được sự
sinh diệt của mọi
hiện tượng, bạn đi qua những
trạng thái khác
nhau. Bạn
kinh nghiệm được giai đoạn
tâm thức thứ hai, điều đó trừ bỏ thêm một
số điều
bất thiện trong tâm.
Có tất cả bốn giai đoạn
tâm thức, mỗi giai đoạn sẽ
lần lượt thay nhau cắt đứt
những sợi dây xích hằng
trói buộc ta vào bánh xe
sinh tử luân hồi.
Niết-bàn cao tột nhất được gọi là đại Niết-bàn (Parinirvana),
trạng thái của
một người đã
hoàn toàn giác ngộ đi đến
sau khi chết. Sẽ không còn
luân hồi,
không còn
năng lượng, không còn
ái dục để
tái sinh. Điều này cũng giống như một
ngọn lửa đang bừng bừng cháy, giờ đã
hoàn toàn bị dập tắt. Ngọn lửa thiêu đốt
đã tắt, giờ chỉ còn một
trạng thái an lạc, yên lặng, và tươi mát. Một
hạnh phúc
cao tột nhất. Đôi khi có người lại sợ đi đến Niết-bàn
sớm quá, họ muốn được xem
thêm vài cuốn phim nữa, được hưởng thêm một chút
sắc dục nữa, hay là được ở
trên
cõi trời lâu thêm một chút. Nhưng nếu bạn nhắm
mục tiêu vào
hạnh phúc cao
thượng nhất, thì mọi thứ
hạnh phúc khác
tự nhiên cũng sẽ đến.
Hỏi: Có thể nào
chúng ta đang làm người rồi
kiếp sau bị sinh làm
thú vật hay
không? Có cách nào sinh
trở lại làm người được không?
Đáp:
Sở dĩ kiếp người vô cùng quý giá là vì khi ta sinh vào một cõi thấp hơn,
sẽ rất khó để sinh
trở lại vào một kiếp cao hơn.
Vấn đề không phải là không thể
được, nhưng
thời gian sẽ rất lâu.
Đức Phật có kể một
thí dụ như sau để cho thấy
khoảng
thời gian ấy.
Giả sử có một con
rùa mù mắt sống dưới đáy một
đại dương.
Trên mặt
đại dương có một thân cây gỗ bộng nổi trôi bấp bênh đây đó. Cứ mỗi một
trăm năm, con rùa ấy nổi
lên mặt nước
một lần, nhưng cơ hội để con rùa ấy có
thể chui vào bộng cây gỗ còn nhiều hơn là cơ hội để ta có thể được
tái sinh làm
người. Đây là
lý do vì sao được sinh làm người là một điều
vô cùng quý giá,
vì
vậy ta không nên
hoang phí nó đi.
Hỏi: Tôi thấy rất khó có thể hiểu được làm cách nào ta có thể biết được những
gì xảy ra trước khi sinh và sau khi chết?
Đáp: Có hai cách để hiểu điều này. Một cách mà ta có thể dễ dàng nghĩ tới được
là
hiểu rõ tiến trình
hoạt động của các
hiện tượng trong mỗi giây phút. Sự sinh
ra và hoại đi đang xảy ra
liên tục,
tâm thức của ta đang khởi lên và diệt đi
không ngừng. Sự
hoại diệt của
tâm thức chính là cái chết. Không có một cái gì
của
tâm thức đó được đem sang giai đoạn
kế tiếp. Qua
kinh nghiệm của
trí tuệ,
bằng
thiền quán, ta có
thể đạt được một
kinh nghiệm nhất thời của
sinh tử. Điều
này sẽ giúp cho ta có được một
trực nhận về sự
sinh diệt của
tâm thức xảy ra
giống hệt như thế. Trong khi
tu tập thiền định, với một
định lực mãnh liệt ta
có thể làm phát triển một số
thần thông. Có nhiều
đạo sĩ trong các
tôn giáo
khác đã
tu luyện được những
thần thông này. Một trong những
thần thông ấy là
không những ta có khả năng nhìn thấy được những cõi khác, mà còn thấy được
những
sinh linh đang
sinh tử luân hồi. Có người có được loại
thiên nhãn này. Vị
thầy của tôi, khi bàn về
vấn đề này, thường
đi vào chi tiết,
diễn tả những
cõi
trời khác nhau, và những
thần thông mà người ta có thể làm được. Nhưng bao giờ
ông cũng
kết luận bằng câu: “Các ông không
cần phải tin tôi.
Sự thật là như vậy
đó, nhưng không ai bắt buộc các ông phải tin.” Không một
tín ngưỡng nào
cần
phải được
chấp nhận trên
con đường thiền quán để tự hiểu mình.
Trí tuệ đến bằng
một
phương pháp giản dị là
ý thức được sự vật một cách
chính xác và sâu sắc, thoát
ra khỏi mọi
thành kiến và
ý niệm sẵn có.