BA MƯƠI NGÀY THIỀN QUÁN
Joseph Goldstein
Nguyễn Duy Nhiên Việt dịch
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, Hà Nội 2008
Buổi
tối thứ hai mươi hai
Cái
chết và lòng từ bi
Hình ảnh thường được dùng để diễn tả sự tu tập thiền quán, trí tuệ là một người
đang đi trên một sợi dây treo trên không. Khi chúng ta đi trên một sợi dây treo
lơ lững giữa trời, thì điều cần phải quan tâm là sự cân bằng: luôn luôn giữ một
thái độ ung dung, quân bình. Khi ta đang đi, sẽ có nhiều sự vật bay ngang qua:
những hình ảnh, những âm thanh, tình cảm, tư tưởng và ý niệm khác nhau. Nếu ta
ưa thích, ta sẽ có khuynh hướng vói theo, cố nắm bắt, muốn giữ lại. Còn nếu
những âm thanh, hình ảnh kia là khó chịu, bực mình, ta cũng có khuynh hướng xua
đuổi, đẩy chúng đi nơi khác. Trong cả hai trường hợp, ta đều ngả mình tới, mất
đi sự quân bình và có thể rơi xuống.
Cả hai phản ứng ưa thích và ghét bỏ đều có cùng một nguy hiểm như nhau. Bất cứ
một việc gì, dù có huy hoàng hay ghê sợ đến đâu, nếu chúng khiến ta mất đi tâm
quân bình, đều sẽ làm ta ngã. Cho nên lúc nào chúng ta cũng phải tiếp tục và
tiếp tục đào luyện một tâm an nhiên, không phản ứng bằng cách nắm bắt hay xua
đuổi bất cứ một đối tượng nào. Hãy tu tập một tâm vô chấp, không dính mắc vào
đâu cả, vào bất cứ một chuyện gì, cứ để chúng tự nhiên đến rồi đi.
Sự vô chấp phát sinh từ sự hiểu biết thâm sâu về lý vô thường. Trên một bình
diện, trí tuệ này nhận thức được sự cấp bách và tính cách tất nhiên của cái
chết. Trong Chí Tôn Ca, Bhagavad Gita, có câu hỏi: “Trong mọi điều kỳ lạ trên
thế giới này, sự việc nào là kỳ lạ nhất?” Và câu trả lời là: “Tất cả mọi người,
mặc dù thấy những người chung quanh mình chết, vẫn không tin rằng có một ngày
mình cũng sẽ chết.”
Thường vì thất niệm mà ta trở nên tham lam thu thập và chiếm hữu, muốn mình trở
thành một nhân vật quan trọng. Chúng ta chấp vào các việc làm của những tâm ý
nhỏ nhen, coi những tham vọng, cái tôi của mình là quan trọng nhất. Chúng ta
đánh mất đi viễn tượng của một tâm lớn, về cái chết của mình.
Don Juan xem cái chết như một vị thầy; biết ý thức được cái chết không thể
tránh khỏi của mình với một thái độ sáng suốt và chấp nhận, mà không hề hối
tiếc, buồn lo hay sợ hãi. Quán tưởng về cái chết sẽ đem lại cho ta một sức
mạnh, giúp ta biết trân quý và sống trọn vẹn trong mỗi giây phút, mỗi hành
động.
Trong tâm thức của mỗi chúng ta đều có những khuôn mẫu, tạo nên bởi các hành
động của mình. Thường thì đa số những hành động ấy là các thói quen xấu như
giận dữ, yếm thế. Nhưng ta cũng có thể đem vào tâm một ý thức về cái chết, và
dùng nó để chiếu soi mọi sinh hoạt của mình. Nếu ta biết lấy cái chết làm thầy,
chúng ta sẽ sống mỗi giây phút thật trọn vẹn và chí tình, như là một nỗ lực
cuối cùng trong cuộc sống.
Khi ta biết giữ cái chết trong tầm tay, ta sẽ bớt đi sự đam mê và quyến luyến
những giây phút vui thú, thỏa mãn tạm thời. Và khi tâm không còn bị mê mờ vì ái
dục và ảo tưởng, ta sẽ bớt đi khuynh hướng muốn chiếm hữu và sẵn lòng san sẻ
tình thương và sự độ lượng của mình. Chánh niệm về cái chết cho ta một khoảng
không gian sáng tỏ, giúp ta hiểu được thật sự mình là ai và ai là người sẽ
chết.
Trên bình diện này, hiểu được lý vô thường có nghĩa là ý thức được những giai
đoạn chuyển tiếp, ý thức được tính cách tạm thời của mọi hiện tượng từ giây
phút này sang giây phút kế tiếp. Trong mỗi sát-na, tiến trình thân tâm và cả vũ
trụ này đang khởi lên và mất đi, sinh và diệt tiếp nối nhau không ngừng nghỉ.
Sự tu tập của ta là để đào luyện một tâm tĩnh lặng và an nhiên, không xao động
trước mọi sự thay đổi.
Phương pháp tu tập này bắt nguồn từ một yêu cầu duy nhất là: ý thức được những
gì đang xảy ra trong giờ phút hiện tại mà không phản ứng. Một thiền sư ở Ấn Độ có
dạy rằng, chúng ta chỉ cần ngồi và ý thức được rõ ràng là mình đang ngồi thì
toàn bộ giáo pháp sẽ tự nhiên hiển bày. Bạn sẽ thấy được thông suốt tự tính của
vạn vật, và khi ấy giáo pháp sẽ thật sự trở thành chính bạn.
Trong giai đoạn chuyển hóa này, nhờ ở sự quân bình và vô chấp, những đức tính
tốt đẹp và tự tại của tâm sẽ bắt đầu hiển lộ. Một trong những đức tính này là
lòng từ (metta). Lòng từ có nghĩa là lòng thương mình bằng một sự chấp nhận,
không phê phán, giữ một không gian thanh thản trong tâm; và lòng thương kẻ
khác, nhưng không vì lòng quyến luyến, muốn chiếm hữu. Đây không phải là một
thứ tình thương có điều kiện - thương người khác vì một đức tính hay đặc điểm
nào đó, và nếu họ thay đổi, tình thương của ta cũng chấm dứt. Nó không phải là
một loại tình thương “đổi chác” theo kiểu “Tôi thương bạn nếu bạn thương tôi.”
Lòng từ phát xuất do trí tuệ là một thứ tình thương vô điều kiện, một lòng đại
từ - một tình thân hữu, ấm áp đối với mọi loài ở mọi nơi. Tình thương ấy không
chỉ có giới hạn trong những người đang có liên hệ với mình. Nhưng không phải ta
đi tìm kiếm người khác vì nhu cầu, vì mong muốn, mà do sự phát tỏa tự nhiên của
một tình thương không bờ bến.
Một đức tính nữa cũng bắt đầu hiển lộ là lòng bi. Lòng bi không phải là tự
thương hại hoặc thương hại người khác, mà là thấy được sự đau khổ của mình và
cảm nhận được những khổ đau của người khác.
Trong tiếng Pali có chữ “kilesa” thường được dịch là “những gì bất thiện”, nó
cũng có một nghĩa đặc biệt là “phiền não”. Những sự giận dữ, tham lam, các tâm
bất thiện đều có thể gây ra đau khổ. Chúng ta có thể thấy rõ ảnh hưởng của
chúng đối với thân tâm mình, nếu ta biết quán chiếu khi chúng khởi sinh lên.
Một khi chúng ta hiểu sâu giáo pháp, ta sẽ cảm thấy thương xót chứ không phê
phán hay lên án những tính xấu của mình và ta sẽ thông cảm được nỗi khổ đau của
người khác khi họ rơi vào những trạng thái như vậy. Thấy được tấm màn lưới
chằng chịt của khổ đau mà tất cả chúng ta đang vướng vào, ta sẽ có lòng thương
xót đối với nhau hơn.
Một biểu lộ cao quí nhất trong những đức tính này là sự phô bày của một cái
rỗng không - vô ngã. Khi đã không còn “tôi” thì sẽ không còn “người khác”. Ý
niệm phân chia sẽ biến mất. Lúc này ta cũng sẽ kinh nghiệm được cái một, sự
đồng nhất của vạn vật.
Albert Einstein có viết: “Con người là một phần nhỏ của một cái lớn mà chúng ta
quen gọi là vũ trụ. Phần nhỏ ấy bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Con
người kinh nghiệm bản thân, tư tưởng của mình, cảm giác của mình như là những
gì riêng biệt với tất cả, đây chỉ là một loại vọng tưởng. Vọng tưởng này là một
thứ ngục tù của chúng ta, giới hạn ta vào một số tham vọng cá nhân và tình
thương đối với người quanh ta. Mục đích của ta là tự giải thoát mình ra khỏi
ngục tù này, bằng cách mở rộng lòng từ bi ra để ôm trọn mọi loài sinh linh và
toàn cõi thiên nhiên với vẻ đẹp vô cùng của nó.”
Ánh sáng của đức từ bi trong tâm ta bấy lâu nay bị tham, sân, si che phủ. Khi
chúng ta phá tan những đám mây mù này bằng sự quán chiếu của trí tuệ, thì đức
từ bi sẽ lại bắt đầu chiếu soi một cách tự tại như xưa.
Đức Phật có dạy một phương pháp tu tập để phát triển mạnh mẽ những đức tính này
trong đời sống. Pháp tu này được gọi là Metta Bhavana hay là Từ bi quán. Thực
hành phương pháp này sẽ làm cho thiền Vipassana thêm phong phú, vì tạo ra được
khoảng không gian thênh thang và sự nhẹ nhàng trong tâm. Pháp tu này củng cố
khả năng quan sát mà không phê phán và giúp ta tránh được khuynh hướng thường
tình trên đường tu tập, tránh được sự mong muốn trở thành một nhân vật nào
khác.
Trên
con đường tu tập, bạn sẽ
nhận thấy rằng
phương tiện và
mục đích chỉ là
một. Muốn
đạt đến mục đích an lạc,
chánh niệm và
tình thương, ta phải biết cách
thực hiện nó trong mỗi giây phút
hiện tại.
Thường thì nên
chúng ta thực hành Từ bi quán khoảng chừng năm hay mười phút
trước hoặc sau mỗi lần
ngồi thiền, hoặc vào cả hai thời điểm. Vào trước khi
ngồi thiền,
Từ bi quán sẽ tạo ra một khoảng
không gian cởi mở mà ta có thể
áp
dụng vào sự chú ý
đơn thuần, và vào cuối giờ thiền thì những
tư tưởng từ bi có
một
ảnh hưởng rất mạnh vì tâm ta lúc đó đã được
an định.
Phương pháp này rất giản dị. Ngồi xuống trong một tư thế
thoải mái. Trước hết,
chúng ta phải
giải thoát tâm mình ra khỏi mọi sự
căng thẳng hay thù hận, nếu
có, bằng cách xin và ban bố sự
tha thứ: “Nếu tôi đã từng làm cho ai
đau khổ hay
thương tổn bằng
tư tưởng,
lời nói hay hành động, tôi xin được
tha thứ. Và tôi
cũng
tha thứ hoàn toàn cho những ai đã từng làm tôi
đau khổ hay
tổn thương.”
Niệm thầm câu này vài ba lần trong sự tĩnh lặng là một
phương pháp hiệu quả để
gột rửa tâm khỏi những
cặn bã của
hận thù hay tức giận.
Tiếp đó,
trong khoảng một vài phút hãy
hồi hướng những
tư tưởng tốt lành đến
cho mình bằng cách niệm thầm câu này vài ba lần: “Xin cho tôi được
hạnh phúc,
xin cho tôi được
an lạc, xin cho tôi được
thoát khỏi những khổ đau.” Tập trung
vào
ý nghĩa của câu này.
Chúng ta không thể nào thật sự thương một người khác
nếu ta
không chấp nhận và thương chính mình. Những danh từ, cách dùng chữ không
quan trọng. Bạn hãy chọn câu nào có thể gây một sự
rung động trong bạn và biến
nó thành một câu
thần chú của
tình thương.
Tiếp tục thực hành, bắt đầu phóng tỏa những
tư tưởng và tình cảm này đến những
người khác: “Cũng như tôi muốn được
hạnh phúc,
cầu xin cho tất cả mọi loài được
hạnh phúc. Cũng như tôi muốn được
an lạc,
cầu xin cho mọi loài đều được
an lạc.
Cũng như tôi muốn được
thoát khỏi khổ đau,
cầu xin cho mọi loài đều được
thoát
khỏi khổ đau.” Niệm thầm câu này vài ba lần, rồi bắt đầu phóng tỏa
tư tưởng từ
bi đến những người khác. Những câu này có thể được rút gọn lại một cách nhịp
nhàng và tụng đọc
trong vòng năm hay mười phút: “Xin cho tất cả được
hạnh phúc,
an lạc và không bị khổ đau.”
Bạn cũng có thể hướng những
tư tưởng này đến một số người chọn lọc nào đó, có
thể là những người
thân yêu hay chính những người bạn đang tức giận hoặc có
hiềm thù, như là cách cởi mở ra với
lòng nhân hậu. Hãy
hình dung những người ấy
trong đầu khi bạn niệm những lời này. Và sau cùng hãy phóng
tâm từ một lần nữa
đến với mọi loài ở
mọi nơi.
Trong
thời gian đầu
phương pháp này có vẻ như hơi máy móc, nhưng khi bạn
thực
tập đều đặn,
cố gắng tập trung vào
ý nghĩa của những lời ấy, vào sự chúc lành
của bạn đến kẻ khác,
dần dần tâm từ bi sẽ phát triển và trở nên vững mạnh.
Hỏi: Xin ông
vui lòng giải thích thêm về sự
liên hệ giữa
từ bi và trí tuệ?
Đáp: Sự phát triển
tâm từ là một loại
thiền định làm cho tâm ta tập trung vào
một điểm
duy nhất là
tình thương. Nó
hoạt động trên bình diện thuộc về khái
niệm, với một khái niệm “trở thành”. Đây là một
phương pháp sử dụng khái niệm
vô cùng khéo léo, vì nó tạo nên một khoảng
không gian, nhờ đó mà
chánh niệm có
thể
hoạt động hiệu quả hơn. Nói
tóm lại, nó
sử dụng định để đem lại sự nhẹ
nhàng
thanh thản trong tâm, nhờ đó ta có thể đi sâu hơn vào bình diện
trí tuệ.
Hỏi: Ông có thể nói thêm một chút về sự
sáng tỏ được không?
Đáp: Trong những giờ
ngồi thiền, có thể bạn đã có những
kinh nghiệm là đôi khi
tâm mình rất sắc bén và
sáng suốt,
ý thức được mọi chuyện đang xảy ra trong mỗi
giây phút; và cũng có những lúc tâm bạn bị mù mờ,
lộn xộn, không
nhận diện được
sự việc một cách
rõ ràng,
mọi vật có vẻ
mơ hồ. Nó cũng giống như trong một căn
phòng tối
lờ mờ, nếu
chúng ta vặn đèn lên thì
mọi vật sẽ trở nên rõ rệt và
sáng
tỏ hơn. Khi tâm ta không có đủ ánh sáng, ta không thể nào thấy rõ sự vật, ta có
thể thấy
lờ mờ bóng dáng của chúng chứ không thấy những
chi tiết. Còn khi tâm
ta có đủ ánh sáng,
mọi vật có thể được
phân biệt rõ ràng và nhờ vậy mọi tiến
trình đều
trở thành sáng tỏ,
dễ hiểu. Ánh sáng đó chính là ánh sáng của
ý thức
và
chánh niệm.
Hỏi: Nhưng rồi ta có bị chấp vào sự
sáng tỏ đó không?
Đáp: Bạn có thể lắm chứ. Ta gọi đó là sự hư hoại của
trí tuệ. Bạn phải
ý thức
được tự thân của sự
sáng tỏ, để khỏi bị
vướng mắc hay chấp cho nó là mình. Bởi
vì sự
sáng tỏ cũng chỉ là một phần của tiến trình. Khi
chánh niệm và
định lực
mới bắt đầu phát triển, người ta thường tưởng rằng lúc này mình đã được
giác
ngộ, đã đến đích rồi, không còn
gì nữa để làm. Bởi vì
lúc ấy ta
cảm thấy thư
thái, nhẹ nhàng,
an lạc và
hạnh phúc lắm.
Lúc ấy,
vai trò của vị thầy rất quan
trọng, ông chỉ khuyên: “Hãy cứ
tiếp tục ngồi thiền.”
Hỏi: Sự
sáng tỏ ấy ở với ta qua mọi giai đoạn hay là chúng cũng chỉ đến rồi đi
như những
hiện tượng khác?
Đáp: Khi ta
tu tập tiến bộ, nó ở với ta lâu hơn, mặc dù không phải là
mãi mãi.
Nó là một
tâm hành phát triển mạnh theo sự
thực hành của mình. Bạn sẽ
trải qua
những giai đoạn
tiến bộ của sự
sáng tỏ, cho dù ở những giai đoạn này ta không
còn
cảm thấy vui thú hay
hỷ lạc nữa. Trong những
trạng thái khổ đau cũng
vẫn có
thể có sự
sáng tỏ. Bạn sẽ
trải qua những giai đoạn mà bạn
kinh nghiệm một sự
khổ đau vô bờ cũng như niềm
an lạc bất tận. Trong cả hai
trạng thái đều có một
sự
sáng tỏ.
Con đường, như Don Juan đã nói, là để
đạt đến một sự
toàn vẹn của
con người. Không phải chỉ để
kinh nghiệm một khía cạnh, nhưng là để
kinh nghiệm
niềm
hạnh phúc, nỗi khổ đau, sự
trong sáng, tất cả. Thấy được một cách
trọn vẹn
ta là ai.
Hỏi: Có phải
từ bi chỉ
ảnh hưởng tới tâm của mình mà thôi?
Đáp:
Sức mạnh của một
tâm từ khi được
trợ lực bởi sự tập trung của tâm ý thì
rất mãnh liệt. Có một
câu chuyện về
đức Phật và người em họ của ngài là
Đề-bà-đạt-đa. Ông này muốn
giết Phật để
trở thành giáo chủ của
Tăng đoàn.
Đề-bà-đạt-đa biết rằng ông không thể nào
giết Phật một cách
công khai được, nên
ông
sắp đặt để cho một con voi đã uống rượu say chạy đến chỗ
đức Phật đang đi
khất thực. Ông nghĩ rằng, hoặc là
đức Phật sẽ
sợ hãi bỏ chạy, như
vậy thì uy
tín của ngài sẽ
bị tiêu tan; hoặc nếu ngài ở lại thì sẽ bị con voi say kia dày
xéo đến chết. Khi
đức Phật đang đi
khất thực trên một
con đường nhỏ hẹp,
Đề-bà-đạt-đa thả con voi say ra. Nhưng
đức Phật không hề hoảng sợ hay bỏ chạy.
Ngài vẫn đứng
điềm nhiên với một
tâm định kiên cố, rồi ngài phóng tỏa những
tư
tưởng từ bi đến con voi say ấy. Trong kinh kể lại rằng
tâm từ của
đức Phật làm
cho con voi trở nên
an tĩnh, và nó từ từ quỳ xuống trước chân ngài.
[3]
Hỏi:
Tâm từ bi
biểu lộ ra bằng cách nào?
Đáp:
Lòng từ bi không
nhất thiết phải theo một
luật hành động
nhất định nào. Nó
chỉ có nghĩa là cố
hết sức mình để hành động bằng
tình thương, bằng
tâm từ qua
những phương thức
thích hợp với
hoàn cảnh. Điều quan trọng là không nên
tìm
kiếm một
công thức hành động
nhất định để đem
áp dụng cho mọi
hoàn cảnh, vì bạn
phải
thành thực với chính mình, với những gì mình đang cảm nghĩ. Trong giai
đoạn đầu thì cách
thực hành Từ bi quán rất máy móc.
Tâm từ là một
tâm hành, nó
không phải là một cái gì huyền bí mà ta nghĩ rằng mình có hay không có. Trên
phương diện này, nó cũng giống như là
chánh niệm,
tâm định,
trí tuệ hay là
tham, sân. Nếu ta biết trau dồi, nó sẽ phát triển, còn nếu
bỏ quên, nó sẽ héo
hon đi.
Lúc đầu thì nó không có vẻ
tự nhiên, nó đòi hỏi một
sự cố gắng, nhưng
khi luyện tập
tiến bộ ta sẽ trở nên
thuần thục và
tâm từ sẽ tự nó
phát khởi.