KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999
XIX
PHÁP HỘI
VÔ TẬN PHỤC TẠNG
THỨ HAI MƯƠI
Hán dịch: Đường, Pháp Sư Bồ đề Lưu Chí
Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Như vậy tôi nghe một lúc
đức Phật ở thành
Vương Xá tại
núi Kỳ Xà Quật cùng chúng
đại Tỳ Kheo ngàn hai trăm người câu hội, chúng này đều
thành tựu công đức thù thắng hay
sư tử hống.
Đại Bồ Tát năm trăm người, tất cả đều được môn
đà la ni biện tài vô ngại chứng
vô sanh pháp nhẫn trụ bực
bất thối đủ các
tam muội du hí thần thông khéo biết
tâm hành xu hướng của
chúng sanh,
danh hiệu của các
đại Bồ Tát ấy là :
Nhựt Tràng
Bồ Tát, Nguyệt Tràng
Bồ Tát,
Phổ Quang Bồ Tát, Nguyệt Vương
Bồ Tát, Chiếu Cao Phong
Bồ Tát, Tì
Lô Giá Na Bồ Tát,
Sư Tử Huệ
Bồ Tát,
Công Đức Bửu Quang Bồ Tát,
Nhứt Thiết Nghĩa Thành Bồ Tát,
Thành Tựu Túc Duyên Bồ Tát, Không Huệ
Bồ Tát,
Đẳng Tâm Bồ Tát, Hỉ Ái
Bồ Tát, Lạc Chúng
Bồ Tát, Chiến Thắng
Bồ Tát, Huệ Hành
Bồ Tát, Điện Đắc
Bồ Tát, Thắng Biện
Bồ Tát,
Sư Tử Hống Bồ Tát, Diệu Ngôn Âm
Bồ Tát, Năng
Cảnh Giác Bồ Tát, Xảo Chuyển Hành
Bồ Tát,
Tịch Diệt Hành
Bồ Tát,
chư đại Bồ Tát như vậy làm
thượng thủ.
Lại có
Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn,
Tứ Đại Thiên Vương,
Ta Bà Thế Giới Chủ Phạm Thiên Vương và chư
đại oai đức Trời, Rồng,
Dạ Xoa,
Càn Thát Bà,
A Tu La,
Câu La Na,
Khẩn Na La,
Ma Hầu La Già,
vô lượng đại chúng câu hội.
Bấy giờ , Điện Đắc
Bồ Tát thấy
đại chúng thanh tịnh lặng lẽ, các bực
đại long tượng đều
vân tập, liền rời chỗ ngồi trịch y vai hữu gối hữu chấm đất
chắp tay bạch
đức Phật rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Tôi có chút nghi muốn thưa hỏi, mong
đức Như Lai thương hứa cho”.
Đức Phật dạy : “Này
Thiện nam tử !
Như Lai Ứng
Đẳng Chánh Giác cho phép ông hỏi sẽ giải nói cho ông”.
Điện Đắc
Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn !
Đại Bồ Tát thành tựu pháp gì có thể làm
thỏa mãn sở dục của tất cả
chúng sanh chẳng bị
ô nhiễm bởi các
lỗi lầm,
tùy theo căn tánh của
chúng sanh dùng
phương tiện dẫn đạo khiến các
chúng sanh sau khi chết chẳng sa đọa
ác đạo,
quyết định sẽ chứng được
pháp bình đẳng, ở đời chẳng nhiễm như
hoa sen, chẳng động
pháp giới đi các
cõi Phật thường chẳng rời Phật, chẳng thấy
sắc thân, an trụ ba
giải thoát chẳng nhập vào chánh vị, tùy sở dục
chúng sanh mà
nghiêm tịnh Phật độ,
trong khoảng sát na hay chứng
Vô Thượng Bồ đề ?”.
Điện Đắc
Bồ Tát ở trước
đức Phật nói kệ bạch hỏi :
“Pháp Vương
Vô Thượng Tôn Đấng
vô biên tri kiến An trụ nơi
cộng pháp Lợi ích các
thế gian Bình đẳng xem
chúng sanh Làm chỗ dựa cho đời
Dạy các đạo
tà chánh Khiến
cứu cánh an lạc Chứa họp
thắng công đức Dường như khối
châu báu Mặt nhựt huệ
trong đời Đấng
Ứng Cúng ba cõi Mong nói
tối thượng thừa Thành tựu Bồ Tát đạo Mặt như trăng tròn sáng
Đầy đủ
xa ma tha Khai thị
pháp tịch tịnh
Hay diệt các
phiền não Xin nói
Bồ Tát hạnh Lợi ích các
chúng sanh Cõi Phật và
thọ mạng Sắc thân cùng
quyến thuộc Ba nghiệp cùng các pháp
Tất cả đều
thanh tịnh Xin
đức Như Lai dạy
Hạnh
Bồ Tát thanh tịnh Hàng phục ma thế nào
Thuyết pháp như thế nào
Thế nào chẳng quên mất
Xin thương tuyên nói cho
Thế nào người dũng tiến
Vào khắp các
sanh tử An trụ trong nhứt tướng
Với
pháp thường vô động Thế nào nơi chư Phật
Hầu gần để
cúng dường Thường quán
sắc thân Phật
Cứu cánh rời các tướng
Dầu chứng ba
giải thoát Như chim bay
không gian Chưa đủ các
công đức Trọn chẳng
nhập Niết bàn Biết các
căn tánh dục
Tùy thuận vô sở úy
Cũng chẳng sanh
nhiễm trước Thành thục các
chúng sanh Trước ban vui
thế gian Sau khiến phát
đạo tâm Đầy đủ trí
thù thắng Chứng
vô thượng Bồ đề Nghĩa
thâm diệu như vậy
Xin
đức Như Lai nói”.
Đức Phật bảo Điện Đắc
Bồ Tát rằng : “Lành thay,
lành thay,
thiện nam tử hay hỏi Phật các nghĩa như vậy làm
lợi ích an lạc vô lượng chúng sanh nhiếp thọ thế gian Trời Người
hiện tại và chư
Bồ Tát đời
vị lai. Ông nên lắng nghe khéo
suy nghĩ sẽ vì ông mà nói”.
Điện Đắc
Bồ Tát bạch rằng : “Vâng, thưa
đức Thế Tôn xin ưa muốn nghe”.
Đức Phật dạy : “Này Điện Đắc !
Đại Bồ Tát có năm thứ
phục tạng,
vô biên phục tạng, đại
phục tạng,
vô tận phục tạng, biến
vô tận phục tạng,
vô biên phục tạng.
Đầy đủ các
phục tạng ấy,
Bồ tát xa rời bần cùng hay
thành tựu các
công đức như đã nói ở trên, do ít
công lực mau được
Vô thượng Bồ đề.
Đây là năm
phục tạng : tham hành
phục tạng, sân hành
phục tạng, si hành
phục tạng, đẳng phần hành
phục tạng và
chư pháp phục tạng.
Này Điện Đắc ! Gì là
Đại Bồ Tát tham hành
phục tạng ? Đó là các
chúng sanh tương ưng với tham hành
điên đảo hệ phược đi theo các tướng nhiều thứ
phân biệt chấp trước kiên cố trong các cảnh
sắc thanh hương vị xúc pháp say ưa
hôn mê. Nơi những thứ
tâm hành ấy của
chúng sanh Bồ Tát phải biết rõ như thiệt : các
chúng sanh ấy ưa muốn những gì ? Với
cảnh giới nào họ quen nhiễm vững mạnh ? Họ đầy đủ
thành tựu những
tín giải nào ?
Thuở trước họ có trồng
thiện căn nào ? Họ sẽ được phát xu nơi thừa nào ?
Thiện căn của họ có bao lâu sẽ
thành thục ? Vì dứt tất cả
dục nhiễm của các
chúng sanh, vì khiến
thiện tâm họ thường
tương tục nên
Bồ Tát quan sát rõ chắc để
trị liệu.
Này Điện Đắc ! Căn lành
sai biệt của
chúng sanh khó biết, tất cả
Thanh Văn và
Bích Chi Phật chẳng biết được huống là
phàm phu và các
ngoại đạo.
Này Điện Đắc ! Hoặc có
chúng sanh dầu
tham trước các
dục lạc nhưng cũng có thể
thành thục Vô thượng Bồ đề.
Hoặc có
chúng sanh vừa chạm cảnh dục hoặc
từ tâm nhiễm phát ra
lời nói bèn được
thành thục vô thượng minh thoát.
Hoặc có
chúng sanh xem các sắc
đẹp lòng sanh
dục nhiễm đến lúc sắc ấy
biến hoại liền giác tri dứt
lòng dục niệm sâu
vô thường thì hay
thành thục vô thượng minh thoát.
Hoặc có
chúng sanh dầu thấy nữ nhơn chẳng sanh
tham trước sau đó nghĩ nhớ mới sanh tâm nhiễm tưởng
hình dung ấy mà sanh
ái luyến.
Hoặc có
chúng sanh chiêm bao thấy
nữ sắc vừa ý lòng sanh
tham trước nhớ tìm cầu mãi.
Hoặc có
chúng sanh nghe
âm thanh nữ nhơn bèn sanh
tham ái, có lúc tạm thấy lìa tâm
tham nhiễm bèn được
thành thục vô thượng minh thoát.
Vì thế nên
Bồ Tát ở nơi các thứ bịnh tham và các thứ thuốc tham biết rõ khéo tốt mà đối với
pháp giới không thấy hai tướng. Nơi
chúng sanh mê hoặc pháp giới ấy sanh lòng
đại bi.
Này Điện Đắc ! Hoặc
tham sân si hoặc
pháp giới trí, không có chút pháp để được.
Bồ Tát quan niệm rằng : các
chúng sanh mà tôi thấy ấy, họ ở trong
pháp giả danh
an lập hòa hiệp
vô tướng tự tánh không tịch nầy sanh lòng
tham dục sân khuể ngu si, tôi phải
quan sát đúng thiệt biết rõ rồi vì họ mà an trụ
đại bi thành mãn
sở nguyện xưa, chẳng động
pháp giới dùng trí
vô công dụng để
thành thục họ.
Nếu có đàn ông nơi nữ nhơn vọng sanh
ý tưởng trong sạch khởi
tham nhiễm nặng,
Bồ Tát liền
hiện thân nữ nhơn
xinh đẹp trang nghiêm như
thiên nữ theo họ cho
tham trước, họ đã tột
ái luyến rồi lượng
phương tiện mà họ có thể
chấp nhận để nhổ tên
độc tham dục cho họ,
Bồ Tát dùng sức tự tại lại biến thân nữ
hiện ra trước họ
thuyết pháp cho họ
thông đạt pháp giới xong rồi ẩn mất.
Nếu có nữ nhơn ở nơi đàn ông sanh lòng
ái nhiễm,
Bồ Tát vì họ mà
hiện thân đàn ông
cho đến dứt bỏ tên
độc tham dục cho họ, vì họ
thuyết pháp khiến họ
nhập pháp giới rồi ẩn mất.
Này Điện Đắc ! Các tham hành ấy có hai vạn một ngàn, cộng chung các hành kia thì có tám vạn bốn ngàn,
Bồ Tát dùng trí
vô công dụng xuất sanh
vô lượng ức ngàn
pháp môn khai tỏ
chúng sanh làm cho họ
được giải thoát, mà
Bồ Tát cũng chẳng
quan niệm tôi vì
chúng sanh mà
thuyết pháp như vậy, cũng không
quan niệm có
chúng sanh được giải thoát.
Này Điện Đắc !
Ví như Long Vương Vô Nhiệt Não do
nghiệp lực ở trong cung của
Long Vương ấy phát xuất nguồn bốn sông lớn để cho các
chúng sanh thủy lục an ở,
mùa hạ nóng bức thì làm cho
mát mẻ,
thấm nhuần hoa quả, giúp trổ
ngũ cốc, khiến các
chúng sanh an ổn khoái lạc, mà
Long Vương ấy chẳng
quan niệm nay tôi khiến nguồn nước bốn sông đã chảy sẽ chảy đương chảy, nhưng nước bốn sông thường đầy làm chỗ
cần dùng cho
chúng sanh.
Cũng vậy,
Bồ Tát thành tựu nguyện xưa dùng trí
vô công dụng vì
chúng sanh nói
bốn thánh đế diệt trừ tất cả
sanh tử nóng bức, ban vui thánh
giải thoát cho Nhơn Thiên, mà
Bồ Tát không
quan niệm nay tôi
thuyết pháp đã thuyết sẽ thuyết,
Bồ Tát nhậm vận an
trụ tâm đại bi quan sát chúng sanh tùy theo chỗ đáng được mà vì họ
thuyết pháp.
Lại này Điện Đắc !
Ví như Thiên Đế có mưòi hai
na do tha thiên nữ, do sức
tự tại Thiên Đế
hiện ra nhiều thân khiến các
thiên nữ đều được
thỏa mãn dục lạc, các
thiên nữ ấy đều tự cho rằng nay tôi riêng mình cùng Tiên Đế vui vầy, mà thiệt ra
Thiên Đế không
dục nhiễm.
Cũng vậy, đối với các
chúng sanh đáng được độ,
Bồ Tát tùy theo ý lạc của họ mà làm cho họ được
thành thục, mà thiệt ra
Bồ Tát không
nhiễm trước.
Lại này Điện Đắc !
Ví như mặt nhựt lúc mọc lên khỏi ngọn núi tỏa ánh sáng chiếu khắp
Diêm Phù Đề, chỗ ánh sáng mặt nhựt chiếu đến tất cả
hình sắc đều hiện rõ, mà mặt nhựt ấy vẫn một sắc một ánh sáng không có tướng
sai biệt.
Cũng vậy,
Bồ Tát trí huệ chiếu khắp
pháp giới phát hiện
chúng sanh chấp trước,
tùy theo ý lạc của họ mà
thuyết pháp, nhưng nơi
pháp giới không có hai tướng.
Đây gọi là
đại Bồ Tát tham hành
phục tạng.
Bồ Tát chứng nhập phục tạng này rồi hoặc một kiếp hoặc hơn một kiếp
tùy theo các loại ý lạc của tất cả
chúng sanh hiện vô lượng thân dùng các thứ
ngôn từ mà vì họ
thuyết pháp, nhưng nơi
pháp giới cũng không hai tướng.
Lại này Điện Đắc !
Ví như chơn kim do sức thợ khéo
tùy ý làm ra các thứ
anh lạc trang nghiêm hình tướng đều sai khác mà tánh chơn kim ấy không hề sai khác. Cũng vậy,
Bồ Tát khéo
quan sát pháp giới tùy theo các loại ý lạc của các
chúng sanh hiện vô lượng thân dùng các thứ
ngôn từ mà
thuyết pháp cho họ mà ở nơi
pháp giới cũng không hai tướng.
Đây là thường
nhập pháp giới nhứt tướng.
Bồ Tát được
phục tạng như vậy có thể vì
chúng sanh mà
thuyết pháp. Họ
nghe pháp rồi
giàu có đầy đủ thánh tài
vô tận dứt hẳn tất cả
sanh tử bần cùng.
Thế nào gọi là
đại Bồ Tát sân hành
phục tạng. Này Điện Đắc! Các
chúng sanh tương ưng với
kiêu mạn chấp ngã ngã sở ở trong tướng tự tha từ lâu xa
đến nay chẳng tu
từ nhẫn, giận thù
nhiệt não tự
phá hoại tâm họ, chẳng nhớ tưởng đến
Phật Pháp và Tăng,
sân độc che mờ nên họ
mê hoặc nơi
chánh pháp. Đối với các
chúng sanh nhiều
sân hận ấy chẳng hề sanh khỏi
tổn hại chỉ quan niệm rằng :
chúng sanh rất lạ, họ
ngu si mê hoặc bèn ở nơi các
pháp bổn tánh
tịch tịnh không cấu trược không hòa hiệp không vi tránh trong
pháp viễn ly mà
tương ưng với
điên đảo vọng sanh
sân hận.
Quan niệm như vậy rồi,
Bồ Tát an
trụ tâm đại bi luôn
thương xót chúng sanh, dầu cho bị họ chặt đứt
thân thể cũng an trụ
nhẫn nhục để
điều phục sân hành
chúng sanh ấy.
Nếu
vô lượng chúng sanh sân hành ấy lẫn chống
trái nhau, lòng họ giận hờn, nghiệp sân thành rồi sẽ đọa trong các loài
rắn độc ác thú.
Bồ Tát an trụ
nhẫn nhục,
dùng sức từ niệm
hóa độ chúng sanh ấy có thể làm cho họ chẳng thọ
ác báo quyết định chứng đưọc
bình đẳng.
Đây gọi là
Bồ Tát phương tiện thiện xảo diệt trừ sân hành cho
chúng sanh.
Lại này Điện Đắc ! Nếu thấy
chúng sanh sân não,
Bồ Tát quan niệm rằng : tất cả
pháp bổn tánh
thanh tịnh, các
chúng sanh ấy theo tướng mà hành vọng sanh
phân biệt, ở trong
pháp bình đẳng không vi tránh mà họ khởi lòng
sân hận, các
chúng sanh ấy chẳng rõ biết được
pháp giới tánh. Nều họ thấy được
pháp giới tánh thì họ trọn chẳng sanh giận hại nơi người khác. Vì chẳng rõ biết bổn tánh
pháp giới nên họ sanh
sân hận. Với các
chúng sanh nhiều sân ấy,
Bồ Tát sanh
lòng từ bi gấp bội, an trụ
đại bi hoàn thành nguyện xưa,
Bồ Tát dùng trí
vô công dụng khai thị
diễn thuyết nhiều
pháp môn để
phá hoại sân hành cho
chúng sanh, mà
Bồ Tát chẳng hề
quan niệm tôi vì
chúng sanh thuyết pháp trừ sân. Tại sao, vì
Bồ Tát khéo
quan sát pháp giới tướng vậy. Đây là
Bồ Tát an trụ
pháp giới vô sai biệt tướng
diệt trừ sân phiền não.
Này Điện Đắc !
Ví như chẳng trừ
đen tối mà được ánh sáng
hiện ra cũng chẳng phải không cái hay trừ
đen tối.
Đen tối và ánh sáng ấy tánh như
hư không không có sai khác. Cũng vậy,
Bồ Tát y cứ nơi trí
pháp giới vô sai biệt thiện xảo thuyết pháp dứt diệt các thứ sân hành
chúng sanh, nơi
pháp giới chẳng
quan niệm sai biệt.
Này Điện Đắc !
Ví như mặt nhựt phóng ra ánh sáng, chiếu đến đâu thì chỗ ấy đều nhiếp thuộc mặt nhựt. Cũng vậy, vì muốn
điều phục diệt trừ sân hành nên
lời nói của
Bồ Tát đều là
pháp luân mà ở nơi
pháp giới chảng
quan niệm sai biệt.
Sân hành như vậy có hai vạn một ngàn và các hành kia tám vạn bốn ngàn,
Bồ Tát thành tựu trí
vô công dụng tùy theo các thứ sân hành của
chúng sanh mà
thuyết pháp cho họ,
Bồ Tát chẳng
quan niệm tôi vì
chúng sanh hiện nay
thuyết pháp đã thuyết sẽ thuyết.
Đây gọi là
đại Bồ Tát sân hành
phục tạng.
Bồ Tát chứng được
phục tạng này rồi hoặc trong một kiếp hoặc quá một kiếp
tùy theo các thứ
ý lạc của các
chúng sanh dùng
các loại văn tự ngữ ngôn phương tiện thuyết pháp. Sân hành
biên tế ấy
bất khả đắc,
trí huệ biện tài của
Bồ Tát cũng bất khả tận.
Đây gọi là
Bồ Tát khéo nói
pháp giới vô sai biệt tướng được sân hành
phục tạng như vậy.
Thế nào là
đại Bồ Tát si hành
phục tạng ?
Này Điện Đắc!
Công hạnh như vậy của chư
Bồ Tát là sự việc rất khó. Nghĩa là các
chúng sanh là kẻ theo
phiền não hoặc hành, là kẻ
não hại người, là kẻ bị thai trứng
vô minh bao gói, là kẻ như tằm nằm trong kén tự quấn trói, là kẻ trong
pháp giới không có
phương tiện, là kẻ chẳng khéo
quan sát chỗ nên làm, là kẻ
chấp ngã kiến, là kẻ hành
tà đạo, là kẻ an trụ độn hành, là kẻ khó
xuất ly,
Bồ Tát vì các chúngsanh
mê hoặc như vậy, từ lúc
sơ phát tâm khởi đại
gia hành chẳng biết mỏi nhọc chẳng hề
giải đãi suy nghĩ rằng phải dùng những duyên những
thắng giải nào, phải
thuyết pháp thế nào để cho các
chúng sanh ấy nhập
Bồ Tát hạnh mà
được giải thoát.
Thuở trước Bồ Tát khéo
quán pháp giới dùng trí
vô công dụng an trụ
đại bi biết rõ chỗ
mê hoặc pháp giới của các
chúng sanh tùy theo sức lực kham được của họ mà
thuyết pháp đều khiến
điều phục,
Bồ Tát cũng chẳng
quan niệm tôi nay
thuyết pháp đã thuyết sẽ thuyết, do
Bồ Tát thuở xưa có sức
thệ nguyện khéo
quán duyên khởi tự nhiên diễn nói trăm ngàn
pháp môn dứt trừ
vô minh nghiệp hành cho các chúng thuyết trăm ngàn
pháp môn đều khiến họ
khai ngộ.
Đây gọi là
đại Bồ Tát si hành
phục tạng.
Bồ Tát chứng được
phục tạng này rồi khéo
quán duyên khởi, vì các
chúng sanh si hành như vậy, hoặc trong một kiếp hoặc quá một kiếp,
tùy theo tánh dục của họ, dùng
các loại văn tự ngữ ngôn thiện xảo thuyết pháp. Si hành
biên tế ấy
bất khả đắc,
trí huệ biện tài của
Bồ Tát cũng bất khả tận.
Đây gọi là
đại Bồ Tát ở nơi tất cả pháp
vô sai biệt tướng
thiện xảo tuyên nói được si hành
phục tạng như vậy.
Si hành ấy có hai vạn một ngàn và các hành khác tám vạn bốn ngàn, vì dứt trừ các hành ấy,
Bồ Tát diễn nói trăm ngàn
pháp môn. Đây gọI là
đại Bồ Tát si hành
phục tạng.
Thế nào gọi là
đại Bồ Tát đẳng phần hành phục tạng?
Này Điện Đắc!
Ví như gương soi bốn mặt
trong suốt sáng sạch không lấm bụi dơ đem treo nơi ngã tư, bao nhiêu
sắc tượng đối với gương đều hiện rõ trong ấy không tăng không giảm, gương ấy cũng chẳng nghĩ rằng tôi hay hiện rõ các thứ
sắc tượng, nhưng gương ấy được khéo mài sáng rồi thì tất cả
sắc tượng tự nhiên hiện rõ. Cũng vậy,
Bồ Tát pháp giới khéo mài sáng rồi an trụ trong
tam muội vô công dụng tùy theo tâm hành sai biệt của các
chúng sanh mà khai thị
diễn thuyết trăm ngàn
pháp môn đều khiến
tỏ rõ đều
được giải thoát, mà
Bồ Tát chẳng
quan niệm pháp tướng và
chúng sanh tướng. Tại sao, vì
Bồ Tát khéo
quán pháp giới tướng và
chúng sanh tướng, với các
chúng sanh tương ưng bốn hành ấy biết rõ như thiệt rồi
tùy theo căn tánh họ mà
thuyết pháp, nhưng ở nơi
pháp giới và
chúng sanh giới,
Bồ Tát quan sát như thiệt không có hai tướng, bao nhiêu
pháp giới và
chúng sanh giới đều thấy rõ như thiệt không hai, vì là không
sai biệt vậy.
Điện Đắc!
Ví như hư không không có các thứ tướng
sai biệt cũng
không kiến lập. Cũng vậy,
Bồ Tát khéo
quan sát pháp giới rõ thấu tất cả
pháp nhập vào nhứt tướng, cũng do sức
thệ nguyện thuở trước nên
tùy theo tâm hành của các
chúng sanh mà
nói nhiều thứ
pháp môn, mà ở nơi
pháp giới không
sai biệt.
Này Điện Đắc! Đẳng phần hành ấy có hai vạn một ngàn và các hành kia tám vạn bốn ngàn,
Bồ Tát quan sát đều
rõ ràng cả. Như
lương y biết bịnh cho thuốc,
Bồ Tát dùng trí
vô công dụng thuyết các
pháp môn. Đây gọi là
đại Bồ Tát đẳng phần hành
phục tạng.
Bồ Tát chứng được
phục tạng này rồi vì
chúng sanh hoặc một kiếp hoặc quá một kiếp,
tùy theo chí lạc của họ, dùng
các loại ngôn từ thiện xảo tuyên nói.
Biên tế các hành
bất khả đắc,
Bồ Tát trí huệ biện tài cũng bất khả tận.
Đây gọi là
đại Bồ Tát khéo nói
pháp giới vô sai biệt tướng chứng được đẳng phần hành
phục tạng như vậy.
Lại này Điện Đắc!
Đại Bồ Tát thành tựu trí như vậy rồi, nơi căn hành
ý lạc của các
chúng sanh đều khéo biết rõ. Nếu thấy
chúng sanh nhiều
tham dục, vì muốn
điều phục chữa lành bịnh tham nên
thị hiện đồng
phàm phu thọ các
dục lạc có đủ
vợ con sản nghiệp, nhưng chẳng
nhiễm trước như
hoa sen.
Có các
chúng sanh ngu si vô trí chẳng biết
Bồ Tát thiện xảo phương tiện, họ nghĩ rằng sao lại có người trí tham thọ
dục lạc chẳng khác
phàm phu, họ bảo
Bồ Tát xa rời
Bồ đề. Các
chúng sanh như vậy vì lòng họ chẳng
tịch tịnh nên sanh
sân hận lớn chẳng kính tin
Bồ Tát, do đây nên
sau khi chết họ đọa vào
đại địa ngục, lại do
đại Bồ Tát nhơn duyên mật hóa nên lúc
tội báo đã xong rồi họ
quyết định sẽ được nhập vào
bình đẳng.
Này Điện Đắc!
Ví như ngọn lửa mạnh, hễ ném vào bao nhiêu cỏ, gỗ thì đều cháy tất cả đều thành lửa. Cũng vậy,
Bồ Tát trí huệ chói rực, bao nhiêu
chúng sanh hoặc
tham sân si hoặc thiện hoặc
bất thiện,
Bồ Tát đồng hành với họ tất cả đều sáng rực đều thành
trí huệ. Đây gọi là pháp
bất cộng của
Bồ Tát.
Này Điện Đắc! Như
núi Tu Di có tướng
bất cộng, đó là bốn mặt do bốn báu làm thành, tùy các
chúng sanh có các
sắc tướng xanh vàng đỏ trắng, nếu họ qua đến phía
lưu ly của núi ấy liền đồng một mầu
lưu ly, qua đến phía chơn kim, bạch ngân và
pha lê thì đều đồng mầu với núi phía ấy. Cũng vậy,
Bồ Tát được pháp
bất cộng như vậy, tùy các
chúng sanh hoặc
tham sân si hoặc thiện hoặc
bất thiện, họ đến chỗ
Bồ Tát,
Bồ Tát đồng hành với họ đều làm cho tất cả
chứng nhập trí
Bồ Tát. Tâm họ
bất tịnh do
ác nghiệp nên hoặc họ bị đọa
địa ngục ngạ quỉ súc sanh cõi
Diêm Phù Đề, do
công đức bất cộng và sức nguyện của
Bồ Tát nên khi
tội báo xong rồi họ
quyết định sẽ đưọc
Vô thượng Bồ đề.
Này Điện Đắc! Thuở
quá khứ vô lượng vô biên vô số kiếp, nhằm đời
ngũ trược có Phật
xuất hiện hiệu Bửu Tụ
Công Đức Thanh
Như Lai Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri,
Minh Hành Túc,
Thiện Thệ,
Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhơn Sư, Phật,
Thế Tôn.
Thời kỳ ấy người
thọ mạng trăm hai mươi tuổi như
thời kỳ hiện nay. Các
chúng sanh ấy
tham dục sân hận ngu si rất nặng, họ bị
phiền não che đậy chống trái
cha mẹ anh em bằng hữu, chẳng
thuận Hòa Thượng
A Xà Lê, họ chẳng
biết ơn đức mà thường ôm lòng
độc hại gian trá cướp trộm, họ
phá hoại lẫn nhau làm sự
phi lý, họ chẳng kính tin
Phật Pháp Tăng, họ
tham lam nhỏ mọn thật
hành pháp ngạ quỉ. Trong
cõi Phật ấy, có các
chúng sanh ác như vậy khó
điều phục được.
Đức Phật ấy cũng do
nguyện lực xưa nên ở nơi
ác thế ấy thành
Vô thượng Bồ đề, lại có hai vạn hai ngàn chúng
đại Thanh Văn. Bấy giờ có
Quốc Vương tên Quảng Thọ trị nước
tự tại thống lãnh
Diêm Phù Đề,
lòng tin thanh tịnh đối với
Phật pháp. Nhà vua ấy
thỉnh Phật và
chúng Tăng hạ an cư rộng sắm đồ
cúng dường.
Bấy giờ có một
Tỳ Kheo pháp danh tên
Vô Cấu có đủ
biện tài thiện xảo thuyết pháp khai
thị chúng sanh thường chẳng mỏi chánh,
mọi người đều thích nghe.
Pháp Sư Vô Cấu khi có
thuyết pháp đều không cầu mong sắc diện
vui vẻ hỏi thăm nom trước, sắc lực đầy đủ
dung mạo đoan nghiêm, được các
chúng sanh ưa thích cúng dường cung kính tôn trọng tán thán.
Đồng thời có
Tỳ Kheo niên thiếu tân học theo
Pháp Sư Vô Cấu vào ra vương cung không bị
chướng ngại được những sự
cúng dường ẩm thực y phục ngọa cụ y dược. Trong chúng ấy có
đa số Tỳ Kheo chẳng biết
tu tập thân giới tâm huệ, chẳng kính Phật
Pháp Tăng, họ chấp thường chấp đoạn
chấp ngã hủy báng
chánh pháp khinh tháo khó
điều phục, họ chẳng nhiếp các căn mà an trụ nơi
phi pháp, họ không có hạnh
Sa Môn mà tự xưng là
Sa Môn,
thân khẩu ý nghiệp của họ đều là tịch.
Qua
thời kỳ an cư ấy,
đức Phật Bửu Tụ
Công Đức Thanh
Như Lai nhập Niết bàn.
Quốc Vương Quảng Thọ dùng gỗ xích
chiên đàn cúng dường trà tỳ rồi xây tám mươi
câu chi bửu tháp dùng gỗ xích
chiên đàn làm bao lơn, bốn mặt đều có
hoa sen vàng.
Tỳ Kheo Vô Cấu được
đức Phật ấy
thọ ký đa văn đệ nhứt. Sau khi
đức Phật ấy
nhập diệt, Ngài
hoằng tuyên chánh pháp,
du hành các thành ấp
tụ lạc giáo hóa vô lượng trăm ngàn
chúng sanh khiến được an trụ
Vô thượng Bồ đề.
Bấy giờ có số đông ác
Tỳ Kheo chẳng biết
tu hành thường ôm lòng tật đố bị
ma mê hoặc, họ đến tâu
Quốc Vương rằng :
Tỳ Kheo Vô Cấu được nhà vua kính làm thầy ra vào vương cung không bị
cấm chế ấy, nhà vua nên biết
Tỳ Kheo ấy chưa rời lìa
tham dục ăn
phi thời dùng
hương hoa trang sức thiệt chẳng phải
phạm hạnh chẳng nên
cúng dường. Vì sự việc ấy nên
chúng tôi đến
báo cáo nhà vua chớ sanh lòng tà tín trong
chánh pháp sau lúc
đức Phật nhập diệt.
Lại có ma tên Cực Ác tự biến thân làm hình
Tỳ Kheo đến tâu vua đồng
lời nói trên.
Nhiều lần nghe
báo cáo như vậy, vua Quảng Thọ nghĩ rằng
Tỳ Kheo Vô Cấu siêng tu có
trí huệ được ta
kính trọng không bao giờ có sự quấy như vậy.
Vua vừa
suy nghĩ xong, chúng ma liền hiện nửa thân trong
hư không bảo vua rằng :
Nhà vua nên học kỹ nghệ khéo rõ
cơ nghi nếu chẳng biết thì chẳng phải tướng Nhơn Vương.
A La Hán đệ tử Phật đã đủ
đại trí huệ mà vua chẳng
y lời sao vua lại theo
đoạn kiến. Các
Tỳ Kheo vì lợi ích thành thật báo cáo với vua, người ác
đoạn kiến ấy thiệt chẳng tu
phạm hạnh hiện đang ở trong cung vui vầy cùng các thể nữ, vua mau cùng thị tùng vào xem thì hết nghi.
Vua
nghe lời báo cáo trên
hư không cả kinh liền dắt thị tùng vào cung
quan sát.
Lúc ấy Tỳ Kheo Vô Cấu đang ở trong cung
diễn thuyết đệ nhứt nghĩa : các
pháp tự tánh không vô ngã ngã sở. Nhà vua và thị tùng bị
ma mê hoặc thấy các thể nữ trong cung ngồi bao quanh
Tỳ Kheo. Nhà vua
nổi giận như voi say truyền
Chiên Đà La mang
Tỳ Kheo ra trị tội vì đã làm ô uế cung của vua. Các quan và
quyến thuộc vì
ma lực nhiếp trì nên đối với
Tỳ Kheo vô tội ấy đều căm giận muốn giết hại.
Chiên Đà La cầm dao đến,
Tỳ Kheo Vô Cấu buồn khóc. Vua nạt rằng ngươi
phạm pháp phải
đền tội sao lại buồn khóc ?
Vô Cấu tâu rằng sự này khó tự
phát biểu xin chờ chốc lát tôi sẽ có
chứng minh. Vua liền ngăn
Chiên Đà La tạm dừng lại thử coi
Vô Cấu làm gì.
Bấy giờ
Tỳ Kheo Vô Cấu, người
thành tựu ý lạc thù thắng hành từ
lợi thế gian,
chắp tay phát thệ rằng : Nếu tôi không phạm sự ấy xin cõi đất
chấn động sáu cách
hư không mưa hoa đẹp. Vừa phát thệ xong, cõi đất
chấn động sáu cách
hư không mưa đầy hoa trời. Chúng ma lo buồn bỏ đi.
Nhà vua thấy
điềm lành ấy liền sanh lòng kính tin cúi lạy chưn
Vô Cấu cầu
hoan hỉ. Vua tự trách rằng tôi sẽ đọa
địa ngục xin ngài
thứ tha chở che. Sao tôi lại gặp bọn ác sanh lòng
độc hại, kẻ theo tôi đều là
ác hữu không ai giúp đỡ tôi.
Mười phương không chỗ tôi nương chỉ có
Đại Sư, tôi sẽ rời bỏ vương vị
trọn đời quy y Đại Sư.
Tỳ Kheo Vô Cấu biết chí lạc của vua và
quyến thuộc nên thuyết nghĩa
đệ nhứt. Vua Quảng Thọ
nghe pháp nghĩa
đệ nhứt ấy được
chánh tín cùng
quyến thuộc trăm ức người bỏ ngôi
xuất gia tu tập hạnh đầu đà chẳng nhận người thỉnh cúng. Trong
nội cung có tám vạn thể nữ nghe nói
đệ nhứt nghĩa đều an trụ bực
bất thối.
Vua
y theo Phật giáo suốt hai mươi bốn năm ngày đêm thường
sám hối mà
tội nghiệp còn chẳng hết. Trăm
câu chi quyến thuộc của vua trước kia có lòng ác đối với
Pháp Sư Vô Cấu nên
sau khi chết họ bị đọa
vô gián địa ngục chịu khổ nhiều ức năm, mãn tội rồi họ gặp
đức Như Lai, vì nhơn
khủng bố xưa nên bị dư báo thường
gầy yếu, họ
lần lượt tu tập cúng dường ngàn ức Phật, họ đều ở các
quốc độ khác thành
Vô thượng Bồ đề đồng một hiệu là
Công Đức Danh Xưng.
Vua Quảng Thọ vì sanh lòng
độc hại nơi
Tỳ Kheo Vô Cấu, bực
từ nhẫn, nên trong nhiều ức năm theo
ác nghiệp ấy bị đọa
địa ngục Đại Kiếu. Mãn tội được thân người gặp
đức Phổ Nhãn
Như Lai thân cận thường
cúng dường, do đây lại được
phụng thờ tám mươi ức
câu chi Phật, sau đó
thành chánh giác chính là thân ta
Thích Ca Mâu Ni Phật ngày nay. Còn ác
Tỳ Kheo kia muốn hại
Pháp Sư vô tội ấy
đương lai sẽ
thành Phật chính là
Di Lặc Bồ Tát đây.
Nội cung tám vạn thể nữ
tịnh tín trồng các
công đức vâng thờ
vô lượng Phật, ngày nay lại phát
đại nguyện lợi ích chúng sanh, họ sẽ thờ ngàn ức Phật và sẽ đều
thành chánh giác.
Nay ta bảo các ông tất cả chớ sanh lòng sân hại, người tu
từ nhẫn được
đức Phật khen tặng sẽ mau
thành tựu quả
Bồ đề.
Vì thế nên, này Điện Đắc! Nếu ở nơi
căn tánh chí lạc của các
chúng sanh chẳng khéo biết rõ thì phải tất cả
thời gian chớ sanh lòng sân hại.
Này Điện Đắc! Như trong các núi,
Tu Di sơn đệ nhứt. Cũng vậy, trong các
trí huệ,
Như Lai trí huệ tối tôn
vô thượng.
Như trong tất cả dòng nước,
đại hải là
tối thắng. Cũng vậy, trong các
trí huệ,
Như Lai trí huệ tối thâm đại.
Như trong các
Quốc Vương,
Chuyển Luân Thánh Vương tối
tôn thượng. Cũng vậy, trong các
trí huệ,
Như Lai trí vô thượng thượng.
Này Điện Đắc! Vì
thành tựu trí huệ như vậy nên tất cả
tham sân si hành,
tâm tâm chuyển biến của tất cả
chúng sanh,
đức Như Lai đều biết rõ,
trong khoảng một
đàn chỉ đều có thể
nhiếp thọ cả.
Này Điện Đắc!
Đức Như Lai thành tựu Nhứt thiết
chủng trí. Như người mắt
trong sáng tự xem năm trái
am la trong bàn tay mình chẳng dùng
công lực đều thấy không nghi. Cũng vậy,
đức Như Lai biết rõ
tâm hành của tất cả
chúng sanh, ở trong
đại chúng thuyết
các loại pháp, trong
vô lượng vô số thế giới, các
chúng sanh tương ưng với tham hành, bị
tham dục làm
nhiệt não ngày đêm
lo nghĩ bỏ luống
thời gian ta đều thấy biết rõ. Họ bị tham
nhiệt não khởi các nghiệp thân khẩu, ta đều thấy biết rõ.
Các
chúng sanh tương ưng sân hành bị
sân hận che tâm
ganh ghét lẫn nhau, do
độc hại họ bị đọa vào
vô gián địa ngục, ta đều thấy biết rõ.
Các
chúng sanh tương ưng si hành bị
vô minh che tối
mê hoặc chấp trước ưa theo
tà kiến, ta đều thấy biết rõ.
Có
chúng sanh kham nhậm,
chúng sanh không kham nhậm,
chúng sanh tăng tiến,
chúng sanh thối thất,
chúng sanh trồng căn lành nơi
Như Lai thừa,
chúng sanh trồng căn lành
Duyên Giác thừa,
chúng sanh trồng căn lành
Thanh Văn thừa, ta đều thấy biết rõ.
Thành tựu trí huệ như vậy,
đức Như Lai ở trong
đại chúng hay biết rõ
tâm hành sai biệt của
chúng sanh. Vì biết là
phi thời nên
đức Như Lai mặc nhiên bỏ để đó,
chỉ quan niệm các
chúng sanh ấy
mê hoặc nơi
chánh pháp chẳng hiểu được
đức Như Lai có đủ
căn lực thù thắng, vì khéo biết thời nên
đức Như Lai biết là người kham
điều phục, người có chí lạc
thù thắng, người hay
kham nhẫn, người
thọ lãnh thiện ngôn,
đức Như Lai đều thấy biết rõ : Biết rõ như vậy rồi, ở nơi
chúng sanh ấy,
đức Như Lai nhiếp thọ lợi ích.
Này Điện Đắc!
Bồ Tát mới tu chưa vào chánh vị, ở nơi chí lạc hành
thù thắng của các
chúng sanh không thể khéo biết rõ,
Bồ Tát ấy hoặc
tại gia hoặc
xuất gia đều chẳng nên sanh lòng ghét hại, chớ mãi tự chuốc lấy suy hại
sầu não.
Vì thế nên
Bồ Tát từ lúc mới
phát tâm phải nên đối với tất cả người an trụ
đại thừa tưởng họ là Phật. Với các
chúng sanh khác, dầu thấy họ tạo
nghiệp ác mà chẳng sanh lòng
tổn hại họ. Tại sao? Vì
đức Như Lai thường nói : nếu người nào ở nơi pháp bạch tịnh mà có chút khuyết giảm thì trọn chẳng được
nhập Niết bàn.
Nếu thấy tham hành
chúng sanh,
Bồ Tát phải
quan niệm họ bị đốt cháy bởi
tham dục nhiệt não đó là lỗi của tôi. Nếu thấy
chúng sanh bị
sân hận và
ngu si nhiệt não đốt cháy,
Bồ Tát cũng coi là lỗi của mình. Tại sao ? Vì
Bồ Tát thấy tất cả
chúng sanh bị khổ phải vì họ mà tìm thuốc
phương tiện chữa trị, trước kia ta
thệ nguyện trừ bịnh
chúng sanh mà nay lại bỏ đói là lỗi của ta.
Bồ Tát thành tựu tác ý ấy để tự xét lỗi mình, đối với
chúng sanh phát khởi từ tâm lớn, dầu có bị họ giết hại chặt chém
thân thể cũng không bao giờ có lòng báo oán.
Này Điện Đắc! Lúc chánh
tu hành như vậy,
Bồ Tát có bao nhiêu
nghiệp ác từ
quá khứ đều hết sạch chẳng còn thừa,
nghiệp ác vị lai trọn không
phát khởi.
Này Điện Đắc! Thuở
quá khứ vô lượng vô số kiếp trước đức Phật Nhiên Đăng, có
đức Phật Thắng Sanh
Như Lai,
Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri,
Minh Hành Túc,
Thiện Thệ,
Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhơn Sư, Phật,
Thế Tôn xuất hiện thế gian, cõi nước tên
Quang Minh,
đức Phật ấy ở tại khu rừng nơi vương thành
An Ổn. Bấy giờ có
Chiên Đà La tên Khả Úy hung ác ưa giết hại không
từ tâm tay vấy máu,
mọi người trông thấy đều khiếp sợ. Ngày kia
Chiên Đà La ấy cột bò trong nhà
đi vào muốn giết thịt. Bò thấy kinh sợ bứt dây chạy thẳng đến rừng của Thắng Sanh
Như Lai.
Chiên Đà La ấy cầm dao đuổi theo, bò sợ quá
sa xuống hố sâu sắp chết rống kêu khổ sở.
Chiên Đà La ấy rượt đến thấy bò sa hố càng giận thêm cầm dao xuống hố sắp sửa giết bò.
Bấy giờ đức Thắng Sanh
Như Lai ở trong rừng ấy có
vô lượng đại chúng vây quanh,
đức Phật rộng giảng dạy
pháp môn duyên khởi. Đó là
vô minh duyên hành,
hành duyên thức, thức duyên
danh sắc,
danh sắc duyên
lục nhập,
lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái,
ái duyên thủ, thủ duyên hữu,
hữu duyên sanh, sanh duyên
lão tử ưu bi khổ não,
nhơn duyên như vậy tất cả là khối thuần khổ lớn. Trong duyên ấy,
vô minh đối với hành
vô tư vô giác, nhẫn đến sanh đối với
lão tử vô tư vô giác,
lão tử đối với sanh cũng
vô tư vô giác. Các
pháp như vậy tánh nó
bất khả đắc không hành không niệm không
ngã ngã sở bổn tánh
thanh tịnh đều chẳng biết nhau. Kẻ
phàm phu chẳng
nghe pháp như vậy nên chấp sắc là ngã, ngã có các sắc, sắc thuộc nơi ngã, họ
chấp thọ tưởng hành và thức cũng vậy. Do vì
chấp trước ngã và ngã sở như vậy nên họ chấp
vô thường là thường, khổ là lạc,
bất tịnh là tịnh,
vô ngã là ngã, đó là sanh
bốn điên đảo. Vì
kiến chấp điên đảo nên họ bị
vô minh mê hoặc chẳng
chánh tư duy, theo tâm
nhiễm trước bị
ái dục trói buộc nên
sanh tử luân hồi nối nhau chẳng dứt. Người trí vì khéo quán tướng
pháp giới nên chẳng thấy có chút tướng ngã nhơn
chúng sanh thọ mạng sanh lão bịnh tử hệ phược sát hại mà có thể được.
Khả Úy
Chiên Đà La trong thời gian ấy vói nghe tiếng
thuyết pháp của
đức Như Lai liền
giác ngộ, tâm giết hại ngừng dứt, bỏ dao ra khỏi hố ra
đảnh lễ chưn
đức Phật rồi bạch rằng :
Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi muốn ở trong
Phật pháp xuất gia hành đạo. Đức Thắng Sanh
Như Lai hứa khả bảo rằng :
Thiện Lai Tỳ Kheo! Khả Úy liền thành
Sa Môn đắc giới cụ túc.
Đức Phật ấy biết
ý lạc của Khả Úy lần lần đã
thuần thục bèn rộng giảng dạy các hạnh
Bồ Tát.
Khả Úy
Sa Môn nghe pháp chứng
vô sanh nhẫn trụ bực
bất thối chuyển.
Con bò ấy được
nghe pháp cú
duyên khởi của
đức Như Lai nói,
âm thanh Phật
vi diệu, lòng nó
vui mừng sau khi chết sanh
trời Đâu Suất được thấy
Di Lặc Bồ Tát thành tựu chánh tín.
Này Điện Đắc!
Tâm hành của các
chúng sanh thậm thâm vi mật khó rõ khó biết. Vì thế nên
Bồ Tát muốn cầu
Vô thượng Bồ đề phải khéo biết căn hành của tất cả
chúng sanh. Đối với các
chúng sanh,
Bồ Tát an
trụ tâm bình đẳng, tâm
vô ngại, chẳng
nhiễm trước tất cả pháp, xả
sở hữu, trì
tịnh giới, trụ
nhẫn nhục, phát
tinh tấn, nhập
thiền định, như thiệt
quan sát tánh tất cả pháp.
Này Điện Đắc!
Bồ Tát viên mãn sáu
pháp Ba la mật như vậy mau chứng
Vô thượng Bồ Đề. Thế nào là
viên mãn ? Đó là vì
y chỉ Nhứt thiết trí mà
tu hành vậy.
Thế nào là
đại Bồ Tát pháp phục tạng ?
Này Điện Đắc!
Bồ Tát thấy tất cả sắc biết rõ như thiệt bổn lai
bất sanh tự tánh thanh tịnh. Vì ở nơi sắc được
thiện xảo nên
Bồ Tát thành tựu bốn vô ngại biện, đó là pháp
vô ngại biện,
nghĩa vô ngại biện, từ
vô ngại biện và
lạc thuyết vô ngại biện.
Pháp
vô ngại là nơi các
sắc pháp như thiệt
quan sát như thiệt biết rõ.
Nghĩa vô ngại là nơi nghĩa của các
sắc pháp không
chướng ngại. Nghĩa của sắc là gì ? Đó là nghĩa
đệ nhứt. Gì là nghĩa
đệ nhứt ? Đó là sắc
bất khả đắc.
Thành tựu trí
đệ nhứt nghĩa ấy gọi là
nghĩa vô ngại biện.
Từ
vô ngại là nơi các sắc dùng trí
vô ngại thiện xảo ngôn từ phân biệt thuyết pháp.
Lạc thuyết vô ngại là nơi các sắc theo cơ
chúng sanh mà khai thị
diễn thuyết trọn không
nhiễm trước.
Bồ Tát thành tựu trí như vậy rồi đối với khắp tất cả
chúng sanh mê hoặc chấp trước sắc pháp,
Bồ Tát tùy theo tánh dục của họ dùng trí
vô công dụng như chỗ nên mà
thuyết pháp nhưng nơi
pháp giới không có hai tướng.
Rộng nói đến thanh hương vị xúc và pháp cũng vậy.
Đây gọi là
Bồ Tát pháp phục tạng.
Bồ Tát chứng được
pháp phục tạng rồi, vì muốn
điều phục các
chúng sanh mê hoặc trong những
cảnh giới như vậy,
tùy theo ý lạc của họ nơi mỗi mỗi xứ, hoặc một kiếp hoặc quá một kiếp dùng các thứ
ngôn từ thiện xảo tuyên nói,
biên tế của các xứ cũng
bất khả đắc,
trí huệ của
Bồ Tát cũng chẳng tổn giảm, chẳng rời
pháp giới tùy thuận bất nhị, vì
vô sai biệt vậy.
Đây gọi là
Bồ Tát thiện xảo diễn nói tất cả
pháp tướng vô sai biệt được
pháp phục tạng ấy rồi, có thể vì
chúng sanh như chỗ nên mà
thuyết pháp khiến họ được
pháp tài vô tận, làm cho dứt hẳn
sanh tử nghèo cùng.
Đây gọi là
đại Bồ Tát năm thứ
phục tạng, đại
phục tạng,
vô tận phục tạng, biến
vô tận phục tạng,
vô biên phục tạng.
Bồ Tát thành tựu phục tạng như vậy vì
viên mãn công đức thù thắng nên dùng ít
công lực mau được
Vô thượng Bồ đề”.
Lúc
đức Phật nói
pháp môn phục tạng ấy, Điện Đắc
Bồ Tát được
đà la ni, năm trăm
Bồ Tát được điện
quang minh tam muội, ba vạn sáu ngàn
Thiên Tử phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Bấy giờ Nguyệt Tràng
Bồ Tát bạch rằng : “Bạch
đức Thế Tôn ! Như lời
đức Phật nói trí
vô công dụng, nghĩa ấy thế nào ?”.
Đức Phật dạy : “Này Nguyệt Tràng ! Nếu có
Bồ Tát ở trong pháp lành mà
thân tâm tương ưng duyên theo tạo tác thì gọi là
công dụng.
Nếu có
Bồ Tát thân tâm điều
như không niệm không y rời
lìa tướng tu hành, do đã
thành tựu nguyện trí thuở xưa, nơi ức thiên
cõi Phật những chỗ nên ra làm các thứ
thị hiện, mà đối với
pháp giới không hề
động chuyển, thường
diễn thuyết pháp không có chút
pháp tướng, dùng
tứ nhiếp pháp thành thục chúng sanh, cũng không có
chúng sanh được độ,
nghiêm tịnh tất cả các
Phật độ mà chẳng thấy
Phật độ bất tịnh,
thường niệm chư Phật chẳng xem
sắc tướng, đi các
cõi Phật chẳng lìa
pháp giới. Đây gọi là
Bồ Tát vô công dụng trí.
Vì
thành tựu trí
vô công dụng như vậy nên làm đầy đủ tất cả hi vọng cho các
chúng sanh, mà ở nơi chỗ làm không hề nhiễm trước”.
Lúc
đức Thế Tôn nói trí
vô công dụng ấy, cõi
Đại Thiên chấn động sáu cách.
Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn cùng
chư thiên cõi trời Đao Lợi ở trên
hư không mưa các thứ
thiên hoa :
mạn đà la,
ưu bát la,
câu vật đầu,
ba đầu ma, phân đà lợi, hương
chiên đàn, đều rải trên
đức Phật,
trống trời tự kêu, ánh sáng lớn chói khắp từ xưa chưa từng thấy.
Chúng sanh nào gặp được thì thân được
thanh lương.
Đức Thế Tôn bảo Điện Đắc
Bồ Tát : “Chư Phật
quá khứ đều tại chỗ này khai thị diễn nói
pháp môn như vậy.
Vị lai chư Phật sẽ
xuất thế cũng ở tại chỗ này diễn nói
pháp môn như vậy.
Hiện tại trong
vô lượng vô số thế giới chư Phật vì
pháp môn này chẳng
đoạn tuyệt nên phóng ánh sáng lớn”.
Bấy giờ
Trưởng Lão A Nan rời chỗ ngồi trịch y vai hữu gối hữu chấm đất
chắp tay bạch rằng: “Bạch
đức Thế Tôn ! Kinh này tên gì,
chúng tôi phải phụng trì thế nào ?”.
Đức Phật dạy : “Này
A Nan ! Kinh này tên là
Vô Tận Phục Tạng, cũng tên là Thuyết Nhứt
Thuyết Pháp Vô Sai Biệt Tướng. Ông nên phụng trì tên kinh như vậy”.
Đức Phật nói kinh này rồi, Điện Đắc
Bồ Tát,
Trưởng Lão A Nan và hành
tứ chúng cùng tất cả
thế gian Trời, Người,
A Tu La,
Càn Thát Bà v.v…,
nghe lời đức Phật dạy đều rất
vui mừng tín thọ phụng hành.
PHÁP HỘI VÔ TẬN PHỤC TẠNG
THỨ HAI MƯƠI
HẾT