BA MƯƠI NGÀY THIỀN QUÁN
Joseph Goldstein
Nguyễn Duy Nhiên Việt dịch
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, Hà Nội 2008
Buổi tối thứ hai
Bát chánh đạo
Chúng ta vừa mới bước chân vào một cuộc hành trình: cuộc hành trình đi vào thế
giới của tâm ta, một cuộc hành trình với mục đích khám phá, tìm hiểu con người
thật của chính mình. Bao giờ cũng vậy: vạn sự khởi đầu nan. Những ngày tu tập
đầu tiên sẽ đầy dẫy những cảm giác bồn chồn, buồn ngủ, chán nản, lười biếng hay
nghi ngờ, và đôi khi còn hối hận đã lỡ dại tham dự khóa tu nữa. Vào lúc sắp
hoàn tất một tác phẩm triết học của mình, Baruch Spinoza có viết: “Mọi công
trình cao quí đều hiếm hoi và khó nhọc.” Con đường tìm đạo mà chúng ta đang
bước chân vào cũng rất hiếm hoi và không dễ vượt qua. Bởi thế, chúng ta phải
biết từ tốn.
Câu chuyện trong sách Mount Analogue là một tỷ dụ thật đẹp cho cuộc hành trình
chúng ta đang đi. Chuyện kể về một nhóm người cùng nhau đi tìm một ngọn núi đặc
biệt. Chân núi nằm trên mặt đất, còn đỉnh núi tượng trưng cho mục tiêu giải
thoát cuối cùng. Lúc khởi đầu, những người thám hiểm phải đối phó với một
chướng ngại lớn lao: họ không thể nào nhìn thấy được chân núi trong những điều
kiện bình thường. Họ phải vất vả, khó nhọc lắm mới có thể xác định phương
hướng. Sau nhiều ngày đêm khổ cực tìm kiếm, cuối cùng họ tìm đến được chân núi.
Phần còn lại của quyển sách mô tả sự chuẩn bị và những khó khăn, tranh đấu, hồi
hộp trong suốt hành trình đi lên đỉnh núi.
Chúng ta cũng đang cùng chung một hành trình với họ: cố gắng leo lên ngọn núi
trí tuệ. Chúng ta đã biết được một bí mật về sự tàng ẩn của nó: Giáo pháp, chân
lý không thể tìm thấy ở bên ngoài. Nó hiện hữu ngay trong ta, chúng ta cần bắt
đầu ngay từ giờ phút này.
Con đường giải thoát đã được ghi lại bởi những người đi trước. Một phần ghi
chép rõ ràng nhất có thể tìm thấy trong kinh điển của đức Phật là Bát chánh
đạo. Bát chánh đạo có nghĩa là con đường với tám sự chân chánh dẫn đến giải
thoát. Đây là một bản đồ có thể hướng dẫn ta đến mục tiêu giác ngộ.
Sự chân chánh thứ nhất là chánh kiến. Chánh kiến có nghĩa là nhìn thấy, hiểu
biết được chân tướng của sự vật, đúng thật như chúng đang hiện hữu. Thật ra,
tuy được đề cập như điều kiện trước hết nhưng đây cũng là điều kiện phải duy
trì đến cuối con đường. Bởi vì ta phải có một sự hiểu biết tối thiểu nào đó mới
có thể bước chân vào hành trình này. Và sự hiểu biết ấy sẽ dần dần trở thành
trí tuệ, có khả năng đi sâu vào và nhận diện được chân tướng của tâm. Trong
giai đoạn đầu, chánh kiến có nghĩa là thấy được những quy luật tự nhiên đang
chi phối đời sống. Một trong những quy luật quan trọng nhất là luật nhân quả
(karma): Mỗi hành động đều sẽ dẫn đến một kết quả. Không có bất cứ sự việc gì
mà tự nhiên hay vô tình xảy đến cho ta. Mỗi khi chúng ta hành động vì tham,
sân, si, khổ đau sẽ theo đến. Còn khi chúng ta hành động với lòng từ bi hay trí
tuệ, kết quả sẽ là hạnh phúc và an lạc. Nếu chúng ta khôn khéo biết vận dụng
luật nhân quả vào cuộc sống hàng ngày của mình, ta có thể bắt đầu đào luyện một
tâm ý hoàn toàn tỉnh thức.
Đức Phật thường nhắc nhở các đệ tử của ngài về đức tính rộng lượng. Bố thí là
hành động biểu lộ một tâm ý không tham lam. Cuộc hành trình của ta gồm có sự
buông xả, không bám víu và không quyến luyến ngay cả sự xả bỏ ấy.
Chánh kiến cũng còn là biết chấp nhận mối liên hệ của ta với cha mẹ, một dạng
nghiệp báo đặc biệt. Ta phải biết nhận lãnh trách nhiệm cũng như bổn phận đối
với song thân. Cha mẹ đã bỏ công khổ cực để nuôi dưỡng ta từ khi chúng ta còn
nhỏ bé. Nhờ ơn cha mẹ mà giờ này ta có cơ hội để ngồi đây tu tập giáo lý của
đức Phật. Đức Phật dạy rằng, không có cách nào để ta có thể trả hết ơn này. Cho
dù ta có cõng cha mẹ trên hai vai trong suốt cuộc đời mình cũng vẫn chưa đủ!
Chỉ có một cách để trả ơn cha mẹ là giúp cho cha mẹ hiểu biết được giáo lý của
đức Phật và sống theo chánh kiến. Nói chung, khi chúng ta trải qua thời gian để
khôn lớn và trưởng thành, trở nên độc lập với cha mẹ về phương diện tinh thần,
điều đó tất nhiên là cũng có ý nghĩa nhất định. Nhưng trong khoảng không gian
tự do đó, ta phải luôn hiểu được trách nhiệm của mình đối với cha mẹ.
Chánh kiến cũng có nghĩa là thấy và hiểu được tánh chân thật, cái chân như của
mình. Khi sự tu tập thiền quán tiến bộ, ta sẽ càng lúc càng nhận rõ được tính
cách vô thường của mọi vật. Mọi yếu tố của tâm và thân chỉ tồn tại trong chốc
lát rồi tan biến, sinh ra rồi diệt đi một cách liên tục. Hơi thở vào rồi ra, tư
tưởng đến rồi đi, cảm giác có rồi không... Mọi hiện tượng đều luôn biến đổi,
chuyển dịch. Trong cuộc vô thường không có gì là vĩnh viễn cả. Một khi ta thật
sự hiểu được bản chất vô ngã của mọi vật, những quan niệm của ta về sự sống và
thế giới chung quanh sẽ thay đổi một cách không ngờ. Tâm ta sẽ thôi nắm bắt và
đeo đuổi, khi ta hiểu được mọi hiện tượng đều có tánh cách nhất thời, chốc lát,
thay đổi trong mỗi giây phút. Và nhất là khi ta có thể kinh nghiệm được những
diễn biến của thân và tâm khi chúng không còn bị chi phối bởi cái ngã. Với một
sự tu tập thiền quán chuyên cần và sâu sắc, chánh kiến sẽ khai mở và phát
triển.
Sự chân chánh thứ hai trong Bát chánh đạo là Chánh tư duy. Chánh tư duy có
nghĩa là suy nghĩ đúng với sự thật, có nghĩa là tư tưởng không bị chi phối bởi
những tham muốn của cảm giác, lòng xấu ác và tánh bất nhẫn. Khi tâm ta còn bị
dính mắc vào cảm giác, ta sẽ luôn đuổi theo những đối tượng bên ngoài, đi tìm
một hạnh phúc phù du, vì bản tính của mọi vật là vô thường, thay đổi. Những thú
vui đều chỉ tạm bợ, nhưng lòng ham muốn thì cứ tăng trưởng. Cái vòng luẩn quẩn
này của dục vọng khiến cho tâm ta lúc nào cũng náo động và rối loạn. Nhưng giải
thoát tâm ta khỏi những dục vọng không có nghĩa là đàn áp hay chối bỏ chúng.
Một khi ta đàn áp một sự ham muốn nào, nó sẽ chỉ biến đổi thành một tâm tánh
khác; nhưng nếu ta chấp nhận và tìm cách thỏa mãn nó, thì kết quả cũng chẳng
khá gì hơn. Chánh tư duy có nghĩa là ý thức được những ham muốn của các giác
quan và rồi buông bỏ chúng. Buông bỏ được bao nhiêu, tâm chúng ta sẽ được nhẹ
nhàng bấy nhiêu. Dần dần tâm ta sẽ bớt đi những xáo trộn, rối loạn, ta sẽ có
khả năng giải thoát mình ra khỏi ngục tù của hoàn cảnh, những trói buộc của dục
vọng.
Tư tưởng không bị chi phối bởi những tâm xấu ác có nghĩa là ta không bị cai
quản bởi sự giận dữ. Giận dữ là thứ lửa cháy trong tâm, có khả năng thiêu đốt
ta và những người chung quanh nếu ta không cẩn thận. Ta có khả năng đối trị tâm
nóng giận, nếu ta có thể ý thức được nó để rồi buông bỏ. Khi ấy tâm ta sẽ trở
nên nhẹ nhàng và thoải mái, bản chất yêu thương của tâm sẽ tự nhiên hiển lộ.
Tư tưởng không bị chi phối bởi tánh bất nhẫn có nghĩa là ta có tâm từ, có lòng
thương xót những ai đang bị đau khổ và muốn cứu giúp họ. Trong sự tu tập thiền
quán, ta nên có tâm từ đối với tất cả mọi sự sống chung quanh.
Sự chân chánh tiếp theo trong Bát chánh đạo là Chánh ngữ. Chánh ngữ dạy ta cách
tiếp xúc, liên hệ đến hoàn cảnh và những người quanh ta. Chánh ngữ là phương
thức giúp ta sống hòa hợp với thế giới chung quanh, thiết lập mối liên hệ hòa
ái giữa ta và người khác. Chánh ngữ là không nói những gì sai với sự thật,
không nói những lời gây chia rẽ và thù hận; chỉ nói những lời chân thật và có
giá trị xây dựng sự hiểu biết, hòa giải.
Sau khi đức Phật thành đạo và trở về gặp lại gia đình, nhiều người thân thuộc,
bạn bè cảm phục sự từ bi và tỉnh thức của đức Phật đã xin quy y theo ngài.
Trong số đó có Rahula (La-hầu-la), con trai của đức Phật. Lúc ấy Phật có thuyết
giảng một bài pháp tên là: “Lời khuyên cho Rahula”. Trong bài giảng này Phật
dạy Rahula đừng vì bất cứ lý do nào mà nói ra những lời không chân thật, cho dù
điều đó có đem lợi ích đến cho mình hay bất cứ ai khác. Sự trung thành với sự
thật là một điều tối quan trọng. Nó giữ cho những liên hệ của ta với thế giới
chung quanh được dễ dàng và ít phức tạp hơn. Thành thật trong lời nói sẽ dẫn
đến sự thành thật với chính mình. Trong thân và tâm của ta, có biết bao nhiêu
chuyện mà ta hằng trốn tránh: những đau đớn, bực dọc mà ta không bao giờ muốn
nhắc đến. Nhưng như vậy là ta đã không thành thật với chính mình. Chân thật
trong lời nói là căn bản cho sự chân thật trong tâm tưởng. Có thành thật với
chính mình ta mới có thể cởi mở tâm mình ra. Và nhờ đó ta mới có thể nhận diện
và đối trị với mọi trạng thái bệnh hoạn của tâm hồn.
Sự chân chánh thứ tư là Chánh nghiệp. Chánh nghiệp có nghĩa là chọn một lối
sống chân chánh: không sát sinh, không làm cho người khác bị đau khổ; không
trộm cắp, không lấy những gì không phải của mình; không tà dâm, cũng có nghĩa
là không vì những lòng ham muốn, tham dục thể xác mà làm khổ người khác.
Thường chúng ta ít khi thấy được những hậu quả lâu dài gây ra bởi hành động của
mình. Trong sách Mount Analogue có một câu chuyện nói về việc này.
Đối với những người leo núi, có một luật mà ai cũng phải
tuân theo là khi lên
đến
một độ cao nào đó, họ không được phép giết hại bất cứ
một sinh vật nào. Họ
phải
mang theo thực phẩm đầy đủ. Một hôm có một người leo lên
quá độ cao
ước
định đó, nhưng
chẳng may anh ta bị kẹt trong một trận bão tuyết. Trong ba ngày
liên tiếp, anh sống trong một căn lều tạm bợ, không
thực phẩm. Gió tuyết lạnh
làm đông cứng hết
mọi vật chung quanh. Đến ngày thứ ba cơn bão đi qua. Trong
một hang nhỏ dưới lớp tuyết, anh thấy có một con chuột già chui lên. Bụng đói
vì ba ngày không ăn, anh nghĩ không có hại gì khi giết con chuột già này để đỡ
đói. Anh ta tìm một cục đá và giết con chuột. Xong anh trở xuống núi, chẳng
nghĩ gì đến con vật mình vừa
sát hại.
Cho đến một hôm anh bị đem ra xử trước
toà, bởi những người có phận sự
bảo trì ngọn núi và những
con đường mòn chung
quanh. Anh bị xử về tội
sát hại con chuột, mà đến giờ này anh đã quên bẵng.
Dường như hành động nhỏ nhặt của anh lúc đó giờ đã gây nên một
tai họa. Con
chuột già yếu mà anh giết ngày đó, vì không
đủ sức đuổi bắt những con côn trùng
khỏe mạnh, nên nó sống bằng cách tìm ăn những côn trùng bệnh họan. Khi nó
bị
giết đi, số côn trùng
bệnh hoạn không còn được
kiểm soát nữa.
Bệnh hoạn lan
tràn sang những côn trùng khỏe mạnh khác và
dần dần cả loài bị
tiêu diệt. Những
côn trùng này từ lâu có
trách nhiệm trong việc bón phân và truyền phấn hoa đến
những nhụy cái cho các loài
thực vật mọc trên sườn núi. Khi loài côn trùng chết
đi, những
thực vật mất đi chất
nuôi dưỡng và
phương tiện truyền chủng, nên
chúng cũng tàn tạ theo. Từ bấy lâu nay, những
thực vật mọc ở hai bên sườn núi
giúp giữ cho đất đá được gắn kết
với nhau. Giờ
trơ trọi, sườn núi cũng bắt đầu
bị
thời tiết xói mòn.
Cuối cùng, một trận đất lở đã giết chết một số người leo
núi và ngăn trở
con đường đi lên. Tất cả bắt đầu từ một hành động dường như nhỏ
nhặt là giết một con chuột già yếu.
Bởi vì
chúng ta thường không có khả năng nhìn thấy những
hậu quả lâu dài của
hành động mình,
chúng ta hãy có
ý thức trong từng
việc làm, đừng
tiêu diệt sự
sống trong
thế giới chung quanh. Hãy gieo những
hạt giống của
an lạc,
từ bi và
hạnh phúc.
Sự chân chánh
kế tiếp trong
Bát chánh đạo là
Chánh mạng.
Chánh mạng có nghĩa là
chọn một phương thức sinh sống không làm
tổn hại đến người khác; những nghề
nghiệp không
liên quan đến sự
sát hại,
trộm cắp hay lường gạt kẻ khác. Thông
thường thì những nghề như buôn bán hay chế tạo vũ khí, nấu rượu, săn bắn, đánh
cá... đều làm
tổn thương đến những sinh vật khác.
Đạo pháp không phải là
ngồi yên một chỗ.
Ngồi yên là một
phương tiện hiệu quả
để
đạt đến trí tuệ, và sự
hiểu biết đó phải được
thể hiện bằng hành động
trong
đời sống của
chúng ta.
Chánh mạng là một trong những
sự thể hiện đó. “Hãy bước
đi
thiêng liêng như những người da đỏ. Hãy biến sự sống của mình thành một nghệ
thuật.” Hãy
thực hiện mọi việc với một
thái độ cẩn trọng, với một
ý niệm tỉnh
thức.
Ba sự chân chánh
kế tiếp có
liên quan đến việc
tu tập thiền quán. Quan trọng
nhất trong ba sự chân chánh này là
Chánh tinh tấn. Thiếu
sự cố gắng ta sẽ chẳng
làm được gì. Trong
Vi diệu pháp (Abhidharma) có nói: “Tinh tấn,
cố gắng là gốc
rễ của mọi
thành công, là
nền móng của sự
thành đạo.” Nếu
chúng ta muốn lên đến
đỉnh núi mà chỉ biết ngồi mơ tưởng thôi, thì dù qua ngàn năm cũng chẳng có gì
xảy ra. Bất cứ một
hành trình nào cũng là một tập hợp của những
sự cố gắng,
dụng công: nhờ bước từng bước nhỏ mà ta lên đến đỉnh núi. Ramana Maharshi, một
vị thánh của
thời đại này ở
Ấn Độ, viết: “Chưa ai có thể
thành công mà không
phải
cố gắng. Tâm
an lạc không phải là một tánh
tự nhiên ta có khi mới sinh.
Những ai
thành công đều nhờ ở đức tính nhẫn nại của mình.”
Nhưng
tinh tấn,
cố gắng phải trong một mức độ
quân bình. Bởi sự
nóng nảy hay
khẩn trương là những trở ngại lớn trên
con đường tu tập.
Năng lực phải được
quân bình với sự tỉnh lặng. Nó cũng giống như khi ta lên dây đàn. Dây đàn lên
căng quá hay chùng qua đều không thể phát ra đúng cao độ. Trong sự
tu tập cũng
thế,
chúng ta phải
tinh tấn kiên trì nhưng với một tâm
thoải mái và
quân bình,
cố gắng nhưng không
đàn áp. Trong ta có hàng ngàn
hiện tượng đang chờ
khám phá,
tâm ta có muôn từng muôn lớp để
tìm hiểu... Với sự
tinh tấn,
con đường tu tập
của ta sẽ rộng mở. Không ai có thể
cố gắng thay ta được. Không ai có thể
giác
ngộ thay ta được. Sự
giác ngộ của
đức Phật đã
giải quyết vấn đề cho ngài, chứ
không giải quyết
vấn đề cho ta... Có chăng chỉ là chỉ ra cho ta một lối thoát,
nhưng mỗi người
chúng ta phải tự thắp đuốc lên mà đi!
Chánh niệm là sự chân chánh thứ bảy trên
con đường Bát chánh.
Chánh niệm có
nghĩa là
ý thức được những gì đang xảy ra trong giờ phút
hiện tại. Tôi muốn nói
sự chú ý đến những sự thay đổi,
biến chuyển của mọi
hiện tượng: khi đi,
ý thức
được những
cử động của cơ thể; khi quán xét
hơi thở,
ý thức được
cảm giác ra
vào hay lên xuống;
ý thức được sự có mặt của từng
tư tưởng hay
cảm giác. Như
một
thiền sư có nói: “Khi bạn đi, đi. Khi bạn chạy, chạy. Điều trên hết là đừng
có
do dự.” Bất cứ đối tượng là gì, bạn hãy
ý thức nó, nhưng đừng cố nắm bắt vì
đó là tâm tham, đừng
xua đuổi vì đó là tâm sân, và cũng đừng lãng quên vì đó là
tâm si. Hãy
quan sát những
biến chuyển cùng
diễn tiến của đối tượng. Một khi
chánh niệm được phát triển đúng mức, tất cả sẽ trở nên nhịp nhàng và mỗi ngày
trở thành một điệu vũ.
Chánh niệm đem lại cho tâm ta một sự thăng bằng và
an
tĩnh. Nó có khả năng giữ cho tâm ta được sắc bén, để ta có thể ngồi lại mà
quan
sát,
theo dõi những
hiện tượng xảy ra chung quanh như một vở tuồng.
Sự chân chánh được kể ra
cuối cùng là
Chánh định.
Chánh định có nghĩa là có khả
năng tập
trung tâm ý, giữ cho tâm mình gắn với một đối tượng
duy nhất. Những
ngày đầu
tu tập, bạn sẽ
cảm thấy khó khăn vì chưa có nhiều
định lực. Khi leo
núi,
chúng ta phải có một
sức khỏe cần thiết.
Nếu không đủ sức khỏe, lúc
ban
đầu ta sẽ dễ mệt và khó chịu. Nhưng
dần dần khi cơ thể quen đi, ta
cảm thấy
khỏe khoắn và việc leo núi sẽ trở nên dễ dàng hơn. Sự
tu tập thiền quán của ta
cũng thế. Khi
định lực phát triển, ta sẽ có khả năng sống trong
hiện tại dễ
dàng hơn. Những khó khăn
ban đầu sẽ không còn là một trở ngại nữa.
Nếu bạn đặt một nồi nước lên bếp lò, rồi cứ vài phút lại mở nắp ra, chờ cho
nước sôi sẽ lâu lắm. Nhưng nếu bạn
để yên đừng mở nắp thì nước sẽ chóng sôi
hơn.
Các khóa
tu thiền là những
cơ hội quý báu giúp cho ta phát triển
định lực và
chánh niệm. Với sự
tu tập liên tục, mỗi giây phút được
xây dựng bằng
công phu
của giây phút trước đó, trong một
thời gian ngắn tâm ta sẽ trở nên sắc bén và
có khả năng soi thấu được
chân tướng của sự vật.
Hành trình của
chúng ta bao gồm việc sống
hòa hợp với
thế giới chung quanh và
tìm hiểu chính mình. Trong Mount Analogue có
lời khuyên sau đây cho những ai
đang đi trên
con đường tỉnh thức: “Hãy giữ ánh mắt của mình trên
con đường đi
lên. Nhưng nhớ đừng quên nhìn những gì ngay
trước mặt. Bước
cuối cùng phụ thuộc
vào
bước đầu tiên. Đừng nghĩ rằng bạn đã đến nơi chỉ vì bạn đã nhìn thấy đỉnh
núi cao. Hãy
cẩn thận nơi bạn sẽ đặt chân.
Bước tới cho
vững vàng. Nhưng đừng
vì vậy mà
xao lãng mục tiêu cuối cùng.
Bước đầu tiên phụ thuộc vào bước
cuối
cùng.”
Sống
vững vàng trong
hiện tại, phát triển
chánh niệm trong từng giây phút và
vững tin nơi khả năng
tự do của sự
tỉnh thức.
Sau đây là một số thắc mắc nảy sinh trong quá trình
tu tập:
Hỏi: Tôi có
cảm giác rằng
hơi thở vào lúc nào cũng mạnh hơn, điều này làm
xáo
trộn sự tập trung của tôi. Tôi phải làm gì?
Đáp:
Hơi thở là một
đề mục rất hay và quan trọng trong
thiền quán, vì
hơi thở
có rất nhiều
trạng thái và cường độ mạnh nhẹ khác nhau. Có khi nó mạnh và nặng
nề, có khi nó
thoải mái và nhẹ nhàng.
Hơi thở có thể thay đổi giữa khi ta
thở
vào và
thở ra, hay là sau một
thời gian ngắn. Cũng có những lúc
hơi thở nhẹ đến
nỗi ta không
cảm thấy gì hết.
Hơi thở là một
đề mục vô giá trong
thiền quán:
bởi vì một khi
hơi thở trở nên nhẹ nhàng, ta có thể dùng nó để đem tâm mình
an
tịnh xuống cùng một mức độ với
hơi thở. Khi bạn thấy
hơi thở càng lúc càng trở
nên thanh nhẹ, lắng tâm xuống thật yên để có thể
nhận diện được nó. Nó đòi hỏi
một
sự cố gắng - để không làm gì hết, chỉ yên lặng.
Hỏi: Làm cách nào để biết một người đã giác ngộ?
Đáp: Một người
giác ngộ hay
tỉnh thức không để lại một dấu vết nào hết. Làm sao
ta có thể đo lường được một tâm
tự tại bằng những
giác quan giới hạn của mình?
Điều đó vượt ra ngoài sự
suy luận. Cũng giống như ta đi tìm một
ánh lửa đã tắt.
Bạn
tìm kiếm ở đâu bây giờ? Bạn không thể nghĩ
giác ngộ,
tỉnh thức như là một
cái gì có thể đụng chạm hay sờ mó được. Người
tỉnh thức không có một dấu hiệu
đặc biệt nào trên trán họ hết, nhưng bạn
vẫn có thể cảm nhận được họ qua những
đức tính
thương yêu,
hiểu biết mà họ có.
Hỏi: Về sự
liên hệ với
cha mẹ và
trách nhiệm hướng dẫn
cha mẹ vào
đạo pháp.
Cha
mẹ tôi thắc mắc tại sao tôi lại đi dự nhiều khóa thiền như thế này, tôi
cố gắng
giải thích nhưng hình
như không có cách nào làm cho họ hiểu được!
Đáp: Có rất nhiều cách để người ta
thông cảm nhau - mà thường thì
lời nói lại
là một
phương tiện kém hữu hiệu nhất. Nếu bạn sống với
cha mẹ hay bất cứ ai mà
giữ được sự
an lạc, tĩnh lặng, không phê phán, biết
chấp nhận,
thương yêu và tử
tế, tôi nghĩ bạn sẽ không
cần phải nói một lời nào.
Con người an lạc của bạn tự
nó có khả năng tạo nên một khoảng
không gian tươi mát. Điều này đòi hỏi
thời
gian tu tập. Người ta bao giờ cũng có
thành kiến với những gì không hợp với
quan niệm của mình. Khi nào bạn nói ra những điều có vẻ khác thường, mới lạ, họ
sẽ trở nên
bảo thủ. Thế nên ta đừng bao giờ chấp vào
hình thức quá. Hãy sống
tự
nhiên,
đạo pháp sẽ
hiển bày. Tâm tĩnh lặng sẽ
ảnh hưởng đến
thế giới chung
quanh. Điều đó đòi hỏi
thời gian, sự
kiên nhẫn và thật nhiều
tình thương.
Hỏi: Trong khi
ngồi thiền, tôi thường thấy mình hay tưởng tượng
hơi thở là một
luồng nước, chảy
tới lui trong một đường hầm. Những
hình ảnh như thế có hại cho
chánh niệm không?
Đáp: Có. Cốt tủy của pháp
tu thiền quán này là trực tiếp
kinh nghiệm chứ không
phải tưởng tượng.
Hình ảnh hóa
hơi thở của mình là tạo nên một khái niệm. Khái
niệm không phải là
sự thật, nó chỉ là
bóng dáng của
sự thật. Điều cần nhớ là
kinh nghiệm những
cảm giác của
hơi thở, chứ không phải tạo nên một
ý niệm về
hơi thở.
Hỏi: Việc tôn thờ
Thượng đế áp dụng vào sự
tu tập này bằng cách nào?
Đáp:
Tùy theo định nghĩa của bạn về
Thượng đế. Mỗi người có một câu
trả lời
khác nhau. Ta có thể nói
Thượng đế là
chân lý tối cao, là
đạo pháp,
chân như
của
vạn vật. Hiểu như vậy, thì tôn thờ
Thượng đế có nghĩa là sống trong
chân
lý, sống đúng với
giáo pháp, để cho
giáo pháp tự nhiên phô bày.