Sn 4.5 - PARAMAṬṬHAKA SUTTA
KINH VỀ TỐI THƯỢNG
Kinh này nói rằng những ai tự cho mình đã có được tầm cao nhất của cái nhìn (một tri kiến, một quan kiến, một lập trường, một giải thích [về vũ trụ và con người…]) và cho là thấp kém tất cả các quan kiến khác – người đó còn rơi vào tranh cãi, còn thấy có “tôi” (ngã) và “của tôi” (ngã sở), còn nắm giữ những gì được thấy nghe hay biết.
Người trí sẽ không còn giữ kiến nào về thế giới này, do vậy không vin vào kiến thức, không vin vào giới cấm và không vin vào nghi lễ tôn giáo, xa lìa ngã và ngã sở và cũng không tự thấy mình cao thượng hơn hay thấp kém hơn ai, và cũng không thấy mình ngang hàng với ai. Người trí buông bỏ hết tất cả, với tâm vô sở trụ buông bỏ cả kiến thức (vì kiến thức là cái hôm qua đã học, không phải cái hiện tiền sinh động từng khoảnh khắc), không còn dính gì tới có/không, không dính gì thế giới này hay thế giới sau, không dàn dựng giáo thuyết nào và giới cấm nào. Người này là bậc Như Thị (is one who is Thus).
Kinh này nói y hệt như Bát Nhã. Ngôn phong kinh cũng y hệt như các vị sư trong Thiền Tông (kiểu: gặp Phật thì hãy giết Phật, gặp ma thì hãy giết ma).
Trong bài Kệ 802, có lời dạy Vô Niệm y hệt như lời Lục Tổ Huệ Năng.
Hai dòng đầu bài Kệ 802, bản Anh dịch của Gil Fronsdal viết: Here, one does not conceive the slightest concept/ In regard to what is seen, heard, or thought (Nơi đây, người đó [trong tâm] không khởi lên một khái niệm nhỏ nào/ đối với những cái được thấy, nghe, tư lường).
Bản Anh dịch của Bhikkhu Bodhi viết: Not even a subtle notion is formulated by him/ about what is seen, heard, or sensed here (Không có ngay cả một niệm vi tế nào hình thành [trong tâm] người đó/ về những cái được thấy, nghe, nhận biết).
Bản Việt dịch của HT Thích Minh Châu viết:
802. Đối vị ấy ở đây,
Những gì được thấy nghe,
Được cảm thọ tưởng đến,
Chút suy tưởng cũng không...
Riêng bài Kệ 803 trong kinh Sn 4.5, bản Anh dịch của sư Bhante Varado viết rằng người trí cũng buông bỏ cả lời Đức Phật dạy, trích:
He does not concoct religious teachings,
Nor does he blindly follow them.
He does not hold on even to the Buddha’s teachings.
Dịch:
Người đó không dựng lập lời dạy tôn giáo nào
Cũng không mù quáng theo chúng
Người đó cũng không bám giữ lời dạy của Đức Phật.
Chỗ này cần suy nghĩ: tại sao Đức Phật nói là chớ nên giữ gìn cái nhìn (view, quan kiến, lập trường) nào, kể cả giới luật và lời dạy Đức Phật? Thứ nhất, nên tự nhắc là, trong khi chưa qua sông, chớ nên rời bỏ bè pháp. Thứ nhì, nếu lời dạy (về giới luật, về kinh điển) của Đức Phật chỉ còn là ký ức của những cái hôm qua để chúng ta phải giữ gìn, có nghĩa là tức khắc chúng ta mất cái hiện tiền của hôm nay và do vậy [người sống với hiện tại] nên rời bỏ ký ức hôm qua đó. Thái độ này được Thiền sư Pháp Loa (1284 - 1330), tức vị Tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm tại Việt Nam, nói rằng phải sống với tâm thức làm sao để mỗi lần nói lên đều mỗi lần mới, kể cả khi nhắc lại lời kinh, ý tổ. Muốn lìa “cái tâm hôm qua” có nghĩa là, như ngài Pháp Loa dạy, phải sống với một vị “Phật vốn tâm không.” Nghĩa là, buông bỏ hết cả thân tâm, và do vậy khi cầm tới bất kỳ pháp nào, tất cả đều trở thành mới tinh khôi. Nghĩa là, Thiền tập chính là người sống với sơ tâm (beginner's mind) – như lời dạy của Thiền sư Đạo Nguyên (1200-1253, Nhật Bản). Sơ tâm như thế, ngồi thiền, tụng kinh và giữ giới mới thực là sống cái hiện tiền.
Tóm lược ý kinh: Buông tất cả, kể cả tâm buông bỏ. Tâm vô niệm trong mọi thời thấy nghe hay biết. Sống với Như Thị [của cái hiện tiền].
Kinh này gồm các bài kệ từ 796 tới 803.
796
Nếu có ai chọn một cái nhìn [quan kiến, quan điểm] nào,
cho rằng cái nhìn đó là tối thượng trên thế giới
và nói rằng tất cả cái nhìn khác là thấp kém –
như thế, người đó chưa thoát khỏi tranh cãi.
797
Trong bất cứ những gì người đó thấy lợi ích
trong cái được thấy, được nghe, được nhận biết
hay trong giới luật và nghi lễ tôn giáo
và do vậy người đó nắm giữ cái nhìn đó
rồi thấy tất cả các cái nhìn khác là thấp kém.
798
Người trí gọi như thế là bị trói buộc khi dựa vào cái nhìn này và xem các cái nhìn khác là thấp kém
do vậy, một tu sĩ không nên dựa vào những gì thấy nghe hay biết
cũng không dựa vào giới luật và nghi lễ tôn giáo.
799
Và do vậy người đó không giữ cái nhìn nào trong thế giới này
[mà cái nhìn đó] dựa vào kiến thức, giới luật, nghi lễ tôn giáo
cũng không tự thấy mình cao hơn hay thấp hơn
hay ngang bằng với bất kỳ ai.
800
Rời tất cả các lập trường, không nắm giữ gì hết
không dựa vào kiến thức
không về phe nào trong các tranh cãi, chia rẽ
cũng không lui về giữ bất kỳ cái nhìn nào.
801
Người trí không nghiêng về bất kỳ phía nào
dù về hữu hay phi hữu (có/không), dù cõi này hay cõi sau
Không có gì để nắm giữ, bấu víu trong
tất cả các giáo thuyết người này đã học và suy tính
802
Trong những cái được thấy, nghe, nhận biết
chớ để một niệm vi tế nào khởi trong tâm
Với người không nắm giữ một kiến nào như thế
làm sao có ai trong thế giới này xếp loại được vị đó.
803
Vị đó không dựng lập, thiên về,
không nắm giữ giáo thuyết nào
không bị dẫn dắt bởi giới luật hay nghi lễ tôn giáo
Sống với Như Thị [is Thus] vị đó qua bờ, không lùi lại.
Hết Kinh Sn 4.5