Sn 4.14 – Tuvataka Sutta Kinh Lối Đi Nhanh Chóng

28/10/201810:04 SA(Xem: 3065)
Sn 4.14 – Tuvataka Sutta Kinh Lối Đi Nhanh Chóng
NGUYÊN GIÁC
Dịch Việt & Chú Giải
KINH NHẬT TỤNG SƠ THỜI
Nhà xuất bản Ananda Viet Foundation

 

Sn 4.14 – TUVATAKA SUTTA

KINH LỐI ĐI NHANH CHÓNG

 

 

Pháp tu nào nhanh chóng để giải thoát?

Kinh này cho thấy pháp tham thoại đầu của Thiền Tông Trung Hoa có lẽ khởi nguồn từ đây, vì các bài kệ 916 tới 919 cho thấy y hệt như lời Hư Vân Hòa Thượng dạy cách tham câu “Niệm Phật là ai?” Pháp tham thoại đầu theo ngài Hư Vân là, học nhân khởi lên một câu niệm Phật, rồi nhìn vào tâm mình, luôn luôn tỉnh thức, xem gốc rễ ai vừa mới niệm Phật đó, tới một lúc thấu suốt gốc rễ niệm khởi đó là vốn thực không có gì gọi là ngã (tức là: thực tướng vô tướng).

Kinh Sn 4.14 dạy phải gỡ bỏ ý niệm “Tôi là người suy nghĩ.” Nghĩa là, luôn luôn tỉnh thức nhìn thấy không hề có ai đang suy nghĩ (chỉ có cái được thấy, chỉ có cái được nghe, chỉ có cái được suy nghĩ – nhưng không hề có ai đang suy nghĩ tư lường).

Tóm tắt cách tham thoại đầu (theo Thiền Tông) qua lời Đức Phật dạy ở kinh Sn 4.14 là:

Nhìn kỹ và xóa tận gốc rễ ý niệm “Tôi là người suy nghĩ.” Luôn luôn tỉnh thức gỡ bỏ bất cứ tham nào có thể có trong đó. 

Bản dịch Khantipalo Mills (thơ trong bài kệ 916 viết theo dạng văn xuôi):

Buddha: One should completely extract the root of proliferation and reckoning—the notion, “I am the thinker”. One should train to dispel whatever craving there is inside, ever mindful.

Bản dịch Fronsdal:

Let them completely destroy the root of conceptual differentiation, that is, [the idea] ‘I am the thinker.’ Ever mindful, they train to subdue their cravings.

Bản dịch Thanissaro:

He should put an entire stop to the root of objectification-classifications: 'I am the thinker.' He should train, always mindful, to subdue any craving inside him.

Bản dịch Bodhi:

By reflection, he should stop [the conceit] 'I am,' the entire root of concepts due to proliferation,” [the Blessed One said]. “Whatever cravings there may be internally, he should always train mindfully for their removal.”

Bản dịch Varado:

A sage should put a complete end to the root of mental obsession: The notion ‘I am’. Ever attentive, he should train himself To abolish whatever wishes he finds within.

Một điểm cho thấy chữ Thấy Tánh trong Thiền Tông có gốc rễ từ lời Đức Phật dạy trong nhiều kinh ở Kinh Tập, cụ thể như ở Kinh Sn 4.14 và Kinh Sn 4.15 là, Thấy Pháp – các bản Anh dịch là: saw the Dhamma (dịch như Bodhi), Eyewitness to the Dharma (dịch như Fronsdal), witnessed the Dhamma (dịch như Thanissaro), Seeing the Dhamma with his own eyes (dịch như Khantipalo), realised Truth through his own insight (dịch như Varado).

Một số điểm tương tự khác, độc giả có thể đối chiếu Thiền Tông với nhiều lời dạy trong Kinh Tập Phẩm Tám, thí dụ, không dựa vào văn tự, giới cấmnghi lễ tôn giáo.

Trong Kinh Sn 4.14, Đức Phật dạy pháp tu nhanh chóng, nói rằng phải tịch lặng trong tâm (thiền định, nhưng không nói cụ thể về tứ thiền), nói rằng phải tỉnh thức để thấy không hề có “cái tôi đang suy nghĩ” (tỉnh thức thấy vô ngã, nhưng không nói cụ thể về tứ niệm xứ). Kinh này cũng cho thấy Đức Phật nói lên nhu cầu quân bình của chỉ (tịch lặng) và quán (tỉnh thức).

Phải gỡ bỏ tham ái. Chớ nghĩ là có cái ngã nào để mình nói là giỏi hơn, kém hơn, hay ngang bằng người khác. Khi tâm tịch lặng, sẽ thấy không có gì để nắm giữ, cũng không có gì để xa lìa. Hãy cư trú nơi vắng lặng, để chỉ ngồi thiềnnằm ngủ. Hãy xa lìa dục lạc. Không đoán mộng, giải điềm, mua bán... Không kiêu căng, không tranh cãi, không nói lời tổn thương.

Tóm lược ý kinh: Hãy luôn tịch lặng, luôn tỉnh thức thấy vô ngã.

Kinh này gồm các bài kệ từ 915 tới 934.

 

915

(Câu hỏi):

Tôi  hỏi ngài, người Vầng Thái Dương, vị đại đạo sư

về việc ẩn tu và về trạng thái bình an.

Nhìn thấy gì để một tu sĩ đạt Niết Bàn

để không còn dính mắc gì tới thế giới này?

 

916

(Đức Phật):

Tu sĩ đó phải hủy tận gốc rễ của

những khái niệm suy nghĩ tư lường

khởi dậy từ ý “Tôi là người suy nghĩ.” 

Vị đó phải luôn luôn tỉnh thức gỡ bỏ bất cứ

những tham đắm nào có thể có trong tâm.

 

917

Với bất cứ những [nguyên lý] gì vị đó có thể biết

dù là trong hay ngoài [tâm], cũng

chớ nên chấp chặt vào đó vì

người trí nói rằng như thế là chưa tịch lặng.

 

918

Do vậy, ngươi chớ nên nghĩ rằng ngươi giỏi hơn,

kém hơn, hay ngang bằng [người khác]

Dù xúc khởi lên nhiều cách trong cõi này

chớ nên nghĩ là có cái ngã nào để so giỏi với dở. 

 

919

Hoàn toàn tịch lặng tự trong tâm,

một tu sĩ không tìm bình an từ nơi khác.

Với người đã tịch lặng trong tâm, sẽ thấy

không có gì để nắm giữ, và không có gì để xa lìa.

 

920

Y hệt như giữa đại dương

tất cả là tịch lặng, không có gợn sóng

Tu sĩ cũng thế: tịch lặng, bất động

chớ hề bao giờ khởi lên chút kiêu hãnh.

 

921

(Câu hỏi)

Ngài là bậc đã mở tuệ nhãn, ngài là

Người Chứng Của Pháp, đã xóa bờ hiểm nguy

Xin ngài dạy cho tôi về pháp thực hành

về giới luật phải giữ, và về thiền tập.

 

922

(Đức Phật)

Chớ để mắt ngó linh tinh

chớ để tai nghe chuyện tầm phào

chớ khởi tâm thèm muốn ăn ngon

và chớ nghĩ về bất cứ gì trong thế giới là “của tôi.”

 

923

Khi chạm xúc [gặp chuyện sầu muộn]

người tu chớ nên thấy gì để thở than

cũng chớ nên muốn cảnh tái sinh nào

cũng đừng run sợ trước cảnh kinh hoàng.

 

924

Người tu chớ nên lưu trữ những gì nhận được

dù là thức ăn, thức uống, trang phục

cũng chớ lo ngại

khi không nhận được gì.

 

925

Hãy thiền định, chớ đi lại nhiều

Hãy tinh tấn, chớ nuối tiếc gì

Tu sĩ hãy tìm cư trú nơi vắng lặng

để luân chuyển ngồi thiềnnằm ngủ.

 

926

Đừng nên ngủ nhiều

Hãy nồng nhiệt, chuyên tâm trong tỉnh thức

Chớ lười biếng, giả hình, cười cợt, cờ bạc

chớ tình dục, chớ hình thức cá nhân.

 

927

Môn đệ của ta sẽ không ếm bùa chú

không giải mộng, không chiêm tinh

không đoán lành dữ từ tiếng thú kêu

không làm phép chữa bệnh, hay trị vô sinh.

 

928

Vị tu sĩ không bứt rứt khi bị chê

không hể hả khi được khen

Phải lìa tâm tham, tâm keo kiệt

lìa tâm sân, không nói lời tổn thương

 

929

Người tu sĩ không mua bán

không làm gì để bị chỉ trích

không la cà thân cận trong xóm cư dân

không nói lời chiêu dụ để kiếm chác.

 

930

Bậc tu sĩ sẽ không khoe khoang

không nói lời với ám chỉ xấu

không khởi chút nào tâm kiêu căng

không nói ra lời tranh cãi nào.

 

931

Không nói trả đũa dù lời sai trái

cũng không cố ý nói lời lừa dối ai.

Không xem thường bất kỳ ai vì dị biệt về

nếp sống, giới luật, hành trì, trí tuệ.

 

932

Ngay cả khi bị nhiều lời tấn công

lời chê bai từ giới ẩn sĩ hay đời thường

cũng đừng trả lời gay gắt bởi vì

người tịch lặng không thấy gì để trả đũa.

 

933

(Người hỏi đạo):

Hiểu được hoàn toàn nguyên tắc này

một tu sĩ sẽ luôn luôn giữ tâm tỉnh thức

biết rằng giải thoátbình an tịch lặng

một tu sĩ sẽ không xa lời dạy của ngài Gotama.

 

934

Vì ngài là bậc tối thắng, là kẻ đã chiến thắng

ngài đã thấy Pháp tận mắt, không phải nghe đồn

người tu sĩ hãy luôn luôn tôn kính,

hãy nhiệt tâm tu theo lời dạy của Thế Tôn.

 

Hết Kinh Sn 4.14

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
10/08/2011(Xem: 44828)
18/04/2016(Xem: 25173)
02/04/2016(Xem: 9706)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.