2. Những Hệ Lụy của Lối Sống Phàm Phu

18/07/20164:05 CH(Xem: 13160)
2. Những Hệ Lụy của Lối Sống Phàm Phu

VIỆN  NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM
HỢP  TUYỂN LỜI   PHẬT   DẠY
TỪ  KINH TẠNG  PALI 

In The Buddha’s Words
An Anthology of Discourses from the Pali Canon

By
BHIKKHU  BODHI
Wisdom Publications – 2005
Việt dịch : Nguyên Nhật Trần Như Mai
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG  ĐỨC 2015

 

I.   THÂN  PHẬN  CON  NGƯỜI

 

2 . NHỮNG  HỆ  LỤY  CỦA   LỐI   SỐNG  PHÀM  PHU

          (1) Mũi Tên  Cảm Thọ Đau Khổ

          “ - Này các Tỷ- kheo, khi kẻ vô văn phàm phu cảm nhận một cảm thọ đau khổ, người ấy  phiền muộn, ưu sầu, than vãn, khóc lóc, đấm ngực và đi đến bất tỉnh. Người ấy cảm nhận hai  cảm thọ – một cảm thọ về thân và một cảm thọ về tâm. Giả sử có một  người bị người khác bắn một mũi tên, rồi ngay sau đó người này bị bắn một mũi tên thứ hai, như thế người này cảm nhận một cảm thọ với cả hai mũi tên.  Cũng vậy, khi một kẻ vô văn phàm phu cảm nhận một cảm thọ đau khổ, người ấy cảm nhận hai cảm thọ - một cảm thọ về thân và một cảm thọ về tâm.

          “ Khi cảm nhận khổ thọ, người ấy mang lòng sân hận đối với cảm thọ này. Khi người ấy mang lòng sân hận đối với khổ thọ, khuynh hướng sân hận  tiềm ẩn bên dưới cảm thọ này.(5) Trong lúc cảm nhận khổ thọ, người ấy đi tìm thú vui trong những khoái lạc giác quan. Vì sao ? Bởi vì kẻ vô văn phàm phu không biết cách nào thoát khỏi cảm thọ đau khổ ngoài hưởng thụ những khoái lạc giác quan.(6). Khi người ấy đi tìm thú vui trong những khoái lạc giác quan, khuynh hướng thèm khát khoái cảm tiềm ẩn dưới cảm thọ này. Người ấy không như thật hiểu rõ sự sinh khởi, sự chấm dứt, sự thỏa mãn, mối nguy hiểm và sự thoát ly ra khỏi những cảm thọ ấy.(7) Khi người ấy không hiểu rõ những điều này, khuynh hướng vô minh đối với bất khổ bất lạc thọ tiềm ẩn dưới cảm thọ này.

          “ Nếu người ấy cảm nhận một lạc thọ, người ấy  cảm thấy bị dính mắc . Nếu người ấy cảm nhận một khổ thọ, người ấy cảm thấy bị dính mắc. Nếu người ấy cảm nhận một bất lạc bất khổ thọ, người ấy cảm thấy bị dính mắc. Này các Tỳ kheo, đây được gọi là kẻ vô văn phàm phu bị trói buộc với sinh, già và chết, bị dính mắc với ưu sầu, than vãn, đau đớn, buồn phiền, tuyệt vọng, Ta nói rằng người này bị trói buộc với khổ đau.

          “-  Này các Tỷ- kheo, khi một bậc đa văn thánh đệ tử cảm nhận một khổ thọ, vị này không phiền muộn, ưu sầu, than vãn, khóc lóc, đấm ngực và đi đến bất tỉnh.(8) Vị này chỉ cảm nhận một cảm thọ - là cảm thọ về thân, không phải cảm thọ về tâm. Giả sử có một người bị người khác bắn một mũi tên, nhưng  ngay sau đó người này không bị bắn một mũi tên thứ hai, nên người  này chỉ cảm nhận một cảm thọ từ một mũi tên mà thôi. Cũng vậy, khi một vị đa văn thánh đệ tử cảm nhận một khổ thọ, vị này chỉ có một cảm thọ mà thôi – đó là một cảm thọ về thân, không phải một cảm thọ về tâm.

          “ Khi cảm nhận khổ thọ, người ấy không mang lòng sân hận đối với cảm thọ này.  Vì  người ấy không mang lòng sân hận đối với khổ thọ, khuynh hướng sân hận không tiềm ẩn bên dưới cảm thọ này. Trong lúc cảm nhận khổ thọ, người ấy không đi tìm thú vui trong những khoái lạc giác quan. Vì sao ? Bởi vì bậc đa văn thánh đệ tử biết cách thoát khỏi khổ thọ khác hơn là đi tìm những khoái lạc giác quan.. Vì vị ấy không đi tìm thú vui trong những khoái lạc giác quan, khuynh hướng thèm khát khoái cảm không tiềm ẩn dưới cảm thọ này. Vị ấy  như thật hiểu rõ sự sinh khởi, sự chấm dứt, sự thỏa mãn, mối nguy hiểm và sự thoát ly ra khỏi những cảm thọ ấy. Vì vị ấy hiểu rõ những điều này, khuynh hướng vô minh đối với bất khổ bất lạc thọ không tiềm ẩn dưới cảm thọ này.

          “ Nếu vị ấy cảm nhận một lạc thọ, vị ấy không bị dính mắc . Nếu vị ấy cảm nhận một khổ thọ, vi ấy không bị dính mắc. Nếu vị ấy cảm nhận một bất lạc bất khổ thọ, vị ấy không bị dính mắc. Này các Tỳ kheo, đây được gọi là bậc  thánh đệ tử không bị trói buộc với sinh, già và chết, không bị dính mắc với phiền muộn , than vãn, đau đớn, ưu sầu, tuyệt vọng, Ta nói vị này không bị trói buộc với khổ đau.

          “ - Này các Tỷ-kheo, đây là điểm đặc thù, sự sai biệt, sự khác nhau giữa bậc đa văn thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu”.

                                      (Tương Ưng BK- IV, tr 336-340 : Với Mũi Tên )

 

(2) Những Đổi Thay của Cuộc  Sống

          “ - Này các Tỷ kheo, có tám pháp thế gian giữ cho thế giới này tiếp tục luân chuyểnthế giới  xoay quanh tám pháp này. Thế nào là tám ? Thắng lợi và thất bại, danh thơmtiếng xấu, khen ngợi  và chê bai, khoái lạc và đau khổ .

          “ Này các Tỷ kheo, kẻ vô văn phàm phu cũng như bậc đa văn thánh đệ tử đều có tiếp xúc với tám pháp hữu vi này. Thế nào là điểm đặc thù, sự sai biệt, sự khác nhau giữa bậc đa văn thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu ? ”.

          “ - Bạch Thế Tôn, sự hiểu biết của chúng con về những pháp này bắt nguồn từ Thế Tôn, chúng con nương tựa vào Thế Tôn để được ngài hướng dẫn. Bạch Thế Tôn, lành thay nếu Thế Tôn có thể làm sáng tỏ ý nghĩa của lời nói ấy. Sau khi nghe Thế Tôn chỉ dạy, các Tỷ kheo  sẽ ghi nhớ trong tâm”.

          “ Này các Tỷ-kheo, vậy  hãy lắng nghe thật  kỹ, Ta sẽ nói .”

          Các Tỷ kheo trả lời, “ Thưa vâng, bạch Thế Tôn”. Rồi Thế Tôn nói như sau :

          “ -Này, các Tỷ kheo, khi kẻ vô văn phàm phu được thắng lợi, người ấy không suy nghĩ như sau: ‘ Sự thắng lợi đã đến với ta là vô thường, bị ràng buộc với khổ não, sẽ phải chịu thay đổi’’. Người ấy không như thật hiểu biết về pháp này. Và khi người ấy gặp phải thất bại, được danh thơm hay tiếng xấu, được khen ngợi hay bị chê bai, người ấy không suy nghĩ như thế này:” Tất cả các pháp này đều vô thường, bị ràng buộc với khổ não, và phải chịu thay đổi”.  Người ấy không như thật hiểu biết về các pháp này. Đối với hạng người như vậy,  thắng lợi hay thất bại, danh thơm hay tiếng xấu, khen ngợi hay chê bai, khoái lạc hay đau khổ xâm nhập tâm của người ấy. Khi được thắng lợi, người ấy vui mừng và khi gặp phải thất bại, người ấy buồn khổ. Khi được danh thơm, người ấy sung sướng, và khi bị tiếng xấu, người ấy khổ sở. Khi được khen ngợi, người ấy khoái trá và khi bị chê bai, người ấy phiền muộn. Khi được khoái lạc người ấy thích thú và khị bị khổ đau người ấy ưu sầu. Như vậy người ấy bị ràng buộc với yêu và ghét, người ấy sẽ  không  thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết, không thoát khỏi ưu sầu, than vãn, đau đớn, buồn khổ và tuyệt vọng, Ta nói rằng người ấy sẽ không thoát khỏi khổ đau.

          “ - Này các Tỷ kheo, nhưng khi một bậc đa văn thánh đệ tử được thắng lợi, vị ấy suy nghĩ về việc này như sau;’’ Thắng lợi này đến với ta là vô thường, bị ràng buộc với khổ não, và phải chịu sự thay đổi”. Và vị ấy cũng suy nghĩ như vậy khi gặp phải thất bại …vv . Vị ấy hiểu đúng như thật các pháp ấy, và các pháp ấy không xâm nhập tâm của vị này. vì vậy, khi được thắng lợi, vị ấy không vui mừng và khi gặp phải thất bại, vị ấy không buồn khổ; không sung sướng khi được danh thơm, không khổ sở khi bị tiếng xấu; không khoái trá khi được khen ngợi, không phiền muộn khi bị chê bai; không thích thú khi được khoái lạc không ưu sầu  khi bị khổ đau. Như vậy vị ấy đã từ bỏ yêu và ghét, vị ấy sẽ  thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết,  thoát khỏi ưu sầu, than vãn, đau đớn, buồn khổ va tuyệt vọng, Ta nói rằng người ấy sẽ  giải thoát khỏi khổ đau.

          “ - Này, các Tỷ kheo, đây là điểm đặc thù, sự sai biệt, sự khác nhau giữa bậc đa văn thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu  ”.

                             (Tăng Chi BK  III, tr  498-501 :VI.6 Tùy Chuyển Thế Giới)

 

(3)  Phiền Não  Do Thay Đổi

           “ - Này các Tỷ kheo, Ta sẽ giảng cho các ngươi nghe về phiền não do chấp thủ và  không phiền não do không chấp thủ ”(9). “Các ngươi hãy lắng nghe thật kỹ, Ta sẽ giảng”.

          “Thưa vâng , bạch Thế Tôn”, các Tỷ kheo đáp. Và Thế Tôn nói như sau :

          “ - Này các Tỷ kheo, thế nào là tâm phiền não do chấp thủ ? Này, các Tỷ kheo, kẻ vô văn phàm phu là người không thấy rõ các bậc thánh, không thuần thục và không tu tập theo pháp của các bậc thánh, là kẻ không thấy rõ các bậc chân nhân và không thuần thục, không tu tập theo pháp của các bậc chân nhân, đã xem sắc như là tự ngã, hay là tự ngã có sắc, hay là sắc ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong sắc’’(10).  Rồi sắc của người ấy thay đổi và biến hoại. Với sự thay đổi và biến hoại của sắc, thức của người ấy bị xâm chiếm bởi sự thay đổi của sắc. Phiền não và một chuổi tâm hành tiêu cực phát sinh do sự thay đổi của sắc vẫn ám ảnh tâm người ấy. Bởi vì tâm bị ám ảnh, người ấy sợ hãi, đau khổưu sầu, và do bởi chấp thủ, người ấy bị  phiền não.

          “ Người ấy xem thọ như là tự ngã…tưởng như là tự ngã…hành như là tự ngã,…thức như là tự ngã, hay là tự ngã có thức, hay là thức trong tự ngã, hay tự ngã trong thức. Rồi thức của người ấy thay đổi và biến hoại. Với sự thay đổi và biến hoại của thức, thức của người ấy bị xâm chiếm bởi sự thay đổi của thức. Phiền não và một chuổi tâm hành tiêu cực phát sinh do sự thay đổi của thức vẫn ám ảnh tâm người ấy. Bởi vì tâm bị ám ảnh, người ấy sợ hãi, đau khổưu sầu, và do bởi chấp thủ, người ấy bị  phiền não.

          “ Này các Tỷ kheo, như vậy là tâm phiền não do chấp thủ.

          “ - Và này các Tỷ kheo, thế nào là tâm không phiền não do không chấp thủ ?

          “ Này các Tỷ kheo, ở đây, bậc đa văn thánh đệ tử là người thấy rõ các bậc thánh, thuần thụctu tập theo pháp của các bậc thánh, là người thấy rõ các bậc chân nhân,  và thuần thục, tu tập theo pháp của các bậc chân nhân, không xem sắc như là tự ngã, hay là tự ngã có sắc, hay là sắc ở trong tự ngã , hay tự ngã ở trong sắc’’(11).  Rồi sắc của vị ấy thay đổi và biến hoại. Mặc dù có sự thay đổi và biến hoại của sắc, thức của vị ấy không bị xâm chiếm bởi sự thay đổi của sắc. Phiền não và một chuổi tâm hành tiêu cực phát sinh do sự thay đổi của sắc không ám ảnh tâm vị ấy. Bởi vì tâm vị ấy không bị ám ảnh, vị ấy không sợ hãi, đau khổưu sầu, và do bởi không chấp thủ, vị ấy không bị phiền não.

          “ Vị ấy không xem thọ như là tự ngã…tưởng như là tự ngã…hành như là tự ngã,…thức như là tự ngã, hay là tự ngã có thức, hay là thức trong tự ngã, hay tự ngã trong thức. Rồi thức của vị ấy thay đổi và biến hoại. Mặc dù có sự thay đổi và biến hoại của thức, thức của vị ấy không bị xâm chiếm bởi sự thay đổi của thức. Phiền não và một chuổi tâm hành tiêu cực phát sinh do sự thay đổi của thức không ám ảnh tâm vị ấy. Bởi vì tâm không bị ám ảnh, vị ấy không sợ hãi, đau khổưu sầu, và do bởi không chấp thủ, vị ấy không bị phiền não.

          “ Này các Tỷ kheo, như vậy là tâm không phiền não do không chấp thủ.”

                                                ( TƯBK III, tr 35-39 : Chấp Thủ và Ưu Não)






 
Tạo bài viết
11/11/2010(Xem: 191256)
01/04/2012(Xem: 36799)
08/11/2018(Xem: 15478)
08/02/2015(Xem: 54751)
Bản tin ngày 3 tháng 12/2014 trên báo Global New Light of Myanmar (GNLM) của Bộ Thông Tin Myanmar loan tin rằng Trung tâm Giáo dục Phật giáo Quốc tế (IBEC: International Buddhist Education Centre) đã công bố sự tham gia của IBEC vào dự án Vườn Lumbini (Lumbini Garden) tại Tây Ban Nha, nơi sẽ trở thành Công viên Phật giáo lớn nhất châu Âu. Sáng kiến quan trọng này sẽ có sự đóng góp từ nhiều quốc gia, bao gồm Myanmar, Thái Lan, Campuchia, Lào, Sri Lanka, Trung Quốc, Hồng Kông, Nepal, Bhutan và Đài Bắc Trung Hoa (Ghi nhận của người dịch: không thấy Việt Nam). Dự án sẽ có các chương trình giáo dục Phật giáo cấp cao hỗ trợ bởi IBSC (Thái Lan), SSBU, SIBA và IBEC-Myanmar.
Bhutan, vương quốc ở vùng núi Himalaya đã mang đến cho thế giới khái niệm về hạnh phúc quốc gia, chuẩn bị xây một "thành phố chánh niệm" (mindfulness city) và đã bắt đầu gây quỹ từ hôm thứ Hai để khởi động dự án đầy tham vọng này. "Thành phố chánh niệm Gelephu" (Gelephu Mindfulness City: GMC) sẽ nằm trong một đặc khu hành chánh với các quy tắc và luật lệ riêng biệt nhằm trở thành hành lang kinh tế nối liền Nam Á với Đông Nam Á, theo lời các quan chức.
Những phương tiện thông tin đại chúng, các trang mạng là mảnh đất màu mỡ cho đủ loại thông tin, là nơi để một số người tha hồ bịa đặt, dựng chuyện, bé xé ra to và lan đi với tốc độ kinh khủng. Họ vùi dập lẫn nhau và giết nhau bằng ngụy ngữ, vọng ngữ, ngoa ngữ…