5. Diệt Trừ Vọng Tưởng

06/06/20172:56 SA(Xem: 18382)
5. Diệt Trừ Vọng Tưởng

VIỆN  NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM
HỢP  TUYỂN LỜI   PHẬT   DẠY
TỪ  KINH TẠNG  PALI 

In The Buddha’s Words
An Anthology of Discourses from the Pali Canon

By
BHIKKHU  BODHI
Wisdom Publications – 2005
Việt dịch : Nguyên Nhật Trần Như Mai
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG  ĐỨC 2015

 

VIII

TU TẬP TÂM
 

5. DIỆT  TRỪ  VỌNG  TƯỞNG

          1.Tôi nghe như vầy. Một thời Thế Tôn đang trú tại Xá Vệ  (Savatthi ) tại Rừng Kỳ- Đà (Jeta’s Grove ), thuộc Vườn Cấp-Cô-Độc ( Anāthapindika ). Rồi Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:

           -Này các Tỷ-kheo .

            - Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

           Các Tỷ-kheo vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau :

          2.  Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo đang theo đuổi tu tập tâm cao thượng, thỉnh thoảng vị ấy cần chú ý đến năm tướng.(18) Thế nào là năm ?

          3. (i)  Ở đây, này các Tỷ-kheo, khi một tỷ-kheo chú ý đến một vài tướng, và từ các tướng đó trong tâm vị ấy khởi lên các ý tưởng bất thiện liên hệ đến tham dục, sân hậnsi mê, lúc đó vị ấy cần phải chú ý đến những tướng khác liên hệ đến những thiện pháp.(19)  Khi vị ấy chú ý đến những tướng khác liên hệ đến các thiện pháp, thì bất cứ những ý tưởng bất thiện nào liên hệ đến tham sân si liền bị từ bỏ và nhiếp phục. Với sự từ bỏ các pháp bất thiện, tâm của vị ấy trở nên vững chải, an trú, nhất tâmđịnh tâm.  Cũng giống như một người thợ mộc thiện xảo hay học trò của người thợ mộc dùng cái cọc trơn láng đánh bật ra, lấy ra, và rút ra một cái cọc thô nhám  khác,…cũng vậy… khi một Tỷ-kheo chú ý đến những tướng khác có liên hệ đến các thiện pháp… tâm của vị ấy trở nên vững chải, an trú, nhất tâmđịnh tâm.

          4. (ii)  Nếu trong lúc vị ấy chú ý đến vài tướng khác liên hệ đến các thiện pháp, trong tâm vị ấy vẫn còn khởi lên những pháp bất thiện liên hệ đến tham, sân, si, thì vị ấy cần phải quán sát sự nguy hiểm của các ý tưởng bất thiện như vầy: ‘ Những ý tưởng này là bất thiện, là sai trái, đưa đến kết quả khổ đau.’ Khi vị ấy quán sát sự nguy hiểm của các ý tưởng đó, thì bất cứ những ý tưởng bất thiện nào liên hệ đến tham sân si liền bị từ bỏ và nhiếp phục. Với sự từ bỏ các pháp bất thiện, tâm của vị ấy trở nên vững chải, an trú, nhất tâmđịnh tâm. Cũng giống như một thanh niên hay một thiếu nữ, trẻ tuổi, thanh xuân, yêu thích trang sức, sẽ cảm thấy kinh sợ, bị sỉ nhục và ghê tởm nếu bị quàng vào cổ một xác rắn, xác chó hay xác người, cũng vậy… khi vị Tỷ-kheo quán sát sự nguy hiểm của các ý tưởng đó,…tâm của vị ấy trở nên vững chải, an trú, nhất tâmđịnh tâm.

          5. (iii)  Nếu trong lúc vị ấy quán sát sự nguy hiểm của các ý tưởng đó, trong tâm vị ấy vẫn còn khởi lên những pháp bất thiện liên hệ đến tham, sân, si, thì vị ấy phải cố gắng quên những ý tưởng đó và không chú ý đến chúng nữa. Khi vị ấy cố gắng quên những ý tưởng đó và không chú ý đến chúng nữa, thì bất cứ những ý tưởng bất thiện nào liên hệ đến tham sân si liền bị từ bỏ và nhiếp phục. Với sự từ bỏ các pháp bất thiện, tâm của vị ấy trở nên vững chải, an trú, nhất tâmđịnh tâm. Cũng giống như một người có mắt tốt không muốn nhìn thấy các hình sắc trong tầm mắt của mình thì người ấy hoặc là sẽ nhắm mắt hay nhìn lơ đi chỗ khác, cũng vậy… khi một Tỷ-kheo cố gắng quên những ý tưởng đó và không chú ý đến chúng nữa…thì tâm của vị ấy trở nên vững chải, an trú, nhất tâmđịnh tâm.

          6. (iv)  Nếu trong lúc vị ấy cố gắng quên các ý tưởng đó và không chú ý đến chúng nữa, trong tâm vị ấy vẫn còn khởi lên những pháp bất thiện liên hệ đến tham, sân, si, thì vị ấy phải chú ý đến việc an tịnh tâm hành của những ý tưởng đó.(20) Khi vị ấy chú ý đến việc an tịnh tâm hành của những ý tưởng đó, thì bất cứ những ý tưởng bất thiện nào liên hệ đến tham sân si liền bị từ bỏ và nhiếp phục. Với sự từ bỏ các pháp bất thiện, tâm của vị ấy trở nên vững chải, an trú, nhất tâmđịnh tâm. Cũng giống như một người đang đi nhanh có thể suy nghĩ : ‘ Tại sao ta lại đi nhanh? Nếu ta đi chậm lại thì sao ?’ và người ấy đi chậm lại; rồi người ấy có thể suy nghĩ: ‘ Tại sao ta lại đi chậm ? Nếu ta dừng lại thì sao ? ’ và người ấy dừng lại; rồi người ấy có thể suy nghĩ: ‘ Tại sao ta dừng lại ? Nếu ta ngồi xuống thì sao ? ’ và người ấy ngồi xuống; rồi người ấy có thể suy nghĩ: ‘ Tại sao ta ngồi xuống ? Nếu ta nằm xuống thì sao ? ’ và người ấy nằm xuống. Bằng cách làm như vậy, vị ấy sẽ dần thay thế các tư thế thô cứng bằng tư thế tế nhị hơn.  Cũng vậy…khi vị Tỷ-kheo chú ý đến việc an tịnh tâm hành của những ý tưởng đó… tâm của vị ấy trở nên vững chải, an trú, nhất tâmđịnh tâm.

          7. (v) Nếu trong khi vị ấy chú ý đến việc an tịnh tâm hành của những ý tưởng đó, trong tâm vị ấy vẫn còn khởi lên những pháp bất thiện liên hệ đến tham, sân, si, thì vị ấy phải nghiến răng và dán chặt lưỡi trên nóc họng, vị ấy phải đánh bại, nhiếp phục và lấy tâm chế ngự tâm. Khi vị ấy nghiến răng và dán chặt lưỡi trên nóc họng, vị ấy đánh bại, nhiếp phục và lấy tâm chế ngự tâm, thì bất cứ những ý tưởng bất thiện nào liên hệ đến tham sân si liền bị từ bỏ và nhiếp phục. Với sự từ bỏ các pháp bất thiện, tâm của vị ấy trở nên vững chải, an trú, nhất tâmđịnh tâm. Cũng giống một người lực sĩ nắm lấy đầu hay vai của một kẻ yếu hơn và đánh bại, nhiếp phục và chế ngự kẻ ấy, cũng vậy…khi vị tỷ-kheo nghiến răng và dán chặt lưỡi trên nóc họng, vị ấy đánh bại, nhiếp phục và lấy tâm chế ngự tâm… tâm của vị ấy trở nên vững chải, an trú, nhất tâmđịnh tâm.

          8. - Này các Tỷ-kheo, khi một tỷ-kheo chú ý đến một vài tướng, và từ các tướng đó trong tâm vị ấy khởi lên các ý tưởng bất thiện liên hệ đến tham dục, sân hậnsi mê, thì vị ấy phải chú ý đến những tướng khác liên hệ đến những thiện pháp, rồi bất cứ những ý tưởng bất thiện nào liên hệ đến tham sân si liền bị từ bỏ và nhiếp phục. Với sự từ bỏ các pháp bất thiện, tâm của vị ấy trở nên vững chải, an trú, nhất tâmđịnh tâm. Khi vị ấy quán sát những nguy hiểm của các ý tưởng bất thiện… tâm của vị ấy trở nên vững chải, an trú, nhất tâmđịnh tâm. Khi vị ấy cố gắng quên các ý tưởng đó và không chú ý đến chúng nữa… tâm của vị ấy trở nên vững chải, an trú, nhất tâmđịnh tâm. Khi vị ấy chú ý đến việc an tịnh tâm hành của những ý tưởng đó… tâm của vị ấy trở nên vững chải, an trú, nhất tâmđịnh tâm. Khi vị ấy nghiến răng và dán chặt lưỡi trên nóc họng, vị ấy đánh bại, nhiếp phục và lấy tâm chế ngự tâm, thì bất cứ những ý tưởng bất thiện nào liên hệ đến tham sân si liền bị từ bỏ và nhiếp phục. Với sự từ bỏ các pháp bất thiện, tâm của vị ấy trở nên vững chải, an trú, nhất tâmđịnh tâm. Vị Tỳ-kheo này được gọi là bậc thầy làm chủ được tâm ý. Vị ấy có thể  suy nghĩ bất cứ ý niệm nào mà vị ấy muốn nghĩ đến và sẽ không suy nghĩ  bất cứ ý niệm nào mà vị ấy không muốn nghĩ đến. Vị ấy đã đoạn trừ khát ái, vứt bỏ các kiết sử, và với sự chinh phục hoàn toàn ngã mạn, vị ấy đã chấm dứt được khổ đau.”

          Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các vị Tỳ-kheo hoan hỷ tín thọ lời dạy của Thế Tôn.

  ( Trung BK I, Kinh số 20:(Vitakkasanthāna Sutta), tr 269-275 )

 





Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
11/11/2010(Xem: 190920)
01/04/2012(Xem: 36519)
08/11/2018(Xem: 15197)
08/02/2015(Xem: 54410)
Ăn thịt chó lâu lâu lại nổi lên như một vấn đề trọng đại của đất nước, kéo theo những cuộc biểu tình, phản đối làm đau đầu chính phủ. Và người ta đã xót xa, lên án những người hành hạ chó hay ăn thịt chó. Đặc biệt trong thế giới Tây Phương và Hoa Kỳ. Mới đây trong cuộc tranh luận với Bà Harris trên đài truyền hình ABC, Ô. Trump nói rằng di dân Haiti ở Tiểu Bang Ohio đã ăn thịt thú cưng (chó mèo) khiến gây phản ứng phẫn nộ, thậm chí dọa giết khiến cộng đồng ở đây vô cùng lo sợ. Thế nhưng theo sở cảnh sát Springfield, nguồn tin trên không có gì đáng tin cậy và không có chuyện thú cưng bị hại hay làm bị thương hay hành hạ bới người dân ở đây. Đấy người ta yêu thú vật như thế đó và sẵn sàng giết người, bạo động để bảo vệ thú vật.
Mới đây, 250 nhà hàng và quán ăn ở phố cổ Hà Nội đã ủng hộ việc không tiêu thụ thịt chó, mèo bằng cách dán các poster tại nhà hàng với thông điệp “Chó mèo là bạn, không phải là thức ăn. Chúng tôi không phục vụ thịt chó mèo tại đây”.
Tôi hôm nay hân hạnh được góp một vài ý kiến trong Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An, vị đạo sư đã khai sáng Bửu Sơn Kỳ Hương, một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc và vì ngài có một thời gian cư trú ở Chùa Tây An (Thiền phái Lâm Tế) dưới chân núi Sam (Châu Đốc), nên vị đạo sư họ Đoàn được người dân một cách tôn kính gọi là Đức Phật Thầy Tây An. Từ gốc rễ đó, Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng lập, thường được coi là sự kế thừa và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương trong bối cảnh mới. Truyền thống Phật Giáo Hòa Hảo mỗi năm đều có Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An. Ngài đã từng được nhìn theo nhiều phương diện khác nhau. Nhưng hôm nay, tôi xin phép trình bày về một bản văn quan trọng do Đức Phật Thầy Tây An để lại. Đó là bài thơ Mười Điều Khuyến Tu.