KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT
Hán dịch: Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập - Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Viện Phật Học Phổ Hiền Xuất Bản PL. 2530 DL 1986 (Trọn bộ 3 tập)
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn hành P.L 2539 DL. 1995 (Trọn bộ 3 tập)
QUYỂN THỨ HAI
PHẨM VÃNG SANH
THỨ TƯ
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật có thể
tu tập tương ứng như vật, những vị ấy từ cõi nào chết rồi sanh đến
cõi nầy, từ
cõi nầy chết rồi sẽ sanh về đâu?”
Đức Phật nói: “Nầy
Xá Lợi Phất! Những
đại Bồ Tát ấy hoặc từ cõi khác sanh đến
cõi nầy, hoặc từ
cung trời Đâu Suất sanh xuống đây, hoặc có vị vẫn từ nhơn gian sanh
trở lại nhơn gian đây.
Nầy
Xá Lợi Phất! Những
Bồ Tát từ cõi khác sanh đến đây mau
tương ứng với
Bát nhã ba la mật. Vì
tương ứng với
Bát nhã ba la mật nên khi sanh đến
cõi nầy, những pháp
thâm diệu đều
hiện ra lại
tương ứng với
Bát nhã ba la mật.
Bồ Tát nầy sanh đến đâu cũng thường gặp được chư Phật.
Nầy
Xá Lợi Phất! Có bực
Bồ Tát nhất sanh bổ xứ từ
cung trời Đâu Suất sanh xuống đây.
Bồ Tát nầy chẳng mất sau môn
ba la mật, tùy sanh đến chỗ nào, tất cả môn
đà la ni, tất cả môn
tam muội đều
hiện ra.
Nầy
Xá Lợi Phất! Có bực
Bồ Tát từ nhơn gian sanh
trở lại nhơn gian,
Bồ Tát nầy
căn tánh chậm lụt, trừ bực
bất thối chuyển, chẳng thể mau chóng
tương ứng với
Bát nhã ba la mật, các môn
đà la ni, các môn
tam muội chẳng thể mau
hiện ra.
Nầy
Xá Lợi Phất! Như lời ông hỏi,
đại Bồ Tát tương ứng với
Bát nhã ba la mật, từ
cõi nầy chết sẽ sanh về đâu? Ông nên biết rằng những
đại Bồ Tát nầy từ một
Phật độ chết sẽ sanh đến một
Phật độ khác, luôn luôn chẳng xa rời chư Phật.
Nầy
Xá Lợi Phất! Có
đại Bồ Tát chẳng dùng
phương tiện mà nhập
sơ thiền,
nhị thiền,
tam thiền,
tứ thiền và cũng thật hành
sáu ba la mật. Vì đắc thiền nên
đại Bồ Tát nầy sanh lên
Trường Thọ Thiên. Rồi từ cung trời ấy sanh xuống nhơn gian gặp chư Phật. Hàng
Bồ Tát nầy
căn tánh không được lanh lẹ.
Nầy
Xá Lợi Phất! Có bực
đại Bồ Tát nhập
sơ thiền đến
tứ thiền và cũng thật
hành Bát nhã
ba la mật, vì chẳng dùng
phương tiện nên xả thiền sanh xuống
Dục giới. Hàng
Bồ Tát nầy
căn tánh cũng châm lụt.
Nầy
Xá Lợi Phất! Có bực
đại Bồ Tát chập
sơ thiền đến
tứ thiền, nhập
từ tâm đến
xả tâm, nhập
hư không xứ định đến phi
phi tưởng xứ định,
tu tập tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo, thật hành
thập lực,
đại từ,
đại bi. Hàng
đại Bồ Tát nầy
dùng sức phương tiện chẳng sanh theo sắc thiền, chẳng sanh theo
vô lượng tâm, chẳng sanh theo sắc định, mà sanh nơi nào có Phật
xuất thế, thường chẳng rời hạnh
Bát nhã ba la mật.
Bồ Tát nầy sẽ
thành Phật trong
Hiền kiếp.
Nầy
Xá Lợi Phất! Có
đại Bồ Tát nhập
sơ thiền đến
tứ thiền, nhập
từ tâm đến
xả tâm, nhập
hư không xứ định đến phi
phi tưởng xứ định. Vì
dùng sức phương tiện nên chẳng sanh theo thiền mà sanh
trở lại Dục giới để
thành tựu chúng sanh.
Nầy
Xá Lợi Phất! Có
đại Bồ Tát nhập
sơ thiền đến
tứ thiền, nhập
từ tâm đến
xả tâm, nhập
hư không xứ định đến phi
phi tưởng xứ định. Vì
dùng sức phương tiện nên chẳng sanh theo thiền mà sanh vào các
cõi trời Dục giới, như cõi Tứ Vương hoặc cõi
Đao Lợi,
Dạ Ma,
Đâu Suất, Hóa Lạc, Tha Hóa để
thành tựu chúng sanh trong các
cõi nầy và cũng để
thanh tịnh Phật độ, gần gũi chư Phật.
Nầy
Xá Lợi Phất! Có
đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật,
dùng sức phương tiện nhập
sơ thiền, ở
cõi nầy mạng chung sanh
trời Phạm Thiên làm
Đại Phạm Vương, rồi đến các
Phật độ mới thành
Vô thượng Chánh giác mà chưa
chuyển pháp luân thời
khuyến chuyển pháp luân.
Nầy
Xá Lợi Phất! Có
đại Bồ Tát bực nhứt sanh
bổ xứ thật
hành Bát nhã
ba la mật,
dùng sức phương tiện nhập
sơ thiền đến
tứ thiền, nhập
từ tâm đến
xả tâm, nhập
hư không xứ định đến phi
phi tưởng xứ định, tu
tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo,
nhập không tam muội,
vô tướng tam muội,
vô tác tam muội, chẳng sanh theo thiền mà sanh nơi có Phật
xuất thế, tu
phạm hạnh, hoặc sanh
cung trời Đâu Suất, lúc
mạng chung chẳng mất
chánh niệm, đủ
thiện căn, cùng
vô số trăm ngàn ức vạn
chư Thiên cung kính vây quanh đến sanh nơi đây mà được thành
Vô thượng Bồ đề Nầy
Xá Lợi Phất! Có
đại Bồ Tát được
lục thần thông chẳng sanh
Dục giới,
Sắc giới và
Vô sắc giới, mà từ một
Phật độ,
cung kính cúng dường tôn trọng tán thán chư Phật.
Nầy
Xá Lợi Phất! Có
đại Bồ Tát du hí thần thông từ một
Phật độ đến một
Phật độ. Nơi nào mà
Bồ Tát nầy đến thời không có
Thanh Văn và
Bích Chi Phật thừa, cũng không có danh từ
Nhị thừa.
Nầy
Xá Lợi Phất! Có
đại Bồ Tát du hí thần thông từ một
Phật độ đến một
Phật độ, chỗ nào có
Bồ Tát nầy đến thời cõi đó
thọ mạng vô lượng.
Nầy
Xá Lợi Phất! Có
đại Bồ Tát du hí thần thông từ một
Phật độ đến một
Phật độ, nơi không có
Tam Bảo Phật, Pháp và Tăng thời
tán thán công đức của Phật, Pháp và Tăng.
Chúng sanh nơi đó thời được nghe danh của Phật, của Pháp và của tăng, nên sau khi
mạng chung sanh trước chỗ chư Phật.
Nầy
Xá Lợi Phất! Có
đại Bồ Tát lúc
sơ phát tâm được
sơ thiền đến
tứ thiền, được
tứ vô lượng tâm, được
tứ vô sắc định, tu
tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng.
Bồ Tát nầy không sanh trong
tam giới mà thường sanh nơi
chúng sanh có
lợi ích.
Nầy
Xá Lợi Phất! Có
đại Bồ Tát lúc
sơ phát tâm thật hành
sáu ba la mật lên ngôi Bồ Tát được bực
bất thối chuyển.
Nầy
Xá Lợi Phất! Có
đại Bồ Tát lúc
sơ phát tâm bèn được
Vô thượng Bồ đề chuyển pháp luân, sau khi đem sự
lợi ích cho
chúng sanh xong liền
nhập Niết Bàn,
chánh pháp trụ thế hoặc một kiếp hoặc dưới một kiếp.
Nầy
Xá Lợi Phất! Có
đại Bồ Tát lúc
sơ phát tâm liền
tương ứng với
Bát nhã ba la mật, cùng
vô số trăm ngàn ức
Bồ Tát từ một
Phật độ đến một
Phật độ để
thanh tịnh Phật độ.
Nầy
Xá Lợi Phất! Có
đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật được
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định, rồi du hí trong đó: nhập
sơ thiền, xuất
sơ thiền,
nhập diệt tận định, xuất
diệt tận định, nhập
nhị thiền nhẫn đến
tứ thiền,
nhập diệt tận định, xuất
diệt tận định, nhập
hư không xứ
định nhẫn đến phi
phi tưởng xứ định,
nhập diệt tận định. Đó là
đại Bồ Tát dùng sức phương tiện, lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật, nhập
siêu việt định.
Nầy
Xá Lợi Phất! Có
đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật, tu
tứ niệm xứ đến mười
tám pháp bất cộng mà chẳng trụ lấy những quả
Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm,
A La Hán,
Bích Chi Phật.
Bồ Tát nầy
dùng sức phương tiện để độ
chúng sanh nên
phát khởi bát thánh đạo phần, đem
bát thánh đạo phần nầy làm cho
chúng sanh được quả
Tu Đà Hoàn đến quả
Bích Chi Phật.
Nầy
Xá Lợi Phất! tất cả những quả
A La Hán,
Bích Chi Phật và
trí huệ của các bực nầy đều là
vô sanh pháp nhẫn của
đại Bồ Tát đây.
Nầy
Xá Lợi Phất! Phải biết rằng
đại Bồ Tát như đây thật
hành Bát nhã
ba la mật như vậy, an trụ trong bực
bất thối chuyển như vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Có
đại Bồ Tát an trụ
sáu ba la mật mà
trang nghiêm cung trời Đâu Suất. Nên biết đây là
Bồ Tát trong
Hiền kiếp.
Nầy
Xá Lợi Phất! Có
đại Bồ Tát tu
tứ thiền đến mười
tám pháp bất cộng mà chưa chứng
tứ đế. Nên biết đây là bực
Bồ Tát nhứt sanh
bổ xứ.
Nầy
Xá Lợi Phất! Có
đại Bồ Tát tu hành đạo
Vô thượng Bồ đề trong
vô lượng a tăng kỳ kiếp.
Có
đại Bồ Tát an trụ
sáu ba la mật thường siêng
tinh tấn lợi ích chúng sanh, chẳng nói bàn đến sự
vô ích.
Có
đại Bồ Tát an trụ
sáu ba la mật thường siêng
tinh tấn lợi ích chúng sanh, từ một
Phật độ đến một
Phật độ để dứt diệt ba
ác đạo của
chúng sanh.
Có
đại Bồ Tát an trụ
sáu ba la mật lấy
Đàn na làm đầu để đem sự
lợi lạc cho tất cả
chúng sanh,
ban cho họ những
thức ăn uống,
y phục, giường phòng,
hương hoa, đèn đuốc,
châu ngọc,
tùy theo chỗ đáng
cần dùng mà
cung cấp cho
chúng sanh.
Có
đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật biến
thân hình như Phật để vì
chúng sanh trong
địa ngục, trong
súc sanh, trong
ngạ quỷ mà
thuyết pháp.
Có
đại Bồ Tát lúc thật hành
sáu ba la mật biến
thân hình như chư Phật đến khắp
mười phương hằng sa thế giới để
thuyết pháp cho
chúng sanh, cũng để
cúng dường chư Phật và nghe
Phật pháp, cũng để
xem xét lựa lấy những tướng dạnh
thanh tịnh tốt đẹp của các cõi nước hầu
phát khởi quốc độ của mình cho được siêu thắng, hàng
đại Bồ Tát trong đây đều là bực nhứt sanh
bổ xứ.
Có
đại Bồ Tát lúc thật hành
sáu ba la mật thành tựu ba mươi hai tướng tốt, sáu
căn tịnh lợi. Vì sáu căn của
Bồ Tát đây tịnh lợi nên được chúnh sanh mến kính. Do
chúng sanh đã mến kính,
Bồ Tát nầy bèn lần lần đem pháp
tam thừa cứu độ họ.
Nầy
Xá Lợi Phất! Vì cớ trên đây, lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát phải học
thân thanh tịnh và khẩu
thanh tịnh.
Có
đại Bồ Tát lúc thật hành
sáu ba la mật được các căn
thanh tịnh vẫn không từ cao, cũng chẳng khinh người.
Có
đại Bồ Tát từ lúc
sơ phát tâm an trụ
Đàn na ba la mật nhẫn đến bực
bất thối chuyễn trọn chẳng sa vào ba
ác đạo.
Có
đại Bồ Tát từ lúc
sơ phát tâm nhẫn đến bực
bất thối chuyển thường chẳng bỏ rời hạnh
thập thiện.
Có
đại Bồ Tát an trụ trong
Đàn na và
Thi la ba la mật mà làm
Chuyển Luân Thánh Vương, đặt
chúng sanh nơi
thập thiện đạo và cũng đem
tài vật bố thí cho
chúng sanh.
Có
đại Bồ Tát an trụ trong
Đàn na và
Thi la ba la mật, trong
vô lượng ngàn muôn đời làm
Chuyển Luân Thánh Vương, gặp
vô lượng ngàn muôn
đức Phật và đều
cung kính cúng dường tôn trọng tán thán tất cả.
Có
đại Bồ Tát thường đem
chánh pháp để
soi sáng cho
chúng sanh cũng được
lợi ích tự
soi sáng, nhẫn đến lúc thành
Vô thượng Bồ đề trọn chẳng rời sự
soi sáng đó.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát như vậy đã được
tôn trọng ở trong
Phật pháp. Thế nên
đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật, thân, khẩu và ý đều
thanh tịnh chẳng để vọng khởi”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
Bồ Tát thân nghiệp bất tịnh,
khẩu nghiệp bất tịnh,
ý nghiệp bất tịnh?”
Đức Phật nói: “Nầy
Xá Lợi Phất! Nếu
đại Bồ Tát nghĩ rằng đây là thân, là khẩu, là ý. Thấy có tướng dạng
tác dụng như vậy thời gọi là thân, khẩu, ý
bất tịnh.
Nầy
Xá Lợi Phất! Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát chẳng thấy có thân, chẳng thấy có khẩu, chẳng thấy có ý.
Nếu thấy có thân, khẩu, ý, thời do vì thấy có, nên thân, khẩu, ý có thể sanh những
tâm niệm xan tham,
phạm giới,
sân khuể, giả đãi,
tán loạn,
ngu si. Phải biết
Bồ Tát như đây, lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật, chẳng có thể trừ được thô nghiệp của thân, khẩu và ý”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
đại Bồ Tát dứt trừ thô nghiệp của thân, khẩu và ý?”
Đức Phật nói: “Nếu chẳng thấy có thân, khẩu và ý,
đại Bồ Tát nầy có thể dứt trừ thô nghiệp của thân, khẩu và ý.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nếu
đại Bồ Tát từ lúc
sơ phát tâm thật hành
thập thiện đạo, chẳng
móng tâm Thanh Văn, chẳng
móng tâm Bích Chi Phật, thời có thể dứt trừ được thô nghiệp của thân, khẩu và ý.
Có
đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật thanh tịnh Phật đạo, mà thật hành
Đàn na, Thi na,
Sằn đề, Tỳ lê gia và
Thiền na ba la mật,
Bồ Tát trừ được thô nghiệp của thân, khẩu và ý”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
Phật đạo của đại Bồ Tát?”
Đức Phật nói: “Nầy
Xá Lợi Phất! Nếu chẳng thấy có thân, khẩu và ý, chẳng thấy có
Đàn na, Thi na,
Sằn đề, Tỳ lê gia,
Thiền na và
Bát nhã ba la mật, chẳng thấy có
Thanh Văn,
Bích Chi Phật,
Bồ Tát và Phật, đây gọi là
Phật đạo của
đại Bồ Tát. Chính đó có nghĩa là vì tất cả pháp đều
bất khả đắc.
Nầy
Xá Lợi Phất! Có
đại Bồ Tát lúc thật hành
sáu ba la mật không ai có thể
phá hoại được.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! thế nào là
đại Bồ Tát lúc thật hành
sáu ba la mật không ai
phá hoại được?”
Đức Phật nói: “Nầy
Xá Lợi Phất! Nếu lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát chẳng nghĩ rằng có sắc, thọ, tưởng, hành và thức, chẳng nghĩ rằng có nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân và ý, chẳng nghĩ rằng có sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp, chẳng nghĩ rằng có nhãn gới,
nhĩ giới, tĩ giới, thiệt giới,
thân giới,
ý giới,
sắc giới, thanh giới,
hương giới, vị giới, xúc giới,
pháp giới,
nhãn thức giới,
nhĩ thức giới, tĩ
thức giới,
thiệt thức giới,
thân thức giới và
ý thức giới, chẳng nghĩ rằng có
tứ niệm xứ,
tứ chánh cần,
tứ như ý túc,
ngũ căn,
ngũ lực,
thất bồ đề phần,
bát thánh đạo phần, chẳng nghĩ rằng có
Đàn na ba la mật,
Thi la ba la mật,
Sằn đề ba la mật, Tỳ lê gia
ba la mật,
Thiền na ba la mật,
Bát nhã ba la mật, chẳng nghĩ rằng có
thập lực,
tứ vô úy,
tứ vô ngại trí,
thập bát bất cộng pháp, chẳng nghĩ rằng có những quả
Tu Đà Hoàn nhẫn đến quả
Vô thượng Bồ đề, thật hành
tăng ích sáu ba la mật như vậy thời không ai
phá hoại được.
Nầy
Xá Lợi Phất! Có
đại Bồ Tát an trụ trong
Bát nhã ba la mật đầy đủ
trí huệ, nhờ
trí huệ nầy mà không sa vào
ác đạo, cũng chẳng sanh vào trong
loài người tệ ác, nghèo cùng.
Thân thể của
Bồ Tát nầy
cảm thọ chẳng bị hàng Thiên Nhơn và
A tu la chê ghét”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Những gì là
trí huệ của đại Bồ Tát?”
Đức Phật nói: “Nhờ
trí huệ ấy mà
đại Bồ Tát thấy
hằng sa chư Phật ở
mười phương và cũng nghe
Phật thuyết pháp cùng thấy
Tăng chúng và thấy
Phật độ nghiêm tịnh.
Do
trí huệ ấy mà
đại Bồ Tát chẳng có
cảm tưởng Phật,
Bồ Tát,
Bích Chi Phật,
Thanh Văn, cũng chẳng có
cảm tưởng ngã và
quốc độ.
Nhờ
trí huệ ấy mà
đại Bồ Tát thật hành
Đàn na đến
Bát nhã ba la mật mà chẳng thấy có
Đàn na đến
Bát nhã ba la mật, thật hành
tứ niệm xứ đến mười
tám pháp bất cộng mà chẳng thấy có
tứ niệm xứ đến mười
tám pháp bất cộng.
Trên đây gọi là
trí huệ của
đại Bồ Tát. Nhờ
trí huệ ấy mà
đại Bồ Tát có thể đầy đủ tất cả pháp mà vẫn không thấy có tất cả pháp.
Nầy
Xá Lợi Phất! Có
đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật thanh tịnh được
nhục nhãn,
thiên nhãn,
huệ nhãn,
pháp nhãn và
Phật nhãn. Đây cũng gọi là
ngũ nhãn thanh tịnh”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
nhục nhãn thanh tịnh của đại Bồ Tát?”
Đức Phật nói: “Nầy
Xá Lợi Phất! Có
đại Bồ Tát nhục nhãn thấy xa trăm
do tuần, có vị thấy
toàn thể Diêm Phù Đề, có vị thấy hai
thiên hạ hoặc ba bốn
thiên hạ, có vị thấy khắp
Tiểu Thiên thế giới, có
Bồ Tát nhục nhãn thấy suốt
Đại Thiên thế giới. Đây là
nhục nhãn thanh tịnh của đại Bồ Tát”.
Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
thiên nhãn thanh tịnh của đại Bồ Tát?
Nầy
Xá Lợi Phất! Có
đại Bồ Tát thiên nhãn thấy như
tứ Thiên Vương đã thấy, hoặc như
Đao Lợi Thiên, như
Dạ Ma Thiên, như
Đâu Suất Thiên,
như Hóa Lạc Thiên, như Tha Hóa Thiên, như
Phạm Thiên Vương nhẫn đến như
Sắc Cứu Cánh Thiên đã thấy.
Thiên nhãn của
đại Bồ Tát lại thấy
chúng sanh trong
hằng sa thế giới chết nơi đây sanh nơi kia. Chỗ thấy nầy
chư Thiên và Tứ Vương đến cõi
Sắc Cứu Cánh Thiên chẳng biết, chẳng thấy được và cũng chính là
thiên nhãn thanh tịnh của
đại Bồ Tát.
Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
huệ nhãn thanh tịnh của đại Bồ Tát?
Nầy
Xá Lợi Phất!
Huệ nhãn của
đại Bồ Tát chẳng nghĩ rằng có những pháp là
hữu vi, là
vô vi, là
thế gian, là
xuất thế gian, là
hữu lậu, là
vô lậu, mà
không pháp nào chẳng thấy,
không pháp nào chẳng nghe,
không pháp nào chẳng hay,
không pháp nào chẳng biết. Đây là
huệ nhãn thanh tịnh của
đại Bồ Tát.
Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
pháp nhãn thanh tịnh của đại Bồ Tát?
Nầy
Xá Lợi Phất!
Do nơi pháp nhãn,
đại Bồ Tát biết người nầy là
tùy tín hành, người nầy là
tùy pháp hành, người nầy là
vô tướng hành, cũng biết người nầy tu môn
không giải thoát, người nầy tu môn
vô tướng giải thoát, người nầy tu môn
vô tác giải thoát, người nầy được
ngũ căn, do được
ngũ căn mà được
vô gián tam muội. do được
vô gián tam muội mà được trí
giải thoát, do được trí
giải thoát mà dứt trừ
tam kiết, là thấy có ngã,
nghi ngờ và
giới thủ, người nầy được gọi là quả
Tu Đà Hoàn.
Bồ Tát cũng biết người nầy được
tư duy đạo làm mỏng bớt
tham sân si, được quả
Tư Đà Hàm, người nầy tăng tấn
tư duy đạo dứt
tham sân si Dục giới, được quả
A Na Hàm, người nầy tăng tấn
tư duy đạo dứt
tham sân si mạn
Sắc giới và
Vô sắc giới, được quả
A La Hán.
Bồ Tát cũng biết người nầy tu môn
giải thoát không vô tướng,
vô tác được
ngũ căn, được
vô gián tam muội mà được trí
giải thoát, do trí
giải thoát biết rõ bao nhiêu
phiền não nghiệm nhơn tích tập đều là
pháp tịch diệt, được quả
Bích Chi Phật.
Pháp nhãn thanh tịnh của
Bồ Tát thấy như vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Do nơi pháp nhãn,
đại Bồ Tát biết người nầy
sơ phát tâm bồ đề thật hành
sáu ba la mật thành tựu tín căn và
tinh tấn căn, người nầy
thiện căn thuần hậu, vì
dùng sức phương tiện mà thọ thân để
lợi ích chúng sanh: hoặc sanh lòng
Sát Đế Lợi, hoặc sanh dòng
Bà La Môn, hoặc sanh dòng
Cư Sĩ, hoặc sanh
cõi trời Tứ Vương, trời Đau Lợi, trời
Dạ Ma,
trời Đâu Suất,
trời Hóa Lạc,
trời Tha Hóa, luôn
giáo hóa thành tựu chúng sanh và
cấp thí cho họ đầy đủ mọi thứ
cần dùng,
đồng thời thanh tịnh Phật độ,
cung kính cúng dường chư Phật mãi đến đạo
Vô thượng Bồ đề chẳng sa vào bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật.
Pháp nhãn thanh tịnh của
Bồ Tát thấy biết như vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Do nơi pháp nhãn,
đại Bồ Tát biết vị
Bồ Tát nầy thối chuyễn nơi đạo
Vô thượng Bồ đề, vị
Bồ Tát nầy không thối chuyễn, vị
Bồ Tát nầy đã được
thọ ký làm Phật, vị
Bồ Tát nầy chưa được
thọ ký, vị
Bồ Tát nầy đã đến bực
bất thối chuyễn, vị
Bồ Tát nầy chưa đến bực
bất thối chuyễn, cũng biết vị
Bồ Tát nầy đầy đủ
thần thông bay đến
mười phương hằng sa thế giới,
cung kính cúng dường chư Phật, cũng biết vị nầy chưa được
thần thông rồi sẽ được
thần thông, cũng biết vị nầy
thanh tịnh Phật độ, vị nầy chưa
thanh tịnh Phật độ, vị nầy
thành tựu chúng sanh, vị nầy chưa
thành tựu chúng sanh, vị nầy được chư Phật khen ngợi, vị nầy chưa được chư Phật khen ngợi, vị nầy hầu hạ chư Phật, vị nầy
không hầu hạ gần chư Phật, vị nầy
thọ mạng vô lượng, vị nầy
thọ mạng hữu lượng, vị
Bồ Tát nầy lúc thật
hành Phật chúng
Tỳ Kheo hữu lượng, vị nầy chúng
Tỳ Kheo vô lượng, vị nầy lúc thật
hành Phật dùng
Bồ Tát làm Tăng, vị nầy không dùng
Bồ Tát làm Tăng, vị nầy
tu khổ hạnh khó làm, vị nầy không
tu khổ hạnh khó làm, vị nầy là nhứt sanh
bổ xứ, vị nầy chưa nhứt sanh
bổ xứ, vị nầy thọ thân
tối hậu, vị nầy chưa thọ thân
tối hậu, vị nầy ngồi
đạo tràng, vì nầy không thể ngồi
đạo tràng, vị nầy có
phá ma, vì nầy không có ma. Những sự thấy biết nầy là
pháp nhãn thanh tịnh của
đại Bồ Tát.
Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
Phật nhãn thanh tịnh của đại Bồ Tát?
Nầy
Xá Lợi Phất! Có
đại Bồ Tát từ nơi tâm cầu
Phật đạo tuần tự nhập
Kim cang tam muội được nhứt thiết
chủng trí, bấy giờ
thành tựu thập lực,
tứ vô sở úy,
tứ vô ngại trí,
thập bát bất cộng pháp,
đại từ,
đại bi. Dùng nhứt thiết
chủng trí, trong tất cả pháp,
không pháp nào chẳng thấy, chẳng nghe, chẳng hay, chẳng biết. Nên biết đây là
Phật nhãn thanh tịnh lúc
đại Bồ Tát được
Vô thượng Bồ đề.
Nầy
Xá Lợi Phất! Muốn được
ngũ nhãn thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Tại sao vậy? Vì trong
sáu ba la mật nhiếp tất cả
thiện pháp, những là
Thanh Văn pháp,
Bích Chi Phật pháp,
Bồ Tát pháp và
Phật pháp.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nếu có thiệt ngữ có thể nhiếp tất cả
thiện pháp, thời chính đó là
Bát nhã ba la mật.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Bát nhã ba la mật hay phát sanh
ngũ nhãn.
Bồ Tát học
ngũ nhãn thời được
Vô thượng Bồ đề.
Nầy
Xá Lợi Phất! Có
đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật tu
thần thông ba la mật, do đây được những sự
như ý. Như là
chấn động đại địa, biến một thân làm
vô số thân,
vô số thân
hoàn lại một thân, hoặc ẩn hoặc hiện đều
tự tại, đi qua núi vách cây đá không
chướng ngại như đi trong
hư không, đi trên mặt nước như đi trên đất bằng, đi trong
không gian như chim bay, vào ra trong đất đá như trồi hụp trong nước, trong thân tuôn lửa, tuôn nước như đống lửa to, như nguồn suối trên núi tuyết, có thể lấy tay rờ mặt nhựt, mặt nguyệt, có thể rờ đến
Phạm Thiên,
thân thể luôn được
tự tại. Dầu hiện những
thần thông như ý mà
đại Bồ Tát nầy chẳng thấy có
thần thông, chẳng thấy có sự
thần thông cũng chẳng thấy có thân, tất cả đều
bất khả đắc, vì là
tự tánh không,
tự tánh ly,
tự tánh vô sanh. Thế nên
đại Bồ Tát nầy chẳng nghĩ rằng ta được
như ý thần thông, trừ khi vì tâm
nhứt thiết trí.
Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát được
như ý thần thông trí chứng như vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Vì
thiên nhĩ thanh tịnh hơn nhơn nhĩ,
Bồ Tát nầy nghe hai thứ tiếng: tiếng của
cõi trời và tiếng của
loài người. Dầu như vậy nhưng
Bồ Tát nầy cũng chẳng thấy có
thiên nhĩ thần thông.
Thiên nhĩ cùng
âm thanh và thân mình đều
bất khả đắc. Vì là
tự tánh không,
tự tánh ly,
tự tánh vô sanh nên
Bồ Tát chẳng nghĩ rằng ta có
thiên nhĩ, trừ khi vì tâm
nhứt thiết trí.
Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật Bồ Tát nầy được
thiên nhĩ thần thông trí chứng như vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát nầy biết đúng như thiệt tâm của những
chúng sanh khác. Nếu là
dục tâm,
sân tâm,
si tâm, khác
ái tâm, thọ tâm,
tán tâm,
loạn tâm,
tiểu tâm, bất
giải thoát tâm, hữu
thượng tâm, thời
Bồ Tát nầy biết đúng là
dục tâm nhẫn đến biết đúng là hữu
thượng tâm. Nếu là
ly dục tâm, ly
sân tâm, ly
si tâm, vô khác
ái tâm,
vô thọ tâm,
nhiếp tâm,
định tâm,
đại tâm,
giải thoát tâm,
vô thượng tâm, thời
Bồ Tát nầy biết là đúng là tâm
ly dục nhẫn đến biết đúng là tâm
vô thượng. Dầu biết đúng như thiệt nhưng
Bồ Tát nầy chẳng thấy có những tâm ấy. Tại sao vậy? Vì tâm ấy chẳng phải có thiệt
tâm tướng, vốn là chẳng thể nghĩ bàn. Vì là
tự tánh không,
tự tánh ly,
tự tánh vô sanh nên
Bồ Tát nầy chẳng nghĩ rằng ta được
tha tâm trí chứng, trừ ki vì tâm
nhứt thiết trí.
Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
Bồ Tát nầy được tha
tâm thần thông
trí chứng như vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát dùng
túc mạng trí chứng
thần thông nhớ một ngày, một tháng, một năm, một kiếp nhẫn đến nhớ
vô số trăm ngàn muôn
ức kiếp ta ở chỗ đó, tên họ đó, sanh hoạt
ăn uống như vậy, sống bao lâu, bị khổ hưởng vui như vậy, từ chỗ đó chết sanh đến chỗ kia, từ chỗ kia chết sanh đến chỗ đó, có tướng dạng, có
nhơn duyên như vậy nhưng
Bồ Tát nầy chẳng thấy có
túc mạng thần thông, chẳng thấy có sự
túc mạng thần thông và thân mình. Tất cả đều
bất khả đắc. Vì là
tự tánh không,
tự tánh ly,
tự tánh vô sanh nên
Bồ Tát nầy chẳng nghĩ rằng ta có
túc mạng thần thông, trừ lúc vì tâm
nhứt thiết trí.
Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
Bồ Tát nầy được
túc mạng thần thông trí chứng như vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát nầy dùng
thiên nhãn thấy những
chúng sanh lúc sau, lúc tử thân đẹp hay xấu, chỗ ở tốt hay xấu, hoặc thân lớn hoặc thân nhỏ, cũng thấy
chúng sanh theo
nhơn duyên của nghiệp, có những
chúng sanh vì
thân khẩu ý ác nghiệp thành tựu nên hủy báng
hiền thánh, do
nhân duyên tà kiến mà khi chết phải đọa
ác đạo sanh trong
địa ngục, có những
chúng sanh thân, khẩu, ý
thiện nghiệp thành tựu mà kính tin
hiền thánh, do
nhân duyên chánh kiến mà khi chết được vào
thiện đạo sanh lên các
cõi trời. dầu thấy biết như
vậy mà Bồ Tát nầy chẳng thấy có
thiên nhãn thần thông cùng sự
thiên nhãn thần thông và thân mình. Tất cả đều
bất khả đắc. Vì là
tự tánh không,
tự tánh lý,
tự tánh vô sanh nên
Bồ Tát nầy chẳng nghĩ rằng ta có
thiên nhãn thần thông, trừ lúc vì tâm
nhất thiết trí.
Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
Bồ Tát nầy được
thiên nhãn thần thông trí chứng như vậy.
Bồ Tát nầy cũng thấy rõ
chúng sanh trong
hằng sa thế giới ở
mười phương chết đây sanh kia nhẫn đến sanh lên các
cõi trời, tất cả bốn
thần thông đều có
công năng thấu suốt như vậy. Đây là
lậu tận thần thông của
Bồ Tát. Dầu được
lậu tận thần thông mà
Bồ Tát nầy chẳng sa vào hàng
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, mãi đến quả
vô thượng Bồ đề vẫn chẳng y
cú pháp nào khác ngoài
Bát nhã ba la mật.
Bồ Tát nầy cũng chẳng thấy có
lậu tận thần thông cùng sự
lậu tận thần thông và thân mình. Tất cả đều
bất khả đắc. Vì là
tự tánh không,
tự tánh ly,
tự tánh vô sanh nên
Bồ tát nầy chẳng nghĩ ta được
lậu tận thần thông, trừ lúc vì
nhất thiết trí.
Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
Bồ Tát nầy được
lậu tận thần thông trí chứng như vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát đầy đủ
thần thông ba la mật, do đây mà quả
vô thượng Bồ đề được
tăng ích.
Nầy
Xá Lợi Phất! Có
đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật an trụ trong
Đàn na ba la mật để
thanh tịnh nhất thiết chủng trí, vì
rốt ráo rỗng không, chẳng sanh tâm xan lẫn vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Có
đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật an trụ trong
Thi la ba la mật để
thanh tịnh nhất thiết chủng trí, vì
rốt ráo rỗng không, chẳng dích mắc nơi có tội cùng chẳng có tội vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Có
đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật an trụ trong
Sằn đề ba la mật để
thanh tịnh nhất thiết chủng trí, vì
rốt ráo rỗng không, chẳng
sân hận vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Có
đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật an trụ trong Tỳ lê gia
ba la mật để
thanh tịnh nhất thiết chủng trí, vì
rốt ráo rỗng không,
thân tâm luôn
tinh tấn, chẳng trễ lười thôi nghĩ vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Có
đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật an trụ trong
Thiền na ba la mật để
thanh tịnh nhất thiết chủng trí, vì
rốt ráo rỗng không, chẳng
loạn động, chẳng say sưa
thiền vị vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Có
đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật an trụ trong
Bát nhã ba la mật để
thanh tịnh nhất thiết chủng trí, vì
rốt ráo rỗng không, chẳng sanh tâm ngu su vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát lúc thật
hành bát nhã
ba la mật an trụ trong
sáu ba la mật như vậy để
thanh tịnh nhất thiết chủng trí, vì
rốt ráo rỗng không, vì chẳng đến chẳng đi, vì chẳng thí chẳng thọ, vì chẳng phải
giới cấm chẳng phải
phạm tội, vì chẳng phải nhẩn chẳng phải sân, vì chẳng phải siêng năng chẳng phải lười, vì chẳng định chẳng loại, vì chẳng trí chẳng ngu vậy. Bấy giờ
đại Bồ Tát chẳng
phân biệt bố thí cùng chẳng
bố thí, chẳng
phân biệt trì giới cùng
phạm giới, chẳng
phân biệt nhẫn nhục cùng
sân khuể, chẳng
phân biệt tinh tấn cùng
giải đãi, chẳng
phân biệt định tâm cùng loại tâm, chẳng
phân biệt trí tuệ cùng
ngu si, chẳng
phân biệt hủy hại khinh mạn cùng
cung kính tôn trọng.
Tại sao vậy? Vì trong pháp
vô sanh chẳng có ai
lãnh thọ sự hủy hoại, không có ai
lãnh thọ sự khinh mạn hay
cung kính.
Nầy
Xá Lợi Phất! Thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát dược những
công đức như vậy. hàng
Thanh Văn và
Bích Chi Phật không có được những
công đức nầy. Do đây
đại Bồ Tát đầy đủ
thành tựu chúng sanh,
thanh tịnh Phật độ, được
nhất thiết chủng trí.
Nầy
Xá Lợi Phất! Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật, ở trong tất cả
chúng sanh đại Bồ Tát sanh
tâm bình đẳng. Đã sanh
tâm bình đẳng đối với tất cả
chúng sanh,
Bồ Tát được
pháp bình đẳng. Đã được tất cả
pháp bình đẳng,
Bồ Tát đặt để tất cả
chúng sanh trong
pháp bình đẳng đó.
Đại Bồ Tát nầy hiện đời được
chư Phật mười phương yêu mến, cũng được tất cả
Bồ Tát,
Bích Chi Phật,
Thanh Văn kính mến.
Bất luận thọ sanh ở chỗ nào,
đại Bồ Tát nầy, trong
nhãn căn thẳng thấy có sắc cũng chẳng ái sắc, nhẫn đến trong
ý căn chẳng biết có pháp cũng chẳng
ái pháp.
Nầy
Xá Lợi Phất!?
Đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật như vậy chẳng tổn giảm
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Lúc
đức Phật giảng thuyết phẩm
Bát nhã ba la mật, trong
pháp hội có ba trăm
Tỳ Kheo đứng dậy dâng y
cúng dường đức Phật và
phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Đức Phật mỉm cười, từ miệng Phật chiếu ra những ánh sáng nhiều màu.
Ngài
A Nan liền
đứng dậy sửa
y phục quỳ gối
chắp tay bạch
đức Phật hỏi
duyên cớ mà
đức Phật mỉm cười.
Đức Phật nói: "Nầy A Nan! Sáu mươi mốt
kiếp sau, ba trăm
Tỳ Kheo nầy sẽ
thành Phật hiệu là
Đại Tướng. Sau khi bỏ thân nầy, ba trăm
Tỳ Kheo đây sẽ sanh về cõi nước của
đức Phật A Súc, cùng với sáu vạn
thiên tử Dục giới đồng
phát tâm Vô thượng Bồ đề, sẽ
xuất gia tu hành Phật đạo trong
chánh pháp của
đức Phật Di Lặc.
Bấy giờ do
oai thần của Phật mà hàng
tứ chúng trong
pháp hội thấy ngàn
đức Phật ở mỗi phương trong
mười phương,
quốc độ trong
mười phương ấy đều
nghiêm tịnh hơn
cõi Ta Bà nầy. Có mười ngàn người
phát nguyện tu
tịnh hạnh để sanh về
thế giới của chưu Phật đó.
Đức Phật biết
tâm nguyện của chúng
thiện nam tử nầy nên lại
mỉm cười, từ miệng Phật phóng ra những ánh sáng.
Ngài
A Nan bạch
đức Phật hỏi
duyên cớ.
Đức Phật nói mười ngàn người ấy sẽ sanh về các
thế giới mười phương, mãi không rời chư Phật. Sau đây sẽ đều
thành Phật, đồng hiệu là
Trang Nghiêm Vương Như Lai.
PHẨM TÁN THÁN BA LA MẬT
THỨ NĂM
Bấy giờ các Ngài
Xá Lợi Phất,
Đại Mục Kiền Liên,
Tu Bồ Đề,
Ma Ha Ca Diếp cùng chúng
đại Tỳ Kheo, chúng
đại Bồ Tát, chúng
Ưu Bà Tắc, chúng
Ưu Bà Di đứng dậy quỳ gối
chấp tay thưa rằng: "Bạch đức Thế Tôn!
Ma ha ba la mật là
Bát nhã ba la mật của
đại Bồ Tát. Tôn
ba la mật,
đệ nhứt ba la mật, thắng
ba la mật, diệu
ba la mật,
vô thượng ba la mật,
vô đẳng ba la mật,
vô đẳng đẳng ba la mật, như
hư không ba la mật đều là
Bát nhã ba la mật của
đại Bồ Tát.
Bạch đức Thế Tôn!
Tự tướng không ba la mật,
tự tánh không ba la mật,
chư pháp không ba la mật,
vô pháp hữu pháp không ba la mật, khai nhứt thiết
công đức ba la mật,
thành tựu nhứt thiết
công đức ba la mật, bất khả hoại
ba la mật đều là
Bát nhã ba la mật của
đại Bồ Tát Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật nầy làm
vô đẳng đẳng bố thí, đầy đủ
vô đẳng đẳng Đàn na ba la mật, được
vô đẳng đẳng thân và
vô đẳng đẳng pháp, đây chính là
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Như
Đàn na ba la mật, năm
ba la mật kia cũng vậy.
Đức Thế Tôn cũng vốn đã thật
hành Bát nhã
ba la mật nầy mà đầy đủ
sáu ba la mật, được
vô đẳng đẳng pháp được
vô đẳng đẳng sắc, thọ, tưởng, hành, thức,
thành Phật chuyển
vô đẳng đẳng pháp luân.
Quá khứ chư Phật cũng thật
hành bát nhã
ba la mật nầy mà đầy đủ
vô đẳng đẳng bố thí nhẫn đến chuyển
vô đẳng đẳng pháp luân.
Vị lai chư Phật cũng thật
hành Bát nhã
ba la mật nầy sẽ đầy đủ
vô đẳng đẳng bố thí nhẫn đến sẽ chuyển
vô đẳng đẳng pháp luân.
Vì thế nên
chư đại Bồ Tát muốn vượt đến tất cả pháp
bỉ ngạn phải thật
hành Bát nhã
ba la mật.
Bạch đức Thế Tôn! Tất cả
thế gian, hàng Trời, Người và
A tu la đều phải
lễ kính cúng dường đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật.
Đức Phật nói: "Đúng như vậy! Đúng như vậy! Nầy các
thiện nam tử! Tất cả
thế gian hàng Trời, Người và
A tu la đều phải
lễ kính cúng dường người thật
hành Bát nhã
ba la mật. Tại sao vậy? Vì nhơn nơi
Bồ Tát nầy qua lại mà
thế gian xuất sanh các
thiện đạo như
loài Người, loài Trời từ
Tứ Thiên Vương đến
Sắc Cứu Cánh Thiên, cũng xuất sanh
Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm,
A La Hán,
Bích Chi Phật và chư Phật. Nhơn nơi
Bồ Tát nầy qua lại mà
thế gian xuất sanh những thứ
cần dùng như đồ uống ăn,
y phục, đèn đuốc, phòng nhà ,
châu báu.
Nầy
Xá Lợi Phất! Tất cả những thứ
vui thích của
thế gian hoặc là
dục lạc hay
ly dục lạc trong nhơn gian hay trên các
cõi trời đều là do
Bồ Tát nầy mà có.
Tại sao vậy? Vì lúc thật hành
Bồ Tát đạo,
đại Bồ tát nầy an trụ nơi
sáu ba la mật, tự làm
bố thí cũng đem sự
bố thí để
thành tựu chúng sanh, nhẫn đến tự làm
Bát nhã ba la mật và cũng đem
Bát nhã ba la mật để
thành tựu chúng sanh.
Nầy
Xá Lợi Phất! Thế nên vì
an lạc tất cả
chúng sanh mà
đại Bồ Tát xuất hiện thế gian vậy.
PHẨM TƯỚNG LƯỠI
THỨ SÁU
Bấy giờ
đức Thế Tôn hiện tướng lưỡi rộng dài
trùm khắp Đại Thiên thế giới. Từ nơi tướng lưỡi phóng ra
vô số ánh sáng,
vô lượng màu chiếu suốt
hằng sa thế giới ở
mười phương.
Đông phương, trong
hằng sa thế giới có
vô lượng vô số Bồ Tát thấy ánh sáng nầy đều bạch hỏi
đức Phật của mình về ánh sáng ấy. Chư
Phật bảo đó là từ tướng lưỡi của đức
Thích Ca Mâu Ni Như Lai ở
Ta Bà thế giới phương Tây phóng ra ánh sáng ấy để vì
chư đại Bồ Tát mà thuyết
Bát nhã ba la mật.
Như phương Đông chín phưong kia chư
Bồ Tát bạch hỏi và chư Phật
giải đáp cũng vậy.
Chư
Bồ Tát ở
mười phương đều bạch cùng
đức Phật của mình cầu được đến
Ta Bà để
kính lễ Thích Ca Mâu Ni Phật cùng gặp gỡ
chư đại Bồ Tát và nghe
Bát nhã ba la mật. Chư Phật đều bằng lòng.
Chư
Bồ Tát ở
mười phương đem theo những hoa báu, hương báu,
tràng phan bửu cái,
vàng bạc,
châu ngọc đến
Ta Bà thế giới.
Chư Thiên ở cõi Tứ Vướng đến
Sắc Cứu Cánh Thiên cũng đem những hoa trời, hương trời, cây trời, lá trời cùng nhiều loại
hoa sen cõi trời, đồng đến chỗ
Thích Ca Mâu Ni Phật.
Những hoa của
chư đại Bồ Tát và của
Chư Thiên rải
cúng dường đều dừng
ở không gian
hóa thành đài báu có bốn trụ nhiều màu sắc rất
trang nghiêm.
Trong
chúng hội của
Thích Ca Mâu Ni Phật có mười vạn ức người đều
đứng dậy chấp tay thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Đời
vị lai,
chúng tôi cũng sẽ được những
pháp như Thích Ca Mâu Ni Phật,
chúng hội đệ tử và
thuyết pháp cũng vậy”.
Vì biết
đại chúng nầy
chí tâm nơi pháp
bất sanh,
bất diệt, bất xuất, bất tác đã được
pháp nhẫn nên
đức Phật mỉm cười, từ miệng
đức Phật phóng ra những ánh sáng nhiều màu.
Ngài
A Nan bạch Phật hỏi
duyên cớ.
Đức Phật nói: "Nầy A Nan! Mười vạn ức người nầy đã được
vô sanh nhẫn, sáu mươi tám
ức kiếp sau sẽ được
thành Phật nơi kiếp Hoa Tích, đồng hiệu là
Giác Hoa Như Lai"
PHẨM TAM GIẢ
THỨ BẢY
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: "Ông nên dạy
chư đại Bồ tát về
Bát nhã ba la mật đúng như
chư đại Bồ Tát đáng phải thành tựu”.
Liền đó
toàn thể chúng hội Bồ Tát,
Thanh Văn, chư Nhơn, Thiên đều nghĩ rằng Ngài
Tu Bồ Đề sẽ tự dùng
trí tuệ của Ngài hay là nương
thần lực của
đức Phật mà
giảng thuyết Bát nhã ba la mật cho chư đại Bồ Tát?
Biết
quan niệm của
chúng hội, Ngài
Tu Bồ Đề nói với Ngài
Xá Lợi Phất:
"Phàm hàng
Thanh Văn đệ tử có
thuyết pháp, có
giáo thọ đều là nương
thần lực của
đức Phật cả”.
Lời của Phật giảng dạy chẳng
trái với pháp tướng, như
ngọn đèn sáng. Các
thiện nam tử tu học theo pháp ấy được
chứng pháp ấy.
Hàng
Thanh Văn và
Bích Chi Phật thiệt không có khả năng
giảng thuyết Bát nhã ba la mật cho
chư đại Bồ Tát.
Ngài
Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Chư
Bồ Tát đã nói đó, pháp gì gọi là Bồ Tát?
Chúng con chẳng thấy
pháp chính xác nào gọi là
Bồ Tát, thời thế nào dạy
Bồ Tát về
Bát nhã ba la mật?
Đức Phật nói: "Nầy Tu Bồ Đề! thật ra chỉ có
danh tự gọi là
Bát nhã ba la mật.
Bồ Tát cùng tên
Bồ Tát cũng chỉ có
danh tự mà thôi.
Danh tự nầy chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở
trung gian.
Nầy Tu Bồ Đề!
Ví như nói ngã,
chúng sanh,
thọ giả, mạng giả, sanh giả,
tri giả,
kiến giả,
tác giả,
khởi giả, đều là những pháp do hoà hiệp mà có. Những tên gọi đây vốn là
bất sanh,
bất diệt, chỉ dùng
danh tự thế gian để nói.
Cũng vậy
Bát nhã ba la mật cùng
Bồ Tát và tên
Bồ Tát đều do hòa hiệp mà có, cũng vốn là
bất sanh,
bất diệt, chỉ dùng
danh tự thế gian để nói.
Ví như thân thể do hòa hiệp mà có, sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng do hòa hiệp mà có, đều là
bất sanh,
bất diệt, chỉ dùng
danh tự thế gian để nói.
Bát nhã ba la mật cùng
Bồ Tát và tên
Bồ Tát cũng như vậy.
Nầy Tu Bồ Đề!
Ví như nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp,
nhãn giới,
nhĩ giới nhẫn đến
ý thức giới, tất cả
thập nhị xứ cùng
thập bát giới ấy, đều do hòa hiệp mà có, vốn là
bất sanh,
bất diệt, chỉ dùng
danh tự thế gian để nói. Những thứ ấy chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở
trung gian.
Cũng vậy,
Bát nhã ba la mật cùng
Bồ Tát và tên
Bồ Tát đều do hòa hiệp mà có, vốn là
bất sanh,
bất diệt, chỉ dùng
danh tự thế gian để nói, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở
trung gian,
Nầy Tu Bồ Đề!
Ví như nội thân gọi là đầu, cổ, vai, cánh, lưng, hông, vế, chân,
ngoại vật gọi là cỏ, cây, nhánh, lá, cọng, mắt, đều do hòa hiệp mà có, vốn là
bất sanh,
bất diệt, chỉ dùng
danh tự thế gian để nói, cũng chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở
trung gian.
Bát nhã ba la mật cùng
Bồ Tát và tên
Bồ Tát cũng như vậy, đều do hòa hiệp mà có, vốn là
bất sanh,
bất diệt, chỉ dùng
danh tự thế gian để nói, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở
trung gian.
Nầy Tu Bồ Đề!
Ví như danh hiệu của chư Phật
quá khứ do hòa hiệp mà có, cũng là
bất sanh,
bất diệt, chỉ dùng
danh tự để nói, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở
trung gian.
Bát nhã ba la mật cùng
Bồ Tát và tên
Bồ Tát cũng như vậy.
Ví như bóng vang,
mộng ảo, diệm hóa đều do hòa hiệp mà có, chỉ dùng
danh tự để nói, những thứ ấy cùng
danh tự vốn là
bất sanh,
bất diệt, chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, chẳng phải
trung gian.
Bát nhã ba la mật cùng
Bồ Tát và tên
Bồ Tát cũng như vậy, đều do hòa hiệp mà có, là
bất sanh,
bất diệt, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở
trung gian.
Nầy Tu Bồ Đề! Phải học tập
như vầy:
Đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật,
danh tự của
Bát nhã ba la mật cùng sự nhẫn thọ
Bát nhã ba la mật và
chính pháp Bát nhã ba la mật đều là giả thi thiết cả.
Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát chẳng thấy sắc
danh tự cùng thọ, tưởng, hành, thức
danh tự là thường, là
vô thường, là khổ, là lạc, là ngã, là
vô ngã, là cấu, là tịnh, cũng chẳng thấy
danh tự năm uẩn nầy là không, là
vô tướng, là
vô tác, là
tịch diệt, là sanh, là diệt, là ở trong, ở ngoài, ở
trung gian.
Như
năm uẩn,
nhãn căn,
sắc trần,
nhãn thức, nhãn xúc sanh ra những
cảm thọ, nhẫn đến
ý căn,
pháp trần,
ý thức, ý xúc cùng
nhơn duyên của ý xúc sanh ra những
cảm thọ cũng vậy.
Đại Bồ Tát đều chẳng thấy là thường, là
vô thường nhẫn đến chẳng thấy ở
trung gian.
Tại sao vậy? Vì lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát ở trong tánh
hữu vi, trong tánh
vô vi đều không thấy
Bát nhã ba la mật cùng
Bồ Tát và tên
Bồ Tát. Đối với những pháp nầy,
đại Bồ Tát chẳng móng niệm
phân biệt.
Thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát nầy an trụ trong
bất hoại pháp, lúc tu
tứ niệm xứ cho đến lúc tu
mười tám pháp bất cọng, chẳng thấy
Bát nhã ba la mật cùng
danh tự của
Bát nhã ba la mật chẳng thấy
Bồ Tát cùng
danh tự của
Bồ Tát.
Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát chỉ biết thiện tướng của các pháp.
Thiệt tướng nầy là chẳng cấu, chẳng tịnh.
Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật đại Bồ Tát phải biết
danh tự là giả thi thiết. Đã biết
danh tự là giả thi thiết rồi thời chẳng
chấp trước nơi sắc, thọ tưởng, hành, thức, chẳng
chấp trước nơi nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, chẳng
chấp trước nơi
nhãn giới đến
ý thức giới, chẳng
chấp trước nơi nhãn xúc cùng
nhơn duyên của xúc đến ý xúc cùng
nhơn duyên của ý xúc sanh ra sự
cảm thọ hoặc khổ, hoặc lạc, hoặc bất khổ,
bất lạc, chẳng
chấp trước tánh
hữu vi, tánh
vô vi, chẳng
chấp trước Đàn na,
Thi la,
Sằn đề, Tỳ lê gia,
Thiền na và
Bát nhã ba la mật, chẳng
chấp trước ba mươi hai tướng, chẳng
chấp trước thân
Bồ Tát, chẳng
chấp trước nhục nhãn,
thiên nhãn,
huệ nhãn,
pháp nhãn,
Phật nhãn, chẳng
chấp trước trí ba la mật,
thần thông ba la mật, chẳng
chấp trước nội không nhẫn đến
vô pháp hữu pháp không, chẳng
chấp trước thành tựu chúng sanh, chẳng
chấp trước thanh tịnh Phật độ? , chẳng
chấp trước pháp
phương tiện.
Tại sao vậy? Vì những pháp nầy đều là rỗng không nên chẳng có người
chấp trước, chẳng có
pháp bị chấp trước, chẳng có chỗ
chấp trước.
Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát chẳng
chấp trước tất cả pháp bèn
tăng ích sáu ba la mật lên bực
Bồ Tát bất thối chuyển, đủ đại
thần thông đến
Phật độ nầy đến
Phật độ kia để
cúng dường chư Phật,
độ thoát chúng sanh,
thanh tịnh Phật quốc, cũng để nghe chư
Phật thuyết pháp. Nghe xon nhớ mãi đến lúc thành
Vô thượng Bồ đề vẫn chẳng quên, được những môn
đà la ni cùng những môn
tam muội.
Thế nên
đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật phải biết rõ các
pháp danh tự là giả thi thiết.
Nầy Tu Bồ Đề! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức có phải là
Bồ Tát chăng?
Không phải. Bạch đức Thế Tôn!
Nầy Tu Bồ Đề! Nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp,
nhãn thức,
nhĩ thức, tĩ thức,
thiệt thức,
thân thức,
ý thức có phải là
Bồ Tát chăng?
Không phải. Bạch đức Thế Tôn!
Nầy Tu Bồ Đề!
Địa chủng, thủy chủng, hỏa chủng, phong chủng, không chủng, thức chủng có phải là
Bồ Tát chăng?
Không phải. Bạch đức Thế Tôn!
Nầy Tu Bồ Đề!
Vô minh, hành thức,
danh sắc,
lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão, tử có phải là
Bồ Tát chăng?
Không phải. Bạch đức Thế Tôn!
Nầy Tu Bồ Đề!
Như như tướng của
ngũ uẩn nhẫn đến
như như tướng của
thập nhị nhơn duyên có phải là
Bồ Tát chăng?
Không phải. Bạch đức Thế Tôn!
Nầy Tu Bồ Đề! Rời ngoài
như như tướng ấy có phải là
Bồ Tát chăng?
Không phải. Bạch đức Thế Tôn!
Nầy Tu Bồ Đề! Ông thấy nghĩa gì mà cho rằng tất cả những pháp kể trên và ly những pháp ấy không phải là
Bồ Tát như vậy?
Bạch đức Thế Tôn!
Chúng sanh còn
rốt ráo bất khả đắc huống lại là
Bồ Tát. Sắc còn
bất khả đắc huống là sắc hay rời sắc là
Bồ Tát, huống là
như như tướng của sắc hay rời
như như tướng của sắc là
Bồ Tát. Nhẫn đến
thập nhị nhơn duyên hay rời
thập nhị nhơn duyên là
Bồ Tát, huống là
như như tướng hay rời
như như tướng của
thập nhị nhơn duyên là
Bồ Tát.
Lành thay,
lành thay! Đúng như vậy. Nầy Tu Bồ Đề! Vì
đại Bồ Tát và
chúng sanh bất khả đắc nên
Bát nhã ba la mật cũng
bất khả đắc.
Cần phải học như vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức có phải là nghĩa của
Bồ Tát chăng?
Bạch đức Thế Tôn! Không phải.
Nầy Tu Bồ Đề! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức
thường vô thường, lạc, khổ, ngã
vô ngã có phải là nghĩa của
Bồ Tát chăng?
Bạch đức Thế Tôn! Không phải.
Nầy Tu Bồ Đề! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, không
phi không, tướng?
Vô tướng, tác
vô tác có phải là nghĩa của
Bồ Tát chăng? Nhẫn đến lão, tử cũng như vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Không phải.
Nầy Tu Bồ Đề! Ông thấy những nghĩa gì mà cho rằng
ngũ uẩn đến
thập nhị nhơn duyên không phải nghĩa của
Bồ Tát,
ngũ uẩn đến
thập nhị nhơn duyên,
thường vô thường nhẫn đến tác
vô tác đều không phải nghĩa của Bồ Tát?
Bạch đức Thế Tôn!
Ngũ uẩn đến
thập nhị nhơn duyên còn
rốt ráo bất khả đắc huống lại là nghĩa của
Bồ Tát.
Ngũ uẩn đến
thập nhị nhơn duyên, thường đến
vô tác còn
rốt ráo bất khả đắc huống lại là nghĩa của
Bồ Tát.
Lành thay,
lành thay! Đúng như vậy. Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật, nghĩa của sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nhẫn đến nghĩa
vô tác đều
bất khả đắc. Phải học
Bát nhã ba la mật như vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! Ông nói rằng ông không thấy có
pháp chính xác nào gọi là
Bồ Tát.
Phải biết rằng các pháp chẳng thấy các pháp. Các pháp chẳng thấy
pháp tánh.
Pháp tánh cũng chẳng thấy các pháp.
Pháp tánh chẳng thấy
địa chủng,
địa chủng chẳng thấy
pháp tánh, nhẫn đến thức chủng cũng như vậy.
Pháp tánh chẳng thấy nhãn và sắc cùng
nhãn thức tánh nhẫn đến
ý thức tánh, nhãn sắc,
nhãn thức tánh nhẫn đến
ý thức tánh cũng chẳng thấy
pháp tánh.
Nầy Tu Bồ Đề!
Hữu vi tánh chẳng thấy
vô vi tánh,
vô vi tánh cũng chẳng thấy
hữu vi tánh. Tại sao vậy? Vì rời
hữu vi chẳng thể nói
vô vi, rời
vô vi chẳng thể nói
hữu vi.
Đúng như vậy. Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật đối với các pháp đều không chỗ thấy. Bấy giờ
Bồ Tát không kinh sợ, chẳng
hối tiếc, tâm cũng chẳng
trầm một.
Tại sao vậy? Vì
đại Bồ Tát nầy chẳng thấy
ngũ uẩn,
thập nhị xứ,
thập bát giới nhẫn đến chẳng thấy
thập nhị nhơn duyên, chẳng thấy ngã
chúng sanh nhẫn đến
tri giả,
kiến giả, chẳng thấy
Dục giới,
Sắc giới,
Vô sắc giới, chẳng thấy
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, chẳng thấy
Bồ Tát và pháp của
Bồ Tát, chẳng thấy Phật,
Phật pháp và
Phật đạo.
Vì tất cả pháp đều chẳng thấy nên
Bồ Tát chẳng kinh sợ, chẳng
hối tiếc, chẳng
trầm một.
Bạch đức Thế Tôn! Do cớ gì mà tâm của
Bồ Tát nầy chẳng
hối tiếc, chẳng trầm một?
Nầy Tu Bồ Đề! Tất cả tâm và
tâm sở của
đại Bồ Tát đều
bất khả đắc và chẳng thể thấy. Vì thế nên tâm của
Bồ Tát chẳng
trầm một, chẳng
hối tiếc.
Bạch đức Thế Tôn! Do cớ gì mà tâm của
Bồ Tát chẳng kinh sợ?
Nầy Tu Bồ Đề! Ý và
ý thức của
Bồ Tát nầy đều
bất khả đắc và chẳng thể thấy. Vì thế nên
Bồ Tát chẳng kinh, chẳng sợ.
Đúng như vậy. Nầy Tu Bồ Đề! Vì tất cả pháp
bất khả đắc nên
đại Bồ Tát phải thật
hành Bát nhã
ba la mật.
Nầy Tu Bồ Đề! Tất cả nơi chỗ
đại Bồ Tát chẳng
Bát nhã ba la mật, chẳng thấy
Bồ Tát, chẳng thấy
danh dự Bồ Tát, cũng chẳng thấy tâm
Bồ Tát. Đây chính là dạy hàng
đại Bồ Tát.