KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT
Hán dịch: Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập - Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Viện Phật Học Phổ Hiền Xuất Bản PL. 2530 DL 1986 (Trọn bộ 3 tập)
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn hành P.L 2539 DL. 1995 (Trọn bộ 3 tập)
QUYỂN THỨ TƯ
PHẨM ẢO HỌC
THỨ MƯỜI MỘT
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Nếu sẽ có người hỏi rằng: Ảo nhơn học
Bát nhã ba la mật nhẫn đến
Đàn na ba la mật, ảo nhơn học
tứ niệm xứ nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng có được nhứt thiết
chủng trí chăng? Thời con sẽ phải
giải đáp thế nào?"
Đức Phật nói: "nầy Tu Bồ Đề! Phật hỏi lại ông,
tùy ý ông đáp lời Phật.
Nầy Tu Bồ Đề! Sắc với ảo có khác nhau chăng? Thọ, tưởng, hàng, thức với ảo có khác nhau chăng?"
Bạch đức Thế Tôn! Không khác.
Nầy Tu Bồ Đề! Nhãn đến ý, sắc đến pháp,
nhãn giới đến
ý thức giới củng cới ảo có khác nhau chăng?
Bạch đức Thế Tôn! Không khác.
Nầy Tu Bồ Đề!
Sáu ba la mật,
tứ niệm xứ đến mười
tám pháp bất cộng với ảo có khác nhau chăng?
Bạch đức Thế Tôn! Không khác nhau.
Nầy Tu Bồ Đề!
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác với ảo có khác nhau chăng?
Bạch đức Thế Tôn! Không khác. Tại sao vậy? Vì sắc chẳng khác ảo, ảo chẳng khác sắc, sắc tức là ảo, ảo tức là sắc. Nhẫn đến vì
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chẳng khác ảo ảo chẳng khác
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác,
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác tức là ảo, ảo tức là
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Nầy Tu Bồ Đề! Ảo có cấu, có tịnh chăng?
Bạch đức Thế Tôn! Không vậy.
Ngày Tu Bồ Đề! Ảo có sanh, có diệt chăng?
Bạch đức Thế Tôn! Không vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu ảo chẳng sanh, chẳng diệt, ảo nầy có thể học
Bát nhã ba la mật sẽ được nhứt thiết
chủng trí chăng?
Bạch đức Thế Tôn! Không vậy.
Nầy Tu Bồ Đề!
Ngũ ấm giả danh có sanh, diệt, cấu, tịnh chăng?
Bạch đức Thế Tôn! Phải.
Nầy Tu Bồ Đề!
Ngũ ấm giả danh có sanh, diệt, cấu, tịnh chăng?
Bạch đức Thế Tôn! Không vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu những
pháp chỉ có
danh tự, chẳng phải thân, ngữ, ý, chẳng phải
thân nghiệp,
ngữ nghiệp,
ý nghiệp, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng cấu, chẳng tịnh, thời có thể học
Bát nhã ba la mật được nhứt thiết
chủng trí chăng?
Bạch đức Thế Tôn! Không vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát có thể học
Bát nhã ba la mật như vậy thời sẽ được nhứt thiết
chủng trí. Tại sao vậy? Vì
vô sở đắc vậy.
Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát phải như
vậy mà học
Bát nhã ba la mật được
Vô thượng Bồ đề như ảo nhơn học. Tại sao vậy? Nên biết rằng
ngũ ấm tức là ảo nhơn, ảo nhơn tức là
ngũ ấm.
Nầy Tu Bồ Đề!
Ngũ ấm ấy học
Bát nhã ba la mật được nhứt thiết củng trí chăng?
Bạch đức Thế Tôn! Không vậy. Vì
ngũ ấm nầy tánh
vô sở hữu. Tánh
vô sở hữu cũng là
bất khả đắc.
Nầy Tu Bồ Đề!
Ngũ ấm như mộng, như ảnh, như hưởng, như dương diệm, như
biến hoá, học
Bát nhã ba la mật sẽ được nhứt thiết
chủng trí chăng?
Bạch đức Thế Tôn! Không vậy. Vì mộng tánh nhẫn đến
biến hóa tánh
vô sở hữu. Tánh
vô sở hữu cũng là
bất khả đắc.
Lục tình cũng như vậy.
Ngũ ấm tức là
lục tình,
lục tình tức là
ngũ ấm.
Vì những pháp ấy tức là
nội không, nhẫn đến
vô pháp hữu pháp không nên
bất khả đắc.
Bạch đức Thế Tôn!
Bồ Tát mới
phát tâm nghe nói
Bát nhã ba la mật có kinh sợ
rụt rè chăng?
Nầy Tu Bồ Đề!
Bồ Tát mới
phát tâm đối với
Bát nhã ba la mật,
nếu không phương tiện cũng chẳng gặp được bực
thiện tri thức, hoặc có kinh sợ, hoặc
rụt rè .
Bạch đức Thế Tôn! Gì là
phương tiện mà
Bồ Tát thật hành theo đó được chẳng kinh sợ,
rụt rè đối với
Bát nhã ba la mật?
Nầy Tu Bồ Đề! Có
Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật đúng với tâm nhứt thiết
chủng trí, quán tướng
vô thường của?
ngũ uẩn cũng
bất khả đắc. Đây gọi là có
phương tiện.
Quán tướng khổ, tướng
vô ngã tướng
vô tác của
ngũ uẩn cũng
bất khả đắc. Đây gọi là có
phương tiện.
Quán tướng ly, tướng
tịch diệt của
ngũ uẩn cũng
bất khả đắc. Đây gọi là
đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật có
phương tiện.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật quán tướng
vô thường của
ngũ uẩn cũng là
bất khả đắc, quán tướng khổ, tướng
vô ngã, tướng
vô tướng, tướng
vô tác, tướng ly, tướng
tịch diệt của
ngũ uẩn cũng là
bất khả đắc. Bấy giờ
đại Bồ Tát nghĩ rằng tôi nên vì tất cả
chúng sanh mà
giảng thuyết tướng
vô thường cũng là
bất khả đắc, tướng khổ, tướng
vô ngã nhẫn đến tướng
tịch diệt cũng là
bất khả đắc. Đây gọi là
đại Bồ Tát Đàn na ba la mật.
Lại nữa, nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát chẳng dùng tâm
Thanh Văn,
Bích Chi Phật để quán
ngũ uẩn,
vô thường cũng
bất khả đắc, nhẫn đến chẳng dùng tâm
Thanh Văn,
Bích Chi Phật để quán
ngũ uẩn,
tịch diệt cũng
bất khả đắc. Đây gọi là
đại Bồ Tát Thi ba la mật.
Lại nữa, nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật nhẫn thọ
ưa thích nơi tướng
vô thường, nhẫn đến tướng
tịch diệt của các pháp cũng là
bất khả đắc. Đây gọi là
đại Bồ Tát Sằn đề ba la mật.
Lại nữa, nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật đúng với tâm nhứt thiết
chủng trí, quán tướng
vô thường nhẫn đến tướng
tịch diệt của
ngũ uẩn cũng
bất khả đắc, chẳng rời bỏ, chẳng thôi nghĩ. Đây gọi là
đại Bồ Tát Tỳ lê gia
ba la mật.
Lại nữa, nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật chẳng móng
khởi tâm Thanh Văn,
Bích Chi Phật cùng những
tâm bất thiện ác. Đây gọi là
đại Bồ Tát Thiền na ba la mật.
Lại nữa, nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật suy nghĩ như vầy: Chẳng do
không sắc nên sắc là không, mà sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức? nhẫn đến
ý thức giới cũng như vậy, chẳng phải do không
ý thức giới nên
ý thức giới là không, mà
ý thức giới tức là không, không tức là
ý thức giới.
Tứ niệm xứ nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng cũng như vậy, chẳng phải do
không pháp bất cộng nên pháp
bất cộng là không, mà pháp
bất cộng tức là không, không tức là pháp
bất cộng.
Đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật như vậy không có kinh sợ, rựt rè”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
đại Bồ Tát được bực
thiện trí thức
hộ trì nên chẳng kinh sợ
rụt rè ?"
Đức Phật nói: "Nầy Tu Bồ Đề! Có
thiện tri thức giảng thuyết sắc nhẫn đến
ý thức giới,
vô thường, khổ,
vô ngã nhẫn đến
tịch diệt cũng đều
bất khả đắc,
gìn giữ thiện căn nầy chẳng hướng về
Thanh Văn,
Bích Chi Phật đạo mà chỉ hướng về nhứt thiết
chủng trí, đây gọi là bậc
thiện tri thức của
đại Bồ Tát.
Nầy Tu Bồ Đề! Có
thiện tri thức giảng thuyết tu
tứ niệm xứ nhẫn đến tu mười
tám pháp bất cộng cũng là
bất khả đắc,
giữ gìn thiện căn nầy chẳng hướng về
Thanh Văn,
Bích Chi Phật đạo, chỉ hướng về nhứt thiết
chủng trí, đây gọi là bực
thiện tri thức của đại Bồ Tát”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
Bồ Tát vì không
phương tiện và theo
ác tri thức nên kinh sợ,
rụt rè khi nghe nói
Bát nhã ba la mật nầy”.
Đức Phật nói: "nầy Tu Bồ Đề!
Bồ Tát rời tâm
nhứt thiết trí, mà tu
Bát nhã ba la mật nên được và nhớ
Bát nhã ba la mật nầy, cũng được và nhớ
Thiền na ba la mật, Tỳ lê gia
ba la mật,
Sằn đề ba la mật,
Thi la ba la mật,
Đàn na ba la mật.
Bồ Tát rời tâm
nhứt thiết trí mà quán các pháp
ngũ uẩn,
thập nhị xứ,
thập bát giới,
nội không nhẫn đến
vô pháp hữu pháp không, nơi
pháp không đây có nhớ, có được.
Bồ Tát rời tâm
nhứt thiết trí mà tu
tứ niệm xứ nhẫn đến tu mười
tám pháp bất cộng cũng nhớ, cũng được.
Như trên đây là vì không
phương tiện nên có kinh sợ,
rụt rè khi nghe
Bát nhã ba la mật nầy.
Nầy Tu Bồ Đề! Có
ác tri thức bảo
Bồ Tát xa rời
sáu ba la mật, hoặc chẳng giảng nói
ma sự, chẳng giảng nói ma tội, chẳng nói rằng
ác ma hiện hình Phật đến bảo
Bồ Tát xa rời
sáu ba la mật mà nói rằng: "Nầy
thiện nam tử, cần gì tu
sáu ba la mật làm chi! Nầy Tu Bồ Đề! Phải biết đây là
ác tri thức của
Bồ Tát.
Lại có
ác ma hiện hình Phật đến chỗ
Bồ Tát mà
giảng thuyết kinh pháp Thanh văn, hoặc
trường hàng nhẫn đến
luận nghị. Chẳng vì
Bồ Tát mà nói
ma sự ma tội nầy phải biết đây là ác tri thứ của
Bồ Tát.
Cũng chẳng vì
Bồ Tát mà nói
ma sự ma tội nầy:
Ác ma hiện hình Phật đến bảo
Bồ Tát: Nầy
thiện nam tử! Ngươi không có tâm thiệt
Bồ Tát, ngươi chẳng phải bực
bất thối chuyển, ngươi cũng chẳng thể được
Vô thượng Bồ đề. Nầy Tu Bồ Đề! Phải biết đây là
ác tri thức của
Bồ Tát.
Cũng chẳng giảng, chẳng dạy
ma sự, ma tội như vậy:
Ác ma hiện hình Phật đến bảo
Bồ Tát rằng
sắc không nhẫn đến pháp
bất cộng không,
Bát nhã ba la mật không nhẫn đến
Đàn na ba la mật không, vậy ngươi cầu
Vô thượng Bồ đề để làm gì !
Nầy Tu Bồ Đề! Phải biết đây là
ác tri thức của
Bồ Tát.
Cũng chẳng giảng, chẳng dạy
ma sự ma tội như vậy:
Ác ma hiện hình Bích Chi Phật đến bảo
Bồ Tát rằng
mười phương đều rỗng không, trong đó chẳng có Phật,
Bồ Tát và
Thanh văn. Nầy Tu Bồ Đề! Phải biết đây là
ác tri thức của
Bồ Tát.
Cũng chẳng giảng dạy
ma sự, ma tội
như vầy:
Ác ma hiện hình Hòa Thượng A Xà Lê đến bảo
Bồ Tát bỏ nhứt thiết
chủng trí, bỏ
Bồ Tát đạo, bảo
Bồ Tát bỏ
tứ niệm xứ nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng, bảo
Bồ Tát nhập không,
vô tướng,
vô tác để
chứng quả Thanh Văn, cần gì
Vô thượng Bồ đề. Nầy
Xá Lợi Phất! Phải biết đây là
ác tri thức của
Bồ Tát.
Cũng chẳng giảng dạy
ma sự, ma tội
như vầy:
Ác ma hiện hình cha mẹ đến bảo
Bồ Tát tinh tấn cầu
chứng quả Tu Đà Hoàn nhẫn đến quả
A La Hán, cần gì phải cầu
Vô thượng Bồ đề. Nếu cầu
Vô thượng Bồ đề sẽ phải thọ
sanh tử trong
vô lượng vô số kiếp, phải bị chặt tay, chặt chân
đau khổ. Nầy
Xá Lợi Phất! Phải biết đây là
ác tri thức của
Bồ Tát.
Có
tri thức chẳng giảng? chẳng dạy
ma sự ma tội
như vầy:
Ác ma hiện hình Tỳ Kheo đến bảo
Bồ Tát các
pháp nhãn sắc nhãn đến ý
vô thường, khổ,
vô ngã, không,
vô tướng,
vô tác, ly,
tịch diệt đều là pháp
bất khả đắc. Cũng dùng pháp
khả đắc để nói
tứ niệm xứ nhẫn đến pháp
bất cộng. Nầy Tu Bồ Đề! Phải biết đây là
ác tri thức của
Bồ Tát. Đã biết rồi thời phải
lánh xa hạng
ác tri thức nầy”.
PHẨM CÚ NGHĨA
THỨ MƯỜI HAI
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
Bồ Tát cú nghĩa?"
Đức Phật nói: "Nầy Tu Bồ Đề! Không
cú nghĩa là
Bồ Tát cú nghĩa.
Tại sao vậy? Vì?
Vô thượng Bồ đề không có nghĩa xứ cũng không có ngã, thế nên không
cú nghĩa là
Bồ Tát cú nghĩa.
Ví như chim bay trong
hư không chẳng có
dấu tích,
Bồ Tát cú nghĩa không chỗ có cũng vậy.
Ví như những sự thấy trong
giấc mộng không chỗ có,
Bồ Tát cú nghĩa không chỗ có cũng vậy
Ví như ảo thuật, dương diệm,
ảnh hưởng,
biến hóa đều không có thiệt nghĩa,
Bồ Tát cú nghĩa không chỗ có cũng vậy.
Ví như pháp như,
pháp tánh,
pháp tướng,
pháp vị và thiệt tế không có nghĩa,
Bồ Tát cú nghĩa không chỗ có cũng vậy.
Ví như sắc, thọ, tưởng, hành, thức của ảo nhơn không có nghĩa,
đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
Bồ Tát cú nghĩa không chỗ có cũng vậy.
Ví như lục căn,
lục trần,
lục thức của ảo nhơn không có nghĩa,
ví như nhãn xúc,
nhơn duyên, sanh thọ nhẫn đến ý xúc,
nhơn duyên, sanh thọ của ảo nhơn không có nghĩa,
Bồ Tát cú nghĩa không chỗ có cũng vậy.
Như lúc ảo nhơn thật hành
nội không nhẫn đến
vô pháp hữu pháp không chẳng có nghĩa,
Bồ Tát cú nghĩa không chỗ có cũng vậy.
Như lúc ảo nhơn thật hành
tứ niệm xứ nhẫn đến pháp
bất cộng không có nghĩa,
Bồ Tát cú nghĩa không chỗ có cũng vậy.
Như Như Lai,
Ứng Cúng, Chánh Đẳng,
Chánh Giác, sắc, thọ, tưởng, hành, thức không có nghĩa vì
ngũ uẩn đây không có vậy,
Bồ Tát cú nghĩa không chỗ có cũng vậy.
Như
đức Phật, nhãn đến ý, sắc đến pháp, nhãn xúc đến ý xúc,
nhơn duyên, sanh thọ đều
không xứ sở ,
đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
Bồ Tát cú nghĩa không chỗ có cũng vậy.
Như
đức Phật,
nội không đến
vô pháp hữu pháp không,
tứ niệm xứ đến pháp
bất cộng đều
không xứ sở ,
Bồ Tát cú nghĩa không chỗ có cũng vậy.
Như trong tánh
hữu vi không, tánh nghĩa
vô vi, trong tánh
vô vi không, tánh nghĩa
hữu vi,
đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
Bồ Tát cú nghĩa không chỗ có cũng vậy.
Như
bất sanh,
bất diệt không xứ sở như bất tác, bất xuất, bất đắc, bất cấu,
bất tịnh đều
không xứ sở ,
Bồ Tát cú nghĩa không chỗ có cũng vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Vì pháp gì
bất sanh,
bất diệt nên
không xứ sở ? Vì pháp gì bất tác, bất xuất, bất đắc, bất cấu,
bất tịnh nên
không xứ sở ?"
Đức Phật nói: "Nầy Tu Bồ Đề! Vì
ngũ uẩn,
thập nhị xứ,
thập bát giới đều
bất sanh,
bất diệt nhẫn đến bất cấu,
bất tịnh nên
không xứ sở. Vì
tứ niệm xứ đến pháp
bất cộng đều
bất sanh,
bất diệt nhẫn đến bất cấu,
bất tịnh nên
không xứ sở.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
Bồ Tát cú nghĩa không chỗ có cũng vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! Như nơi
tứ niệm xứ đến pháp
bất cộng, tịnh nghĩa
rốt ráo bất khả đắc,
đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
Bồ Tát cú nghĩa không chỗ có cũng vậy.
Như trong tịnh, ngã nhẫn đến
tri giả,
kiến giả đều
bất khả đắc, vì ngã đến
kiến giả đều không chỗ có vậy.
Bồ Tát cú nghĩa không chỗ có cũng vậy.
Nầy Tu Bồ Đề!
Ví như lúc mặt nhựt mọc lên thời không có
tối tăm.
Đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
Bồ Tát cú nghĩa không chỗ có cũng vậy.
Như
thời kỳ kiếp thiêu không có tất cả vật.
Đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
Bồ Tát cú nghĩa không chỗ có cũng vậy.
Như trong
Phật giới không có
phá giới.
Đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
Bồ Tát cú nghĩa không chỗ có cũng vậy.
Như trong Phật
định không có loại tâm, trong
Phật huệ không có
ngu si, trong Phật
giải thoát không có chẳng
giải thoát, trong Phật
giải thoát tri kiến không có chẳng
giải thoát tri kiến.
Đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
Bồ Tát cú nghĩa không chỗ có cũng vậy.
Như trong
Phật quang thời
nguyệt quang, nhựt quang không hiện, như trong
Phật quang thời
quang minh của
chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc đều không hiện.
Đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
Bồ Tát cú nghĩa không chỗ có cũng vậy.
Tại sao vậy? Vì
Vô thượng Bồ đề cùng
Bồ Tát và
Bồ Tát cú nghĩa, tất cả pháp đây đều chẳng hiệp, chẳng tan,
không sắc, không hình, không đối là nhứt tướng, chính là
vô tướng.
Nầy Tu Bồ Đề!
Vô ngại tướng trong tất cả pháp đây,
đại Bồ Tát phải nên học, cũng phải nên biết”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Những gì là tất cả pháp? Thế nào là
vô ngại tướng trong tất cả pháp mà phải học? , phải biết?"
Đức Phật nói: "Nầy Tu Bồ Đề! Tất cả pháp là
pháp thiện, pháp
bất thiện,
pháp hữu ký, pháp
vô ký, pháp
thế gian, pháp
xuất thế gian,
pháp hữu lậu, pháp
vô lậu,
pháp hữu vi,
pháp vô vi, pháp cộng? , pháp
bất cộng. Đây gọi là tất cả pháp, trong tất cả pháp
vô ngại tướng đây,
đại Bồ Tát phải học? , phải biết”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Những gì là
pháp thiện thế gian nhẫn đến những gì là pháp bất cộng?"
Đức Phật nói: "Nầy Tu Bồ Đề!
Pháp thiện thế gian là
hiếu thuận với
cha mẹ ,
cúng dường Sa Môn,
Bà La Môn, cúng thờ bậc tôn trưởng? , chỗ phước
bố thí, chỗ phước
trì giới, chỗ phước
tu thiền định? , chỗ phước khuyến đạo,
phương tiện sanh
phước đức,
thập thiện đạo thế gian,
quán tưởng chín tướng
bất tịnh : tướng xanh, tướng sình, tướng máu, tướng nứt, tướng nhũn bấy, tướng bị ăn, tướng tan rã, tướng xương, tướng thiêu,
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định,
niệm Phật,
niệm Pháp,
niệm Tăng niệm giới,
niệm xả,
niệm Thiên, niệm thiện, niệm
hơi thở ,
niệm thân thể? , niệm chết. Đây gọi là
pháp thiện thế gian.
Nầy Tu Bồ Đề! Những gì là pháp bất thiện?
Sát sanh, trộm cướp,
tà dâm,
vọng ngữ,
lưỡng thiệt,
ác khẩu,
ỷ ngữ, tham lẫn,
não hại,
tà kiến,
thập bát thiện đạo nầy gọi là pháp
bất thiện.
Nầy Tu Bồ Đề! những gì là
pháp hữu ký?
Pháp thiện hoặc pháp
bất thiện gọi là
pháp hữu ký
Nầy Tu Bồ Đề! Những gì là pháp vô ký?
Vô ký thân nghiệp,
khẩu nghiệp,
ý nghiệp,
vô ký tứ đại,
vô ký ngũ ấm,
thập nhị nhập,
thập bát giới,
vô ký báo, đây gọi là pháp
vô ký.
Nầy Tu Bồ Đề! Những gì là pháp thế gian?
Ngũ ấm,
thập nhị nhập,
thập bát giới,
thập thiện đạo,
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định, đây gọi là pháp
thế gian.
Nầy Tu Bồ Đề! Những gì là pháp
xuất thế gian?
Tứ niệm xứ,
tứ chánh cần, tứ
vô ý túc,
ngũ căn,
ngũ lực,
thất giác phần,
bát thánh đạo phần,
không giải thoát môn,
vô tướng giải thoát môn,
vô tác giải thoát môn, vị
tri dục tri căn,
tri căn dĩ tri căn, hữu giác hữu quán
tam muội, vô giác hữu quán
tam muội, vô giác vô quán
tam muội,
bát bội xả,
nội không đến
vô pháp hữu pháp không,
thập lực,
tứ vô sở úy,
tứ vô ngại trí, mười
tám pháp bất cộng,
nhứt thiết trí, đây gọi là pháp
xuất thế gian.
Nầy Tu Bồ Đề! Những gì là
pháp hữu lậu?
Ngũ ấm,
thập nhị nhập,
thập bát giới, lục chủng,
lục xúc,
lục thọ,
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định, đây gọi là
pháp hữu lậu.
Nầy Tu Bồ Đề! Những gì là pháp vô lậu?
Tứ niệm xứ nhẫn đến
bất cộng pháp và
nhứt thiết trí, đây gọi là pháp
vô lậu.
Nầy Tu Bồ Đề! Những gì là
pháp hữu vi? Nếu là pháp có sanh, có trụ, có diệt,
Dục giới,
Sắc giới,
Vô sắc giới,
ngũ ấm nhẫn đến ý xúc,
nhơn duyên, sanh thọ,
tứ niệm xứ nhẫn đến pháp
bất cộng và
nhứt thiết trí, đây gọi là
pháp hữu vi.
Nầy Tu Bồ Đề! Những gì là pháp vô vi? Nếu là pháp
bất sanh, bất trụ,
bất diệt, sạch tham, sân, si,
pháp như,
pháp tánh,
pháp tướng,
pháp vị, thiệt tế, đây gọi là
pháp vô vi.
Nầy Tu Bồ Đề! Những gì là cộng pháp?
Tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định, đây gọi là
cộng pháp.
Nầy Tu Bồ Đề! Những gì là
bất cộng pháp?
Tứ niệm xứ nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng, đây gọi là
bất cộng pháp.
Nầy Tu Bồ Đề! Ở trong những pháp
tứ tướng không đây,
đại Bồ Tát chẳng nên
chấp trước, vì
bất động vậy.
Đại Bồ Tát cũng phải biết tất cả pháp chẳng có hai tướng, vì
bất động vậy.
Đây gọi là
Bồ Tát nghĩa”.
PHẨM KIM CANG
THỨ MƯỜI BA
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Do cớ gì mà
Bồ Tát được gọi là đại Bồ Tát?"
Đức Phật nói: "Nầy Tu Bồ Đề! Ở trong
quyết định chúng,
Bồ Tát nầy là bực
thượng thủ nên gọi là
đại Bồ Tát.
Đây là
quyết định chúng:
tánh địa nhơn, bát nhơn,
Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm,
A La Hán,
Bích Chi Phật,
sơ phát tâm Bồ Tát nhẫn đến
bất thối chuyển địa
Bồ Tát.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát phát
đại tâm chẳng hư hoại như
kim cang, thời sẽ là bực
thượng thủ trong
quyết định chúng”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa "Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát phát tâm thế nào mà gọi là phát
đại tâm như
kim cang chẳng hư hoại?"
Đức Phật nói: "Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát phát sanh tâm
như vầy:
Ở trong
vô lượng đời
sanh tử, tôi sẽ
đại thệ trang nghiêm, tôi sẽ bỏ tất cả
sở hữu, tôi sẽ đối với tất cả
chúng sanh bằng
tâm bình đẳng, tôi sẽ phải đem
Tam thừa độ thoát tất cả
chúng sanh, làm cho họ nhập
vô dư Niết Bàn, tôi độ tất cả
chúng sanh xong rồi nhẫn đến không có một người
nhập Niết Bàn, tôi sẽ phải
hiểu rõ tướng
bất sanh của tất cả pháp, tôi sẽ thuần dùng tâm nhứt thiết
chủng trí để thật hành
sáu ba la mật, tôi sẽ phải học
trí huệ tỏ thấu tất cả pháp, tôi sẽ phải tỏ thấu
chư pháp nhứt
tướng trí môn, tôi sẽ phải tỏ thấu nhẫn đến
chư pháp vô lượng tướng trí môn.
Đây gọi là
đại Bồ Tát phát sanh
đại tâm chẳng hư hoại như
kim cang.An trụ trong
đại tâm nâỳ ,
đại Bồ Tát là bực
thượng thủ trong
quyết định chúng. Vì pháp dụng đây
vô sở đắc vậy.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát phát tâm như vầy:
Tôi sẽ thay
thế cho tất cả
chúng sanh trong
mười phương mà chịu những sự
đau khổ, hoặc
chúng sanh Địa ngục, hoặc
chúng sanh các loài
Súc sanh hoặc
chúng sanh Ngạ quỷ , nhẫn đến thay thế chịu khổ nhọc cho mỗi một
chúng sanh trong
vô lượng trăm ngàn
ức kiếp đến khi nào
chúng sanh ấy đã được nhập
vô dư Niết Bàn, sau đó tôi tự
vun trồng thiện căn trong
vô lượng trăm ngàn ức
vô số kiếp sẽ được
Vô thượng Bồ đề.
Đây là
đại tâm như
kim cang chẳng hư hoại. An trụ trong
đại tâm nầy,
đại Bồ Tát là bực
thượng thủ trong
quyết định chúng.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát lại phát sanh đại khoái tâm. Từ lúc
sơ phát tâm nhẫn đến khi thành
Vô thượng Bồ đề,
đại Bồ Tát chẳng sanh tâm
tham nhiễm,
sân khuể,
ngu si,
kiêu mạn, cũng chẳng sanh tâm
Thanh Văn, tâm
Bích Chi Phật.
Đây là đại khoái tâm. An trụ trong đại khoái tâm nầy,
đại Bồ Tát là bực
thượng thủ trong
quyết định chúng.
Đại Bồ Tát cũng chẳng nghĩ nhớ có đại khoái tâm nầy.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát lại phải phát sanh
bất động tâm, chính là tâm thường nghĩ nhớ nhứt thiết
chủng trí, cũng chẳng nghĩ nhớ là mình có tâm
bất động nầy.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát lại phải phát sanh tâm
lợi ích an lạc cho tất cả
chúng sanh, chính là
cứu tế tất cả
chúng sanh và chẳng rời bỏ tất cả
chúng sanh, cũng chẳng nghĩ nhớ có tâm
lợi ích an lạc nầy.
Do đây nên
đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật là bậc
thượng thủ trong
quyết định chúng
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát phải phát sanh
tâm dục pháp, hỉ pháp,
lạc pháp.
Gì là pháp? Chính là
thiệt tướng của các pháp. Nơi pháp nầy mà tin chịu và
lãnh thọ thời gọi là
dục pháp và hỉ pháp. Còn thường
tu hành pháp nầy thời gọi là
lạc pháp.
Do đây nên
đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật có thể làm bực
thượng thủ trong
quyết định chúng. Vì pháp dụng đây
vô sở đắc vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát an trụ
nội không nhẫn đến
vô pháp hữu pháp không, thời có thể làm
thượng thủ trong
quyết định chúng. Vì pháp dụng đây
vô sở đắc vậy.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát an trụ trong
tứ niệm xứ nhẫn đến trong mười
tám pháp bất cộng, thời có thể làm
thượng thủ trong
quyết định chúng. Vì pháp dụng đây
vô sở đắc vậy.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát an trụ trong như
kim cang tam muội nhẫn đến an trụ trong ly
chấp trước như
hư không bất nhiễm
tam muội, thời là bực
thượng thủ trong
quyết định chúng. Vì pháp dụng đây
vô sở đắc vậy.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát an trụ trong các
pháp như vậy thời có thể làm
thượng thủ trong
quyết định chúng. Do
duyên cớ gì mà
Bồ Tát được gọi là đại Bồ Tát”.
PHẨM ĐOẠN CHƯ KIẾN
THỨ MƯỜI BỐN
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Con cũng muốn nói
sở dĩ Bồ Tát được gọi là đại Bồ Tát”.
Đức Phật bảo Ngài
Xá Lợi Phất: "Ông cứ nói"
Ngài
Xá Lợi Phất nói: "Ngã kiến, thọ kiến, mạng kiến,
chúng sanh kiến, sanh kiến,
dưỡng dục kiến, chúng số kiến, nhơn kiến, tác kiến, sử tác kiến, khởi kiến, sử khởi kiến, thọ kiến, sử thọ kiến,
tri giả kiến,
kiến giả kiến,
đoạn kiến,
thường kiến,
hữu kiến,
vô kiến, ấm kiến,
nhập kiến,
hữu kiến, giới kiến, đế kiến,
nhơn duyên kiến,
niệm xứ kiến, nhẫn đến
bất cộng pháp kiến,
Phật đạo kiến,
thành tựu chúng sanh kiến,
tịnh Phật quốc độ kiến,
Phật kiến,
chuyển pháp luân kiến.
Vì dứt trừ những
kiến chấp trên đây mà vì
mọi người thuyết pháp nên
Bồ Tát được gọi là đại Bồ Tát”.
Ngài
Tu Bồ Đề hỏi: "Duyên cớ gì mà sắc kiến là vọng kiến?
Duyên cớ gì thọ, tưởng, hành, thức kiến nhẫn đến
chuyển pháp luân kiến là vọng kiến?"
Ngài
Xá Lợi Phất nói: "Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật, vì không
phương tiện nên
Bồ Tát ở nơi sắc sanh
kiến chấp, ở nơi thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến
chuyển pháp luân sanh
kiến chấp, vì
pháp dung hữu sở đắc vậy.
Nơi đây
đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật dùng sức phương tiện mà vì họ
thuyết pháp để dứt trừ những
vọng kiến, vì pháp dụng
vô sở đắc vậy"
Ngài
Tu Bồ Đề bạch
đức Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Con cũng muốn nói
sở dĩ mà
Bồ Tát được gọi là đại Bồ Tát”.
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: "Ông cứ nói”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: "Tâm
Vô thượng Bồ đề, tâm
vô đẳng đây chẳng
cùng chung với tâm
Thanh Văn,
Bích Chi Phật. Tại sao vậy? Vì đây là tâm
nhứt thiết trí vô lậu chẳng
hệ phược. Cũng chẳng
chấp trước trong tâm
nhứt thiết trí vô lậu chẳng
hệ phược đây. Do
duyên cớ nầy mà
Bồ Tát được gọi là đại Bồ Tát”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: "Những gì là tâm
vô đẳng đẳng của
đại Bồ Tát chẳng
cùng chung với tâm
Thanh Văn, Bích Chi Phật?"
Ngài
Tu Bồ Đề nói: "Đại
Bồ Tát từ lúc
sơ phát tâm trở đi trọn không thấy một pháp nào có sanh, có diệt, có cấu, có tịnh, có tăng, có giảm. Nếu đã là pháp chẳng sanh, chẳng diệt chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng tăng, chẳng giảm, thời trong đó
không tâm Thanh Văn,
không tâm Bích Chi Phật,
không tâm Vô thượng Bồ đề, không
Phật tâm. Đây gọi là tâm
vô đẳng đẳng của
đại Bồ Tát chẳng
cùng chung với tâm
Thanh Văn, Bích Chi Phật”.
Ngài
Xá Lợi Phất nói: "Như lời Ngài
Tu Bồ Đề nói, trong tâm
nhứt thiết trí vô lậu chẳng
hệ phược đây cũng chẳng
chấp trước.
Nầy Ngài Tu Bồ Đề! Sắc cũng chẳng
chấp trước, thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng
chấp trước,
tứ niệm xứ nhẫn đến
bất cộng pháp cũng chẳng
chấp trước. Sao Ngài chỉ nói tâm đây chẳng chấp trước?"
Ngài
Tu Bồ Đề nói: "Phải lắm! Sắc nhẫn đến pháp
bất cộng cũng chẳng chấp trước”.
Ngài
Xá Lợi Phất nói: "Tâm
phàm phu cũng là
vô lậu chẳng
hệ phược, vì tánh rỗng không vậy. Tâm
Thanh Văn, tâm
Bích Chi Phật, tâm chư Phật cũng là
vô lậu chẳng
hệ phược, vì tánh rỗng không vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: "Phải lắm!"
Ngài
Xá Lợi Phất nói: "Sắc cũng là
vô lậu chẳng
hệ phược, vì
tánh không vậy. Thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến ý xúc,
nhơn duyên, sanh thọ cũng là
vô lậu chẳng
hệ phược, vì
tánh không vậy.
Tứ niệm xứ nhân đến mười
tám pháp bất cộng cũng là
vô lậu chẳng
hệ phược, vì
tánh không vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: "Vâng ! Như lời Ngài
Xá Lợi Phất đã nói, tâm
phàm phu nhẫn đến pháp
bất cộng cũng là
vô lậu chẳng
hệ phược, vì
tánh không vậy”.
Ngài
Xá Lợi Phất nói: "Như lời Ngài
Tu Bồ Đề đã nói, vì tâm là không nên
chấp trước tâm.
Nầy Tu Bồ Đề! Vì sắc là không nên chẳng
chấp trước sắc. Vì thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến ý xúc, sanh thọ là không nên
chấp trước, thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến chẳng
chấp trước ý xúc, sanh thọ. Vì
tứ niệm xứ là
không nhẫn đến
bất cộng pháp là không nên chẳng
chấp trước tứ niệm xứ, nhẫn đến chẳng
chấp trước bất cộng pháp”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: "Vâng, vì sắc là không nên trong sắc chẳng
chấp trước. Nhẫn đến vì
bất cộng pháp là không nên trong
bất cộng pháp chẳng
chấp trước.
Đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật dùng tâm
Vô thượng Bồ đề, tâm
vô đẳng đẳng chẳng
cùng chung với tâm
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, cũng chẳng nghĩ nhớ có tâm
vô đẳng đẳng nầy, vì pháp dụng
vô hữu vậy. Do
duyên cớ nầy mà
Bồ Tát được gọi là đại Bồ Tát”.
PHẨM PHÚ LÂU NA
THỨ MƯỜI LĂM
Ngài
Phú Lâu Na Đa La Ni Tử bạch
đức Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Con cũng thích nói
sở dĩ mà
Bồ Tát được gọi là đại Bồ Tát”.
Đức Phật bảo Ngài
Phú Lâu Na: "Ông cứ nói”.
Ngài
Phú Lâu Na nói: "Bồ Tát nầy
đại thệ trang nghiêm,
Bồ Tát nầy phát xu
Đại thừa,
Bồ Tát nầy ngồi nơi
Đại thừa, nên
Bồ Tát nầy được gọi là đại Bồ Tát”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: "Thế nào gọi là
đại thệ trang nghiêm?"
Ngài
Phú Lâu Na nói: "Đại
Bồ Tát chẳng
phân biệt là vì bao nhiêu người mà an trụ
Đàn na ba la mật và thật hành
Đàn na ba la mật. Mà chính là vì tất cả
chúng sanh mà
đại Bồ Tát an trụ
Đàn na ba la mật và thật hành
Đàn na ba la mật.
Như
Đàn na ba la mật, về
Thi la,
Sằn đề, Tỳ lê gia,
Thiền na và
Bát nhã ba la mật cũng vậy. Chẳng phải vì bao nhiêu người, mà chính là vì tất cả
chúng sanh mà
đại Bồ Tát an trụ
Bát nhã ba la mật và thật
hành Bát nhã
ba la mật.
Đại Bồ Tát đại thệ trang nghiêm, chẳng hạn cuộc trong một số
chúng sanh. Chẳng nghĩ rằng tôi sẽ
cứu độ những người nầy mà chẳng độ các người kia. Cũng chẳng nói rằng tôi sẽ làm cho những người nầy đến
Vô thượng Bồ đề còn những người kia thời không.
Đại Bồ Tát vì tất cả
chúng sanh mà
đại thệ trang nghiêm.
Đại Bồ Tát lại nghĩ rằng tôi sẽ tự đầy đủ
Đàn na ba la mật nhẫn đến tự đầy đủ
Bát nhã ba la mật, cũng làm cho tất cả chúng thật hành
sáu ba la mật.
Lại nầy Ngài
Xá Lợi Phất! Lúc thật hành
Đàn na ba la mật,
đại Bồ Tát có
bố thí bao nhiêu đều đúng với tâm
nhứt thiết trí,
cùng chung với tất cả
chúng sanh hướng về
Vô thượng Bồ đề. Đây là
Đàn na ba la mật đại thệ trang nghiêm lúc
đại Bồ Tát thật hành
Đàn na ba la mật.
Lúc thật hành
Đàn na ba la mật,
đại Bồ Tát đúng với tâm
nhứt thiết trí mà
bố thí, chẳng hướng đến quả
Thanh Văn,
Bích Chi Phật. Đây gọi là
Thi la ba la mật đại thệ trang nghiêm lúc thật hành
Đàn na ba la mật.
Lúc thật hành
Đàn na ba la mật,
đại Bồ Tát đúng với tâm
nhứt thiết trí mà
bố thí. Tin chịu
ưa thích nơi
pháp bố thí nầy. Đây gọi là
Sằn đề ba la mật đại thệ trang nghiêm lúc thật hành
Đàn na ba la mật.
Lúc thật hành
Đàn na ba la mật,
đại Bồ Tát đúng với tâm
nhứt thiết trí mà
bố thí. Luôn siêng năng
bố thí như vậy không thôi nghĩ. Đây gọi là Tỳ lê gia
ba la mật đại thệ trang nghiêm lúc thật hành
Đàn na ba la mật.
Lúc thật hành
Đàn na ba la mật,
đại Bồ Tát đúng với tâm
nhứt thiết trí mà
bố thí. Thường
nhiếp tâm chẳng để
móng tâm thanh Văn,
Bích Chi Phật. Đây gọi là
Thiền na ba la mật đại thệ trang nghiêm lúc thật hành
Đàn na ba la mật.
Lúc thật hành
Đàn na ba la mật,
đại Bồ Tát đúng với tâm
nhứt thiết trí mà
bố thí. Quán các
pháp như ảo. Chẳng thấy có người thí, chẳng thấy có vật cho, chẳng thấy có người thọ. Đây gọi là
Bát nhã ba la mật đại thệ trang nghiêm lúc
đại Bồ Tát thật hành
Đàn na ba la mật.
Đại Bồ Tát đúng với tâm
nhứt thiết trí, chẳng lấy, chẳng được những tướng của
ba la mật, phải biết đó là
đại Bồ Tát đại thệ trang nghiêm.
Lại nầy Ngài
Xá Lợi Phất! Lúc thật hành
Thi la ba la mật,
đại Bồ Tát đúng với tâm
nhứt thiết trí mà
bố thí,
cùng chung với tất cả
chúng sanh hướng về
Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là
đại Bồ Tát Đàn na ba la mật đại thệ trang nghiêm lúc thật hành
Thi la ba la mật.
Lúc thật hành?
Thi la ba la mật, đối với các pháp nầy,
đại Bồ Tát tin chịu
ưa thích. Đây gọi là
Sằn đề ba la mật đại thệ trang nghiêm lúc thật hành
thi la ba la mật.
Lúc thật hành
Thi la ba la mật,
đại Bồ Tát siêng tu chẳng nghĩ. Đây gọi là Tỳ lê gia
ba la mật đại thệ trang nghiêm lúc thật hành
Thi la ba la mật.
Lúc thật hành
Thi la ba la mật đại Bồ Tát chẳng
nhiếp thọ tâm
Thanh Văn,
Bích Chi Phật. Đây gọi là
Thiền na ba la mật đại thệ trang nghiêm lúc thật hành
Thi la ba la mật.
Lúc thật hành
Thi la ba la mật,
đại Bồ Tát quán tất cả
pháp như ảo, cũng chẳng nghĩ nhớ có
giới luật nầy, vì pháp dụng
vô sở đắc vậy. Đây gọi là
Bát nhã ba la mật đại thệ trang nghiêm lúc thật hành
thi la ba la mật.
Đại Bồ Tát lúc thật hành
Thi la ba la mật, nhiếp cả năm
ba la mật kia nên gọi là
đại thệ trang nghiêm.
Lại nầy Ngài
Xá Lợi Phất! Lúc thật hành
Sằn đề ba la mật,
đại Bồ Tát cùng chung với tất cả
chúng sanh hướng về
vô thượng Bồ đề. Đây gọi là
Đàn na ba la mật lúc thật hành
Sằn đề ba la mật.
Lúc thật hành?
Sằn đề ba la mật,
đại Bồ Tát chỉ thọ tâm
nhứt thiết trí mà chẳng thọ tâm
Thanh Văn,
Bích Chi Phật. Đây gọi là
Thi la ba la mật lúc thật hành
Sằn đề ba la mật.
Lúc thật hành
Sằn đề ba la mật,
đại Bồ Tát thân tâm tinh tấn chẳng thôi nghĩ đúng với tâm
nhứt thiết trí. Đây gọi là Tỳ lê gia
ba la mật lúc thật hành
Sằn đề ba la mật.
Lúc thật hành
Sằn đề ba la mật,
đại Bồ Tát nhiếp tâm một chỗ, dầu có bị
đau khổ cũng chẳng
tán loạn. Đây gọi là
Thiền na ba la mật lúc thật hành
Sằn đề ba la mật.
Lúc thật hành
Sằn đề ba la mật,
đại Bồ Tát đúng với tâm
nhứt thiết trí, quán các pháp rỗng không, chẳng có
tác giả, chẳng có
thọ giả, dầu bị người
mắng nhiếc, chém đâm, tâm
Bồ Tát như ảo, như mộng. Đây gọi là
Bát nhã ba la mật lúc thật hành
Sằn đề ba la mật.
Đại Bồ Tát lúc thật hành
Sằn đề ba la mật nhiếp cả các môn
ba la mật kia nên gọi là
đại thệ trang nghiêm.
Lại nầy Ngài
Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Tỳ lê gia
ba la mật,
đại Bồ Tát đúng với tâm
nhứt thiết trí mà
bố thí, chẳng để
thân tâm giải đãi. Đây gọi là
Đàn na ba la mật lúc thật hành Tỳ lê gia
ba la mật.
Lúc thật hành Tỳ lê gia
ba la mật,
đại Bồ Tát thỉ chung vẫn
trì giới thanh tịnh đầy đủ. Đây gọi là
Thi la ba la mật lúc thật hành Tỳ lê gia
ba la mật.
Lúc thật hành Tỳ lê gia
ba la mật,
đại Bồ Tát đúng với tâm
nhứt thiết trí mà
tu hành nhẫn nhục. Đây gọi là
Sằn đề ba la mật lúc thật hành Tỳ lê gia
ba la mật.
Lúc thật hành Tỳ lê gia
ba la mật,
đại Bồ Tát đúng với tâm
nhứt thiết trí mà
nhiếp tâm ly dục nhập các môn
thiền định. Đây gọi là
Thiền na ba la mật lúc thật hành Tỳ lê gia
ba la mật.
Lúc thật hành Tỳ lê gia
ba la mật,
đại Bồ Tát đúng với tâm
nhứt thiết trí, chẳng chấp lấy tướng của các pháp, nơi tướng chẳng chấp lấy nầy cũng chẳng
chấp trước. Đây gọi là
Bát nhã ba la mật lúc thật hành Tỳ lê gia
ba la mật.
Đại Bồ Tát lúc thật hành Tỳ lê gia
ba la mật nhiếp cả các môn
ba la mật kia nên gọi là
đại thệ trang nghiêm.
Lại nầy Ngài
Xá Lợi Phất! Lúc thật hành
Thiền na ba la mật,
đại Bồ Tát đúng với tâm
nhứt thiết trí mà
bố thí. Tâm vẫn ở trong
định không xao động. Đây gọi là
Đàn na ba la mật lúc thật hành
Thiền na ba la mật.
Lúc thật hành
Thiền na ba la mật,
đại Bồ Tát đúng với tâm
nhứt thiết trí mà
trì giới, do sức
thiền định nên các pháp
phá giới không
xen vào được. Đây gọi là
Thi la ba la mật lúc thật hành
Thiền na ba la mật.
Lúc thật hành
Thiền na ba la mật,
đại Bồ Tát đúng với tâm
nhứt thiết trí, vì sức
từ bi tam muội nên nhẫn chịu tất cả khổ hại. Đây gọi là
Sằn đề ba la mật lúc thật hành
Thiền na ba la mật.
Lúc thật hành
Thiền na ba la mật,
đại Bồ Tát đúng với tâm
nhứt thiết trí, nơi
thiền định chẳng ham, chẳng chấp, thường cầu
tăng tiến từ một thiền đến một thiền. Đây gọi là Tỳ lê gia
ba la mật lúc thật hành
Thiền na ba la mật.
Lúc thật hành
Thiền na ba la mật,
đại Bồ Tát đúng với tâm nhứt thiết, không
y chỉ nơi tất cả pháp, cũng chẳng thọ sanh theo thiền. Đây gọi là
Bát nhã ba la mật lúc thật hành
Thiền na ba la mật.
Đại Bồ Tát lúc thật hành
Thiền na ba la mật, nhiếp cả các môn
ba la mật kia nên gọi là
đại thệ trang nghiêm.
Lại nầy Ngài
Xá Lợi Phất! Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát đúng với tâm
nhứt thiết trí mà
bố thí, không lẫn tiếc những
sở hữu trong thân, ngoài thân, chẳng thấy người cho, kẻ thọ và tài vật. Đây gọi là
Đàn na ba la mật lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật.
Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát đúng với tâm
nhứt thiết trí nên không thấy có hai sự
trì giới và
phá giới. Đây gọi là
Thi la ba la mật lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật.
Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát đúng với tâm
nhứt thiết trí, chẳng thấy kẻ
mắng nhiếc, kẻ đánh đập, kẻ giết hại, cũng chẳng thấy dùng
pháp không nầy để
nhẫn nhục. Đây gọi là
Sằn đề ba la mật lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật.
Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát đúng với tâm
nhứt thiết trí, quán các pháp
rốt ráo không cho tâm
đại bi mà
tinh cần thật hành các
pháp hạnh. Đây gọi là Tỳ lê gia
ba la mật.
Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát đúng với tâm
nhứt thiết trí mà nhập
thiền định, quán các
thiền định ly tướng,
tướng không, tướng
vô tướng, tướng
vô tác. Đây gọi là
Thiền na ba la mật lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật.
Đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật, nhiếp cả năm môn
ba la mật kia nên gọi là đai thệ
trang nghiêm Bồ Tát đại thệ trang nghiêm nầy được chư Phật nười phương
hoan hỉ xưng danh giữa
đại chúng để
ca ngợi rằng cõi nước đó có
đại Bồ Tát đó
đại thệ trang nghiêm,
thành tựu chúng? sanh,
thành tựu Phật quốc”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: "Thế nào là
đại Bồ Tát phát xu đại thừa?"
Ngài
Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử nói: "Lúc thật hành
sáu ba la mật,
đại Bồ Tát xa lìa ái dục cùng những pháp ác
bất thiện,
ly sanh hỉ lạc hữu giác hữu quán nhập
sơ thiền, nhẫn đến xả niệm
thanh tịnh nhập
tứ thiền, dùng
tâm từ bi
hỉ xả quảng đại vô nhị vô lượng khắp cùng một phương nhẫn đến
mười phương tất cả
thế gian. Lúc nhập thiền, xuất thiền,
Bồ Tát nầy đem các thiền, các
vô lượng tâm cùng chung với tất cả
chúng sanh hướng đến
nhứt thiết trí. Đây gọi là
đại Bồ Tát Thiền na ba la mật phát xu
Đại thừa.
Bồ Tát nầy an trụ trong thiền
vô lượng tâm nghĩ rằng tôi sẽ được nhứt thiết
chủng trí vì dứt sạch
phiền não cho tất cả
chúng sanh nên sẽ vì họ mà
thuyết pháp. Đây gọi là
Đàn na ba la mật lúc
đại Bồ Tát thật hành
Thiền na ba la mật.
Nếu
đại Bồ Tát đúng với tâm
nhứt thiết trí mà tu tứ thiền? Và trụ trong
tứ thiền chẳng nạp thọ tâm
Thanh Văn,
Bích Chi Phật. Đây gọi là
Thi la ba la mật lúc
đại Bồ Tát thật hành
Thiền na ba la mật.
Nếu
đại Bồ Tát đúng với tâm
nhứt thiết trí nhập các thiền mà nghĩ rằng tôi vì dứt
phiền não cho tất cả
chúng sanh nên sẽ
thuyết pháp, nơi đây nhẫn thọ
ưa thích. Đây gọi là
Sằn đề ba la mật lúc
đại Bồ Tát thật hành
Thiền na ba la mật.
Nếu
đại Bồ Tát đúng với tâm
nhứt thiết trí nhập các thiền, bao nhiêu
thiện căn đều hướng về
nhứt thiết trí, siêng tu không thôi nghỉ. Đây gọi là Tỳ lê gia
ba la mật lúc
đại Bồ Tát thật hành
Thiền na ba la mật.
Nếu
đại Bồ Tát đúng với tâm
nhứt thiết trí nhập
tứ thiền, quán tướng
vô thường, tướng khổ, tướng
vô ngã, tướng không? , tướng
vô tướng, tướng
vô tác,
cùng chung với tất cả
chúng sanh hướng về
nhứt thiết trí. Đây gọi là
Bát nhã ba la mật lúc
đại Bồ Tát thật hành
Thiền na ba la mật.
Đây gọi là
đại Bồ Tát phát xu
Đại thừa vậy.
Lại nầy Ngài
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát phát xu
Đại thừa thật hành
từ tâm nghĩ rằng tôi sẽ làm cho tất cả
chúng sanh được
an lạc. Nhập
bi tâm nghĩ rằng tôi sẽ
cứu tế tất cả
chúng sanh. Nhập hỉ tâm nghĩ rằng tôi sẽ độ tất cả chúnh sanh. Nhập xã tâm nghĩ rằng tôi sẽ làm cho tất cả
chúng sanh được
lậu tận. Đây gọi là
Đàn na ba la mật lúc
đại Bồ Tát thật hành
tứ vô lượng tâm.
Đại Bồ Tát thật hành
tứ vô lượng tâm tam muội nầy chỉ hướng về
nhứt thiết trí mà chẳng hướng đến
Thanh Văn,
Bích Chi Phật. Đây gọi là
Thi la ba la mật lúc
đại Bồ Tát thật hành
tứ vô lượng tâm.
Đại Bồ Tát thật hành
tứ vô lượng tâm chẳng ham quả
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, chỉ nhẫn thọ
ưa thích nhất thiết trí. Đây gọi là
Sằn đề ba la mật lúc
đại Bồ Tát thật hành
tứ vô lượng tâm.
Đại Bồ Tát đúng với tâm
nhứt thiết trí mà thật hành
tứ vô lượng tâm chỉ thật hiện hạnh
thanh tịnh. Đây gọi là Tỳ lê gia
ba la mật lúc
đại Bồ Tát thật hành
tứ vô lượng tâm.
Đại Bồ Tát đúng với tâm
nhứt thiết trí nhập
vô lượng tâm tam muội, cũng chẳng thọ sanh theo thiền
vô lượng tâm. Đây gọi là
phương tiện Bát nhã ba la mật lúc
đại Bồ Tát thật hành
tứ vô lượng tâm.
Đây gọi là
đại Bồ Tát phát xu
Đại thừa vậy.
Lại nầy Ngài
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát đúng với tâm
nhứt thiết trí mà tu
tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo phần, đúng với tâm
nhứt thiết trí mà tu
ba môn giải thoát đến mười
tám pháp bất cộng. Đây gọi là
đại Bồ Tát phát xu
Đại thừa.
Lại nầy Ngài
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát trí huệ trong
nội không, vì pháp dụng
vô sở đắc vậy. Nhẫn đến
trí huệ trong
vô pháp hữu pháp không, vì pháp dụng
vô sở đắc vậy. Đây gọi là
đại Bồ Tát phát xu
Đại Thừa.
Lại nầy Ngài
Xá Lợi Phất! trong tất cả pháp,
đại Bồ Tát trí huệ chẳng loạn, chẳng định. Đây gọi là
đại Bồ Tát phát xu
Đại thừa.
Lại nầy Ngài
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát trí huệ chẳng phải thường, chẳng phải
vô thường,
trí huệ chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải thiệt, chẳng phải không hư, chẳng phải ngã, chẳng phải
vô ngã. Đây gọi là
đại Bồ Tát phát xu
Đại thừa, vì pháp dụng
vô sở đắc vậy.
Lại nầy Ngài
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát trí huệ chẳng đi trong ba
thời gian quá khứ,
hiện tại,
vị lai, cũng chẳng phải là chẳng biết rõ ba
thời gian. Đây gọi là
đại Bồ Tát phát xu
Đại thừa, vì pháp dụng
vô sở đắc vậy.
Lại nầy Ngài
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát trí huệ chẳng đi trong
ba cõi Dục giới,
Sắc giới,
Vô sắc giới, cũng chẳng phải là chẳng biết rõ
ba cõi, vì pháp dụng
vô sở đắc vậy. Đây gọi là
đại Bồ Tát phát xu
Đại thừa.
Lại nầy Ngài
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát trí huệ chẳng đi trong pháp
thế gian, pháp
xuất thế gian,
pháp hữu vi,
pháp vô vi,
pháp hữu lậu, pháp
vô lậu, cũng chẳng phải là chẳng biết rõ tất cả pháp, vì pháp dụng
vô sở đắc vậy. Đây gọi là
đại Bồ Tát phát xu Đại thừa”.
PHẨM THỪA ĐẠI THỪA
THỨ MƯỜI SÁU
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: "Thế nào là
đại Bồ Tát ngồi Đại thừa?"
Ngài
Phú Lâu Na nói: "Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát ngồi
Đàn na ba la mật nhẫn đến ngồi
Bát nhã ba la mật, cũng chẳng thấy có
Đàn na nhẫn đến chẳng thấy có
Bát nhã, cũng chẳng thấy có
Bồ Tát, vì pháp dụng
vô sở đắc vậy. Đây gọi là
đại Bồ Tát ngồi
sáu ba la mật, cũng gọi là ngồi
Đại thừa.
Lại nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát nhứt tâm đúng với
nhứt thiết trí mà tu
tứ niệm xứ nhẫn đến tu mười
tám pháp bất cộng, vì
pháp không, nên cũng
bất khả đắc. Đây gọi là
đại Bồ Tát ngồi
Đại thừa.
Lại nầy Ngài
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát nghĩ rằng
Bồ Tát chỉ có
danh tự vì
chúng sanh bất khả đắc vậy. Đây gọi là
đại Bồ Tát ngồi
Đại thừa.
Đại Bồ Tát nghĩ rằng sắc đến thức nhãn đến ý, sắc đến chấp,
nhãn giới đến
ý thức giới đều chỉ có
danh tự, vì đều
bất khả đắc vậy. Lại nghĩ rằng
tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo phần,
nội không đến vô pháo
hữu pháp không đến mười
tám pháp bất cộng đều chỉ có
danh tự vì đều
bất khả đắc vậy. Lại nghĩ rằng
pháp như,
pháp tướng,
pháp tánh,
pháp vị, thiệt tế đều chỉ có
danh tự vì đều
bất khả đắc vậy. Lại nghĩ rằng
Vô thượng Bồ đề và Phật chỉ có
danh tự vì
bất khả đắc vậy. Đây gọi là
đại Bồ Tát ngồi
Đại thừa.
Lại nầy Ngài
Xá Lợi Phất! Từ khi
sơ phát tâm,
đại Bồ Tát đầy đủ
thần thông thành tựu chúng sanh, từ một
quốc độ đến một
quốc độ,
đại Bồ Tát cúng dường kính trọng tán thán chư Phật, nghe chư Phật dạy pháp
Đại thừa. Đây gọi là
đại Bồ Tát ngồi
Đại thừa.
Đại Bồ Tát từ một
Phật quốc đến một
Phật quốc để
thanh tịnh quốc độ,
thành tựu chúng sanh, trọn không có
cảm tưởng Phật quốc, cũng không có
cảm tưởng chúng sanh.
Bồ Tát nầy an trụ trong pháp
bất nhị, vì
chúng sanh mà thọ thân, tùy chỗ đáng được độ mà tự
hiện thân hình để
thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Như vậy mãi đến nhứt thiết
chủng trí vẫn không rời
Đại thừa. Đây gọi là
đại Bồ Tát ngồi
đại thừa.
Ngồi
Đại thừa nầy,
đại Bồ Tát được nhứt thiết
chủng trí chuyển pháp luân mà
Thanh Văn,
Bích Chi Phật và
Thiên Long bát bộ đến tất cả người
thế gian không thể chuyển được. Bấy giờ
chư Phật mười phương đều
hoan hỉ xưng danh hiệu để
ca ngợi rằng phương đó,
quốc độ đó có
đại Bồ Tát ngồi
Đại thừa được nhứt thiết
chủng trí chuyển pháp luân.
Đây gọi là
đại Bồ Tát ngồi Đại thừa”.