KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT
Hán dịch: Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập - Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Viện Phật Học Phổ Hiền Xuất Bản PL. 2530 DL 1986 (Trọn bộ 3 tập)
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn hành P.L 2539 DL. 1995 (Trọn bộ 3 tập)
QUYỂN THỨ BẢY
PHẨM THẮNG XUẤT
THỨ HAI MƯƠI HAI
Ngài
Huệ Mạng Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn!
Đại thừa và người
Đại thừa vượt hơn tất cả
thế gian và
chư Thiên, Nhơn,
A tu la.
Bạch đức Thế Tôn!
Đại thừa nầy đồng đẳng với
hư không.
Như
hư không dung thọ
vô lượng vô biên a tăng kỳ chúng sanh. Cũng vậy,
Đại thừa nầy dung thọ
vô lượng vô biên a tăng kỳ chúng sanh.
Đại thừa nầy chẳng thấy chỗ đến, chẳng thấy chỗ đi, chẳng thấy chỗ dừng ở.
Đại thừa nầy, chẳng thể được
quá khứ, chẳng thể được
vị lai, chẳng thể được
hiện tại.
Ba đời bình đẳng là
Đại thừa nầy.
Do
duyên cớ trên đây nên gọi là Đại thừa”.
Đức Phật nói: "Đúng như vậy. Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát Đại thừa là
sáu ba la mật:
Đàn na ba la mật,
Thi la ba la mật, Tỳ lê gia
ba la mật,
Thiền na ba la mật,
Bát nhã ba la mật.
Lại có
đại Bồ Tát Đại thừa là tất cả
đà la ni môn, tất cả
tam muội môn. Như là
thủ lăng nghiêm tam muội đến ly trước như
hư không bất nhiễm
tam muội.
Lại có
đại Bồ Tát Đại thừa là
nội không đến
vô pháp hữu pháp không.
Lại có
đại Bồ Tát Đại thừa là
tứ niệm xứ đến mười
tám pháp bất cộng.
Nầy Tu Bồ Đề! Như lời ông nói,
Đại thừa nầy vượt hơn tất cả
thế gian và
chư Thiên, Nhơn,
A tu la.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
Dục giới là có chơn thiệt chẳng
hư vọng, là đế lý chẳng
điên đảo,
thường hằng chẳng hư hoại chẳng phải
pháp không có,
thời Đại thừa nầy không thể vượt hơn tất cả
thế gian và
chư Thiên, Nhơn,
A tu la.
Bởi
dục giới hư vọng, nhớ tưởng,
phân biệt, hoà hiệp
danh tự v.v. có tất cả tướng
vô thường phá hoại là
pháp không có. Thế nên
Đại thừa nầy vượt hơn tất cả
thế gian và
chư Thiên, Nhơn,
A tu la.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
Sắc giới và
Vô sắc giới là có chơn thiệt chẳng
hư vọng, là đế lý chẳng điển đảo,
thường hằng chẳng hư hoại, chẳng phải
pháp không có,
thời Đại thừa nầy không thể vượt hơn tất cả
thế gian và
chư Thiên, Nhơn,
A tu la.
Bởi
sắc giới và
Vô sắc giới hư vọng, nhớ tưởng,
phân biệt, hòa hiệp
danh tự v.v.. có tất cả tướng
vô thường phá hoại là
pháp không có. Thế nên
Đại thừa nầy vượt hơn tất cả
thế gian và
chư Thiên, Nhơn,
A tu la.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
sắc uẩn đến ý xúc,
nhơn duyên, sanh thọ là có chơn thiệt chẳng
hư vọng, là đế lý chẳng
điên đảo,
thường hằng chẳng hư hoại, chẳng phải
pháp không có,
thời Đại thừa nầy không thể vượt hơn tất cả
thế gian và
chư Thiên, Nhơn,
A tu la.
Bởi
sắc uẩn đến ý xúc,
nhơn duyên, sanh thọ
hư vọng, nhớ tưởng,
phân biệt, hòa hiệp
danh tự v.v. có tất cả tướng
vô thường phá hoại là
pháp không có, nên
Đại thừa nầy vượt hơn tất cả
thế gian và
chư Thiên, Nhơn,
A tu la.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
pháp tánh như thiệt tế,
bất khả tư nghì tánh là pháp có mà chẳng phải là
pháp không có,
thời Đại thừa nầy không thể vượt hơn tất cả
thế gian và
chư Thiên, Nhơn,
A tu la.
Bởi
pháp tánh đến bất tư nghì
tánh không có pháp, chẳng phải pháp, nên
Đại thừa nầy vượt hơn tất cả
thế gian và
chư Thiên, Nhơn,
A tu la.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật là pháp có mà chẳng phải là
pháp không có,
thời Đại thừa nầy không thể vượt hơn tất cả
thế gian và
chư Thiên, Nhơn,
A tu la.
Bởi
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật không có pháp chẳng phải pháp, nên
Đại thừa nầy vượt hơn tất cả
thế gian và
chư Thiên, Nhơn,
A tu la.
Nầy Tu Bồ Đề! nếu
nội không đến
vô pháp hữu pháp không là pháp có mà chẳng phải là
pháp không có,
thời Đại thừa nầy không thể vượt hơn tất cả
thế gian và
chư Thiên, Nhơn,
A tu la.
Bởi
nội không đến
vô pháp hữu pháp không không có pháp, chẳng phải pháp, nên
Đại thừa nầy vượt hơn tất cả
thế gian và
chư Thiên, Nhơn,
A tu la.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
tứ niệm xứ đến mười
tám pháp bất cộng là pháp có mà chẳng phải là
pháp không có,
thời Đại thừa nầy không thể vượt hơn tất cả
thế gian và
chư Thiên, Nhơn,
A tu la.
Bởi
tứ niệm xứ đến
bất cộng pháp không có pháp, chẳng phải pháp, nên
Đại thừa nầy vượt hơn tất cả
thế gian và
chư Thiên, Nhơn,
A tu la.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu tánh nhơn pháp, bát nhơn pháp,
Tu Đà Hoàn pháp,
Tư Đà Hàm pháp,
A Na Hàm pháp,
A La Hán pháp,
Bích Chi Phật pháp và
Phật pháp là pháp có mà chẳng phải là
pháp không có,
thời Đại thừa nầy không thể vượt hơn tất cả
thế gian và
chư Thiên, Nhơn,
A tu la.
Bởi tánh nhơn pháp đến
Phật pháp không có pháp, chẳng phải pháp, nên
Đại thừa nầy vượt hơn tất cả
thế gian và
chư Thiên, Nhơn,
A tu la.
Nầy Tu Bồ Đề! nếu bực
tánh địa, bực bát nhơn, bực
Tu Đà Hoàn nhẫn đến Phật là pháp có mà chẳng phải là
pháp không có,
thời Đại thừa nầy không thể vượt hơn tất cả
thế gian và
chư Thiên, Nhơn,
A tu la.
Bởi
tánh địa đến chư Phật không có pháp chẳng phải pháp, nên
Đại thừa nầy vượt hơn tất cả
thế gian và
chư Thiên, Nhơn,
A tu la.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu tất cả
thế gian và
chư Thiên, Nhơn,
A tu la là pháp có mà chẳng phải là
pháp không có,
thời Đại thừa nầy không thể vượt hơn tất cả
thế gian và
chư Thiên, Nhơn,
A tu la.
Bởi tất cả
thế gian và
chư Thiên, Nhơn,
A tu la không có pháp chẳng phải pháp, nên
Đại thừa nầy vượt hơn tất cả
thế gian và
chư Thiên, Nhơn,
A tu la.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát từ lúc mới
phát tâm đến lúc ngồi
đạo tràng, những tâm
trong khoảng trung gian đó là pháp có mà chẳng phải là
pháp không có,
thời Đại thừa nầy không thể vượt hơn tất cả
thế gian và
chư Thiên, Nhơn,
A tu la.
Bởi những tâm
trong khoảng trung gian từ lúc
phát tâm đến lúc ngồi
đạo tràng của
đại Bồ Tát không có pháp chẳng phải pháp, nên
Đại thừa nầy vượt hơn tất cả
thế gian và
chư Thiên, Nhơn,
A tu la.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu như
kim cang huệ của
đại Bồ Tát là pháp có mà chẳng phải là
pháp không có,
thời đại Bồ Tát nầy không thể biết được tất cả
kiết sử và
tập khí không có pháp, chẳng phải pháp để được nhứt thiết
chủng trí.
Bởi như
kim cang huệ không có pháp, chẳng phải pháp, nên
đại Bồ Tát biết được, tất cả
kiết sử và
tập khí không có pháp, chẳng phải pháp được nhứt thiết
chủng trí. Thế nên
Đại thừa nầy vượt hơn tất cả
thế gian và
chư Thiên, Nhơn,
A tu la.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu ba mươi hai tướng của chư Phật là pháp có mà chẳng là
pháp không có, thời
oai đức của chư Phật chẳng thể chiếu sáng vượt hơn tất cả
thế gian và
chư Thiên, Nhơn,
A tu la.
Bởi ba mươi hai
tướng không có pháp, chẳng phải pháp, nên
oai đức của chư Phật chiếu sáng vượt hơn tất cả
thế gian và
chư Thiên, Nhơn,
A tu la.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
quang minh của chư Phật là pháp có mà chẳng phải là
pháp không có, thời chẳng thể chiếu sáng
hằng sa quốc độ.
Bởi
quang minh của chư Phật không có pháp, chẳng phải pháp, nên có thể chiếu khắp
hằng sa quốc độ.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu sáng mươi thứ
âm thanh trang nghiêm của chư Phật là pháp có mà chẳng phải là
pháp không có, thời chư Phật chẳng thể dùng sáu mươi thứ
âm thanh trang nghiêm ấy thấu đến khắp
vô lượng a tăng kỳ quốc độ mười phương.
Bởi sáu mươi thứ
âm thanh trang nghiêm của chư Phật không có pháp, chẳng phải pháp, nên chư Phật có thể dùng
âm thanh trang nghiêm ấy thấu đến khắp
vô lượng a tăng kỳ quốc độ mười phương.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
pháp luân của chư Phật là pháp có mà chẳng phải là
pháp không có, thời chư Phật không thể
chuyển pháp luân mà tất cả
Sa Môn,
Bà La Môn hoặc
chư Thiên vương,
Ma vương,
Phạm vương và tất cả
thế gian chúng sanh đều chẳng chuyển được.
Bởi
pháp luân của chư Phật không có pháp, chẳng phải pháp, nên chu Phật có thể
chuyển pháp luân mà tất cả
Sa Môn,
Bà La Môn hoặc Trời, Người và tất cả chúng khác trong
thế gian đều chẳng chuyển được.
Nầy Tu Bồ Đề! Chư Phật vì
chúng sanh chuyển pháp luân. Nếu
chúng sanh ấy là
pháp thiệt có mà chẳng phải là
pháp không có, thời không thể làm cho
chúng sanh ấy ở nơi
vô dư y Niết Bàn mà
nhập Niết Bàn.
Bởi chư Phật vì
chúng sanh chuyển pháp luân.
Chúng sanh ấy không có pháp, chẳng phải pháp, nên có thể làm cho
chúng sanh ấy ở trong
vô dư y Niết bàn đã
diệt độ, nay
diệt độ, sẽ diệt độ”.
PHẨM ĐẲNG KHÔNG
THỨ HAI MƯƠI BA "Nầy Tu Bồ Đề! Ông nói
Đại thừa đồng đẳng với
hư không.
Đúng như vậy,
Đại thừa đồng đẳng với
hư không.
Nầy Tu Bồ Đề! Như
hư không không có Đông, Tây v.v.
mười phương,
Đại thừa cũng không có
mười phương.
Như
hư không chẳng phải dài, vắn, vuông, tròn
Đại thừa cũng chẳng phải dài, vắn, vuông, tròn.
Như
hư không chẳng phải xanh, vàng, đỏ, trắng, đen,
Đại thừa cũng chẳng phải xanh, vàng, đỏ, trắng, đen.
Thế nên nói rằng
Đại thừa đồng đẳng với
hư không.
Nầy Tu Bồ Đề! Như
hư không chẳng phải
quá khứ,
vị lai,
hiện tại. Cũng vậy,
Đại thừa chẳng phải
quá khứ,
vị lai,
hiện tại.
Như
hư không chẳng tăng, chẳng giảm. Cũng vậy,
Đại thừa chẳng tăng, chẳng giảm.
Như
hư không chẳng cấu, chẳng tịnh. Cũng vậy,
Đại thừa chẳng cấu, chẳng tịnh.
Như
hư không chẳng sanh, chẳng diệt, không dừng, không đổi. Cũng vậy,
Đại thừa chẳng sanh, chẳng diệt, không dừng, không đổi.
Như
hư không chẳng phải thiện
bất thiện, chẳng phải ký
vô ký. Cũng vậy,
Đại thừa chẳng phải thiện
bất thiện, chẳng phải ký
vô ký.
Như
hư không chẳng thấy nghe, chẳng hay biết. Cũng vậy,
Đại thừa không thấy nghe, hay biết.
Như
hư không chẳng thể biết được, chẳng thể hay được, chẳng thể thấy được, chẳng thể dứt được, chẳng thể chứng được, chẳng thể tu được. Cũng vậy,
Đại thừa chẳng thể biết được, hay được, thấy được, dứt được, cũng chẳng thể chứng được, tu được.
Thế nên nói rằng
Đại thừa đồng đẳng với
hư không.
Nầy Tu Bồ Đề!
hư không chẳng phải tướng nhiễm, tướng ly. Cũng vậy,
Đại thừa chẳng phải tướng nhiễm, chẳng phải tướng ly.
Như
hư không chẳng hệ thuộc
Dục giới,
Sắc giới,
Vô sắc giới. Cũng vậy,
Đại thừa chẳng hệ thuộc
Dục giới,
Sắc giới,
Vô sắc giới.
Như
hư không chẳng có
sơ phát tâm nhẫn đến đệ
thập tâm. Cũng vậy,
Đại thừa không có sơ pháp tâm nhẫn đến hệ
thập tâm.
Như
hư không chẳng có
càn huệ địa, tánh nhơn địa, bát nhơn địa,
kiến địa,
bạc địa,
ly dục địa,
dĩ tác địa. Cũng vậy,
Đại thừa không có
càn huệ địa đến
dĩ tác địa.
Như
hư không chẳng có quả
Tu Đà Hoàn, quả
Tư Đà Hàm, quả
A Na Hàm, quả
A La Hán. Cũng vậy,
Đại thừa không có quả
Tu Đà Hoàn đến quả
A La Hán.
Như
hư không chẳng có
Thanh Văn địa,
Bích Chi Phật địa. Cũng vậy
Đại thừa không có
Thanh Văn địa đến
Phật địa.
Thế nên nói rằng
Đại thừa đồng đẳng với
hư không.
Nầy Tu Bồ Đề! Như
hư không chẳng phải sắc
vô sắc, chẳng phải khả kiến, bất khả kiến,? chẳng phải
hữu đối,
vô đối, chẳng phải hiệp, chẳng phải tán. Cũng vậy,
Đại thừa chẳng phải sắc nhẫn đến chẳng phải tán.
Như
hư không chẳng phải
thường vô thường, chẳng phải lạc, khổ, chẳng phải ngã
vô ngã. Cũng vậy,
Đại thừa chẳng phải
thường vô thường, lạc, khổ, ngã
vô ngã.
Như
hư không chẳng phải không
bất không, chẳng phải tướng
vô tướng, chẳng phải tác
vô tác. Cũng vậy,
Đại thừa chẳng phải không đến chẳng phải
vô tác.
Như
hư không chẳng phải
tịch diệt chẳng
tịch diệt, chẳng phải ly chẳng ly. Cũng vậy,
Đại thừa chẳng phải
tịch diệt đến chẳng phải ly.
Như
hư không chẳng phải tối sáng. Cũng vậy,
Đại thừa chẳng phải tối sáng.
Như
hư không chẳng phải
khả đắc,
bất khả đắc. Cũng vậy,
Đại thừa chẳng phải
khả đắc, chẳng phải
bất khả đắc.
Như
hư không chẳng phải khả thuyết,
bất khả thuyết. Cũng vậy,
Đại thừa chẳng phải khả thuyết, chẳng phải
bất khả thuyết.
Thế nên nói rằng
Đại thừa đồng đẳng với
hư không.
Nầy Tu Bồ Đề! Như lời ông nói, như
hư không dung thọ
vô lượng vô biên chúng sanh,
Đại thừa cũng dung thọ
vô lượng vô biên vô số chúng sanh.
Đúng như vậy. Vì
chúng sanh vô sở hữu, nên biết rằng
hư không vô sở hữu. Vì
hư không vô sở hữu, nên biết rằng
Đại thừa cũng
vô sở hữu. Do đây nên
Đại thừa dung thọ
vô lượng vô biên vô số chúng sanh.
Tại sao vậy? Vì
chúng sanh hư không và
Đại thừa đều
bất khả đắc vậy.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Vì
Đại thừa vô sở hữu nên biết rằng
vô số vô sở hữu. Vì
vô số vô sở hữu nên biết rằng
vô lượng vô sở hữu. Vì
vô lượng vô sở hữu nên biết rằng
vô biên vô sở hữu. Vì
vô biên vô sở hữu nên biết rằng tất cả các pháp
vô sở hữu. Do đây nên
Đại thừa dung thọ
vô lượng vô biên vô số chúng sanh.
Tại sao vậy? Vì
chúng sanh hư không,
Đại thừa vô số vô lượng vô biên, tất cả các pháp đều
bất khả đắc vậy.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Vì ngã nhẫn đến
tri giả,
kiến giả đều
vô sở hữu, nên biết rằng
pháp như,
pháp tánh, thiệt tế
vô sở hữu.
Vì
pháp như,
pháp tánh, thiệt tế
vô sở hữu, nên biết nhẫn đến
vô số vô lượng vô biên đều
vô sở hữu.
Vì
vô số vô lượng vô biên vô sở hữu nên biết tất cả pháp
vô sở hữu.
Do
nhơn duyên nầy nên
Đại thừa dung thọ
vô lượng vô biên vô số chúng sanh. Tại sao vậy? Vì
chúng sanh ngã nhẫn đến
tri giả,
kiến giả cùng thiệt tế
vô biên và tất cả pháp đều
bất khả đắc vậy.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Vì ngã đến
tri giả,
kiến giả đều
vô sở hữu nên biết rằng
bất khả tư nghì tánh
vô sở hữu.
Vì
bất khả tư nghì tánh
vô sở hữu nên biết sắc, thọ, tưởng, hành, thức
vô sở hữu.
Vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức
vô sở hữu nên biết
hư không vô sở hữu.
Vì
hư không vô sở hữu nên biết
Đại thừa vô sở hữu.
Vì
Đại thừa vô sở hữu nên biết
vô số vô lượng vô biên đều
vô sở hữu.
Vì
vô biên vô sở hữu nên biết tất cả các pháp
vô sở hữu.
Do
nhơn duyên nầy nên
Đại thừa dung thọ
vô lượng vô biên vô số chúng sanh. Vì ngã nhẫn đến
tri giả,
kiến giả, tất cả các pháp đều
bất khả đắc vậy.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Vì ngã
vô sở hữu nhẫn đến
tri giả,
kiến giả vô sở hữu nên biết nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý
vô sở hữu.
Vì? nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý
vô sở hữu nên biết
hư không vô sở hữu.
Vì
hư không vô sở hữu nên biết
Đại thừa vô sở hữu.
Vì
Đại thừa vô sở hữu nên biết
vô số vô lượng vô biên và tất cả các pháp
vô sở hữu.
Do
nhơn duyên nầy nên
Đại thừa dung thọ
vô lượng vô biên vô số chúng sanh. Vì ngã đến tất cả các pháp đều
bất khả đắc vậy.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Vì ngã nhẫn đến
tri giả,
kiến giả đều
vô sở hữu nên
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật đều
vô sở hữu.
Vì
Bát nhã ba la mật vô sở hữu nên biết
hư không vô sở hữu.
Vì
hư không vô sở hữu nên biết
Đại thừa vô sở hữu.
Vì
Đại thừa vô sở hữu nên biết
vô số vô lượng vô biên vô sở hữu.
Vì
vô số vô lượng vô biên vô sở hữu nên biết tất cả các pháp
vô sở hữu.
Do
nhơn duyên nầy nên
Đại thừa dung thọ
vô lượng vô biên vô số chúng sanh. Tại sao vậy? Vì ngã
chúng sanh đến tất cả các pháp đều
bất khả đắc vậy.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Vì ngã đến
tri giả,
kiến giả đều
vô sở hữu nên biết
nội không đến
vô pháp hữu pháp không đều
vô sở hữu.
Vì
vô pháp hữu pháp không vô sở hữu nên biết
hư không vô sở hữu.
Vì
hư không vô sở hữu nên biết
Đại thừa vô sở hữu.
Vì
Đại thừa vô sở hữu nên biết
vô số vô lượng vô biên vô sở hữu.
Do
nhơn duyên nầy nên
Đại thừa dung thọ
vô lượng vô biên vô số chúng sanh. Tại sao vậy? Vì ngã
chúng sanh đến tất cả các pháp đều
bất khả đắc vậy.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Vì ngã
chúng sanh đến
tri giả,
kiến giả vô sở hữu nên biết
tứ niệm xứ đến
bất cộng pháp vô sở hữu.
Vì
bất cộng pháp vô sở hữu nên biết
hư không vô sở hữu.
Vì
hư không vô sở hữu nên biết
Đại thừa vô sở hữu.
Vì
Đại thừa vô sở hữu nên biết
vô số vô lượng vô biên vô sở hữu.
Vì
vô biên vô sở hữu nên biết tất cả các pháp
vô sở hữu.
Do
nhơn duyên nầy nên
Đại thừa dung thọ
vô lượng vô biên vô số chúng sanh. Tại sao vậy? Vì ngã
chúng sanh đến tất cả các pháp đều
bất khả đắc vậy.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Vì ngã
chúng sanh đến
tri giả,
kiến giả vô sở hữu nên biết
tánh địa đến
dĩ tác địa vô sở hữu.
Vì
dĩ tác địa vô sở hữu nên biết
hư không vô sở hữu.
Vì
hư không vô sở hữu nên biết
Đại thừa vô sở hữu.
Vì
Đại thừa vô sở hữu nên biết
vô số vô lượng vô biên vô sở hữu.
Do
nhơn duyên nầy nên
Đại thừa dung thọ
vô lượng vô biên vô số chúng sanh. Tại sao vậy? Vì ngã
chúng sanh đến tất cả các pháp đều
bất khả đắc vậy.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Vì ngã đến
tri giả,
kiến giả vô sở hữu nên biết
Tu Đà Hoàn đến
A La Hán vô sở hữu.
Vì A La Hán?
Vô sở hữu nên biết tất cả các pháp
vô sở hữu.
Do
nhơn duyên nầy nên
Đại thừa dung thọ
vô lượng vô biên vô số chúng sanh. Tại sao vậy? Vì
bất khả đắc vậy.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Vì ngã đến
tri giả,
kiến giả vô sở hữu nên biết
Thanh Văn thừa vô sở hữu.
Vì
Thanh văn thừa vô sở hữu nên biết
Bích Chi Phật thừa vô sở hữu.
Vì
Bích Chi Phật thừa vô sở hữu nên biết
Phật thừa vô sở hữu.
Vì
Phật thừa vô sở hữu nên biết người
Thanh Văn vô sở hữu.
Vì người
Thanh Văn vô sở hữu nên biết
Tu Đà Hoàn vô sở hữu nhẫn đến Phật
vô sở hữu.
Vì Phật
vô sở hữu nên biết nhứt thiết
chủng trí vô sở hữu.
Vì nhứt thiết
chủng trí vô sở hữu nên biết
hư không vô sở hữu.
Vì
hư không vô sở hữu nên biết
Đại thừa vô sở hữu.
Vì
Đại thừa vô sở hữu nên
vô số đến tất cả các pháp
vô sở hữu.
Do
nhơn duyên nầy nên
Đại thừa dung thọ
vô lượng vô biên vô số chúng sanh. Tại sao vậy?
Vì
bất khả đắc vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! Như trong tánh
Niết bàn dung thọ
vô lượng vô biên vô số chúng sanh,
Đại thừa nầy cũng dung thọ
vô lượng vô biên vô số chúng sanh.
Do
nhơn duyên nầy nên nói rằng
Đại thừa đồng đẳng với
hư không cũng dung thọ
vô lượng vô biên vô số chúng sanh.
Nầy Tu Bồ Đề! Như lời ông nói
Đại thừa nầy chẳng thấy chỗ đến, chẳng thấy chỗ đi, chẳng thấy chỗ ở.
Đúng như vậy.
Đại thừa nầy chẳng thấy chỗ đến, chỗ đi, chỗ ở. Tại sao vậy? Vì tất cả các
pháp tướng chẳng lay động vậy nên các pháp chẳng có chỗ đến, chỗ đi, chỗ ở.
Tại sao vậy? Nầy Tu Bồ Đề!
Sắc không từ đâu đến, cũng chẳng đi đâu, cũng không chỗ ở. Thọ, tường, hành, thức cũng như vậy.
Sắc pháp,
thọ pháp, tưởng pháp,
hành pháp, thức
pháp không từ đây đến, cũng chẳng đi đâu, cũng không chỗ ở.
Sắc như, thọ như, tưởng như, hành như, thức
như không từ đâu đến, cũng chẳng đi đâu, cũng không chỗ ở.
Sắc tánh đến thức
tánh không từ đâu đến, cũng chẳng đi đâu, cũng không chỗ ở.
Sắc tướng đến thức
tướng không từ đâu đến, cũng chẳng đi đâu, cũng không chỗ ở.
Như
ngũ uẩn,
thập nhị nhập,
thập bát giới,
lục đại chủng cũng vậy. Nhãn, nhãn pháp, nhãn như, nhãn tánh, nhãn tướng, đến thức chủng, thức chủng pháp, thức chủng như, thức
chủng tánh, thức chủng
tướng không từ đâu đến, cũng chẳng đi đâu, cũng không chỏ ở.
Nầy Tu Bồ Đề! Như,
như pháp,
như như, như tánh, như tướng, thiệt tế, thiệt tế pháp, thiệt tế như, thiệt tế tánh, thiệt tế tướng,
bất khả tư nghì,
bất khả tư nghì pháp,
bất khả tư nghì như,
bất khả tư nghì tánh,
bất khả tư nghì tướng, đều không? từ đâu đến, cũng chẳng đi đâu, cũng không chỗ ở.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật,
ba la mật,
ba la mật pháp,
ba la mật như,
ba la mật tánh,
ba la mật tướng, không từ đâ đến, cũng chẳng đi đâu, cũng không chỗ ở.
Tứ niệm xứ,
tứ niệm xứ pháp,
tứ niệm xứ như,
tứ niệm xứ tánh,
tứ niệm xứ tướng, không từ đâu đến, cũng chẳng đi đâu, cũng không chỗ ở. Nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng cũng vậy
Nầy Tu Bồ Đề!
Bồ Tát,
Bồ Tát pháp,
Bồ Tát như,
Bồ Tát tánh,
Bồ Tát tướng, không từ đâu đến, cũng chẳng đi đâu, cũng không chỗ ở.
Phật,
Phật pháp, Phật như,
Phật tánh, Phật
tướng không từ đâu đến, cũng chẳng đi đâu, cũng không chỗ ở.
Vô thượng chánh đẳng chánh giác pháp,
chánh giác như,
chánh giác tánh,
chánh giác tướng không từ đâu đến, cũng chẳng đi đâu, cũng không chở ở.
Nầy Tu Bồ Đề!
Hữu vi,
hữu vi pháp,
hữu vi như,
hữu vi tánh,
hữu vi tướng không từ đâu đến, cũng chẳng đi đâu, cũng không chỗ ở.
Vô vi,
vô vi pháp,
vô vi như,
vô vi tánh,
vô vi tướng, không từ đâu đến, cũng chẳng đi đâu, cũng không chỗ ở.
Do
nhơn duyên nầy nên
Đại thừa đây chẳng thấy chỗ đến, chẳng thấy chỗ đi, chẳng thấy chỗ ở.
Nầy Tu Bồ Đề! Như lời ông nói,
Đại thừa đây
tiền tế,
hậu tế,
trung tế đều
bất khả đắc,
Đại thừa đây gọi là
ba đời bình đẳng nên gọi là
Đại thừa.
Đúng như vậy. Nầy Tu Bồ Đề!
Đại thừa đây
tiền tế bất khả đắc,
hậu tế bất khả đắc,
trung tế bất khả đắc,
ba đời bình đẳng nên gọi là
Đại thừa.
Tại sao vậy? Vì đời
quá khứ thời đời
quá khứ rỗng không, đời
vị lai thời đời
vị lai rỗng không, đời
hiện tại thời đời
hiện tại rỗng không,
ba đời bình đẳng thời
ba đời bình đẳng rỗng không,
Đại thừa thời Đại thừa rỗng không,
Bồ Tát thời
Bồ Tát rỗng không. Tại sao vậy?
tánh không nầy chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải khác, thế nên gọi là
ba đời bình đẳng, là
đại Bồ Tát Đại thừa.
Trong
Đại thừa nầy,
bình đẳng cùng chẳng
bình đẳng đều
bất khả đắc, nhiễm cùng chẳng nhiễm, sân cùng chẳng sân, si cùng chẳng si, mạn cùng chẳng mạn đều
bất khả đắc, nhẫn đến tất cả
pháp thiện cùng pháp
bất thiện đều
bất khả đắc.
Trong
Đại thừa nầy, thường cùng
vô thường, lạc
cùng khổ, thiệt cùng không thiệt, ngã cùng
vô ngã đều
bất khả đắc.
Trong
Đại thừa nầy,
Dục giới,
Sắc giới,
Vô sắc giới đều
bất khả đắc.
Vượt qua Dục giới,
vượt qua Sắc giới,
vượt qua Vô sắc giới đều
bất khả đắc.
Tại sao vậy? Vì
Đại thừa nầy,
tự pháp bất khả đắc vậy.
Nầy Tu Bồ Đề!
Quá khứ sắc, thọ, tưởng, hành, thức,
quá khứ sắc, thọ, tưởng, hành, thức rỗng không.
Vị lai sắc, thọ, tưởng, hành, thức rỗng không.
Hiện tại sắc thọ, tưởng, hành, thức,
hiện tại sắc, thọ, tưởng, hành, thức rỗng không.
Trong
tánh không,
quá khứ,
vị lai,
hiện tại sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều
bất khả đắc. Tại sao vậy? Vì trong
tánh không, không đó còn là
bất khả đắc huống là trong
tánh không mà có được những
tam thế ngũ uẩn.
Nầy Tu Bồ Đề!
Quá khứ,
vị lai,
hiện tại lục ba la mật đều
bất khả đắc. Trong
ba đời bình đẳng,
lục ba la mật cũng
bất khả đắc. Tại sao vậy? Vì trong
bình đẳng quá khứ,
vị lai,
hiện tại đều
bất khả đắc. Trong
bình đẳng,
bình đẳng cũng còn là
bất khả đắc, huống là trong
bình đẳng mà có được
quá khứ,
hiện tại,
vị lai.
Như
lục ba la mật,
tứ niệm xứ đến mười
tám pháp bất cộng cũng vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! Trong
quá khứ,
vị lai,
hiện tại, người
phàm phu bất khả đắc. Trong
ba đời bình đẳng, người
phàm phu cũng
bất khả đắc.
Tại sao vậy? Vì
chúng sanh đến
tri giả,
kiến giả đều
bất khả đắc vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! Trong
quá khứ,
vị lai,
hiện tại,
Thanh Văn,
Bích Chi Phật,
Bồ Tát và Phật đều
bất khả đắc. Trong
ba đời bình đẳng,
Thanh Văn,
Bích Chi Phật,
Bồ Tát và Phật cũng đều
bất khả đắc.
Tại sao vậy? Vì
chúng sanh đến
tri giả,
kiến giả đều
bất khả đắc vậy.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát an trụ trong
Bát nhã ba la mật học tướng
ba đời bình đẳng sẽ được đầy đủ nhứt thiết
chủng trí. Đây gọi là
đại Bồ Tát Đại thừa, cũng chính là tướng
ba đời bình đẳng.
Đại Bồ Tát an tụ trong đây thời hơn tất cả
thế gian, hành trời, Người,
A tu la thành tựu nhứt thiết trí”.
Bấy giờ Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn!
Lành thay,
lành thay! Đại Bồ Tát Đại thừa nầy,
quá khứ chư đại Bồ Tát học trong đây đã được nhứt thiết
chủng trí.
Vị lai chư đại Bồ Tát học trong đây sẽ được nhứt thiết
chủng trí.
Hiện tại chư đại Bồ Tát trong
vô lượng vô số quốc độ mười phương cũng học trong đây mà được nhứt thiết
chủng trí.
Bạch đức Thế Tôn! Do đây nên
Đại thừa nầy thiệt là
đại Bồ Tát Đại thừa vậy”.
Đức Phật nói: "Đúng như vậy.
Quá khứ,
hiện tại,
vị lai,
hiện tại chư
Phật học trong
Đại thừa nầy nên đã được, sẽ được và hiện được nhứt thiết chủng trí”.
PHẨM HỘI TÔNG
THỨ HAI MƯƠI BỐN Bấy giờ Ngài
Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử thưa: "Bạch đức Thế Tôn!
Đức Phật sai Ngài
Tu Bồ Đề vì
chư đại Bồ Tát giải thuyết Bát nhã ba la mật. Nay sao lại nói
Đại thừa làm chi?"
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Con nói
Đại thừa có rời
Bát nhã ba la mật chăng?"
Đức Phật nói: "Tu
Bồ Đề nói
Đại thừa không rời
Bát nhã ba la mật. Tại sao vậy? Vì tất cả
pháp thiện, pháp
trợ đạo,
Thanh Văn pháp hoặc
Bích Chi Phật pháp, hoặc
Bồ Tát pháp, hoặc
Phật pháp đều nhiếp vào trong
Bát nhã ba la mật”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Những
thiện pháp,
trợ đạo pháp,
Thanh Văn pháp,
Bích Chi Phật pháp,
Bồ Tát pháp,
Phật pháp nào đều nhiếp vào trong
Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Những
lục ba la mật,
tứ niệm xứ,
tứ chánh cần,
tứ như ý túc,
ngũ căn,
ngũ lực,
thất giác phần,
bát thánh đạo phần, ba
giải thoát môn,
thập lực,
tứ vô sở úy,
tứ vô ngại trí,
đại từ đại bi, mười
tám pháp bất cộng đây và và những
thiện pháp,
trợ đạo pháp khác, hoặc
Thanh Văn pháp, hoặc
Bích Chi Phật pháp, hoặc
Bồ Tát pháp, hoặc
Phật pháp đều nhiếp vào trong
Bát nhã ba la mật.
Nầy Tu Bồ Đề! Hoặc
đại Bồ Tát Đại thừa, hoặc sáu môn
ba la mật, hoặc
ngũ ấm đến ý xúc,
nhơn duyên, danh thọ, hoặc
sáu đại chủng, hoặc
tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo phần,
ba môn giải thoát và những
thiện pháp, hoặc
hữu lậu,
vô lậu, hoặc
hữu vi,
vô vi, hoặc
tứ đế, hoặc
tam giới, hoặc
thập bát không, hoặc các môn
tam muội, các môn
đà la ni đến mười
tám pháp bất cộng, hoặc Phật,
Phật pháp,
Phật tánh, Phật như, thiệt tế,
bất khả tư nghì tánh,
Niết Bàn, tất cả những pháp nầy đều chẳng hiệp, chẳng tan,
không sắc, không hình, không đối, không ngại, không đẳng một tướng, chính là
vô tướng.
Nầy Tu Bồ Đề! Do
nhơn duyên đây nên
Đại thừa của ông nói
tùy thuận với
Bát nhã ba la mật. Tại sao vậy? Vì
Đại thừa chẳng khác
Bát nhã ba la mật,
Bát nhã ba la mật chẳng khác
Đại thừa,
Bát nhã ba la mật cùng
Đại thừa không hai không khác. Năm
ba la mật kia cũng như vậy.
Nầy Tu Bồ Đề!
Tứ niệm xứ chẳng khác
Đại thừa,
Đại thừa chẳng khác
tứ niệm xứ,
Đại thừa cùng
tứ niệm xứ không hai, không khác.
Tứ chánh cần đến mười
tám pháp bất cộng cũng như vậy.
Do
nhơn duyên đây nên
Tu Bồ Đề nói
Đại thừa chính là nói
Bát nhã ba la mật”.
PHẨM THẬP VÔ
THỨ HAI MƯỜI LĂM
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát tiền tế bất khả đắc,
hậu tế bất khả đắc? ,
trung tế bất khả đắc.
Vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức là
đại Bồ Tát, đây cũng là
bất khả đắc.
Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, là
đại Bồ Tát, đây cũng là
bất khả đắc.
Nơi tất cả thứ, tất cả chỗ cầu tìm
đại Bồ Tát đều
bất khả đắc.
Bạch đức Thế Tôn! Con sẽ dạy cho những
đại Bồ Tát nào về
Bát nhã ba la mật?
Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát chỉ có
danh tự . Như nói
danh tự ngã, ngã
rốt ráo chẳng sanh. Như ngã, các pháp cũng không
tự tánh như vậy.
Những sắc gì rốt rái chẳng sanh? Những thọ, tưởng, hành, thức gì
rốt ráo chẳng sanh?
Bạch đức Thế Tôn!
Rốt ráo chẳng sanh thời chẳng gọi là sắc.
Rốt ráo chẳng sanh thời chẳng gọi là thọ, tưởng, hành, thức.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu pháp
rốt ráo chẳng sanh sẽ dạy
Bát nhã ba la mật nầy chăng? Rời pháp
rốt ráo chẳng sanh cũng không có
Bồ Tát thật hành
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Nếu
Bồ Tát nghe lời nói nầy mà tâm chẳng
trầm một, chẳng
ăn năn, chẳng
kinh hãi, chẳng sợ sệt phải biết rằng đây là bực
đại Bồ Tát có thể thật
hành Bát nhã
ba la mật”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi Ngài
Tu Bồ Đề: “Nhơn duyên gì mà nói rằng
đại Bồ Tát tiền tế bất khả đắc, hậu tể
bất khả đắc,
trung tế bất khả đắc?
Nhơn duyên gì mà nói rằng vì sắc
vô biên nên biết
Bồ Tát cũng
vô biên. Vì thọ, tưởng, hành, thức
vô biên nên biết
Bồ Tát cũng vô biên?
Nhơn duyên gì mà nói rằng sắc là
Bồ Tát đây cũng
bất khả đắc; thọ, tưởng, hành, thức là
Bồ Tát đây cũng bất khả đắc?
Nhơn duyên gì mà nói rằng nơi tất cả thứ tất cả chỗ,
Bồ Tát đều
bất khả đắc, thời sẽ những dạy
Bồ Tát nào về
Bát nhã ba la mật?
Nhơn duyên gì mà nói rằng
Bồ Tát chỉ có danh tự?
Nhơn duyên gì mà nói rằng như nói
danh tự ngã, ngã
rốt ráo chẳng sanh. Như ngã, các pháp cũng không
tự tánh như vậy. Những sắc gì
rốt ráo chẳng sanh, những thọ, tưởng, hành, thức gì
rốt ráo chẳng sanh?
Nhơn duyên gì mà nói rằng
rốt ráo chẳng sanh gọi là sắc,
rốt ráo chẳng sanh chẳng gọi là thọ, tưởng, hành, thức?
Nhơn duyên gì mà nói rằng nếu pháp
rốt ráo chẳng sanh sẽ dạy
Bát nhã ba la mật nầy chăng?
Nhơn duyên gì mà nói rằng rời pháp
rốt ráo chẳng sanh cũng không có
Bồ Tát thật hành
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?
Nhơn duyên gì mà nói rằng nếu
Bồ Tát nghe lời nói nầy mà tâm chẳng
trầm một, chẳng
ăn năn, chẳng
kinh hãi, chẳng sợ sệt thời gọi là
đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật?
Ngài
Tu Bồ Đề trả lời Ngài
Xá Lợi Phất: “Vì
chúng sanh vô sở hữu, nên
Bồ Tát tiền tế bất khả đắc,
hậu tế bất khả đắc,
trung tế bất khả đắc. Vì
chúng sanh không, vì
chúng sanh ly nên
Bồ Tát tiền tế bất khả đắc.
Vì sắc
vô sở hữu, vì thọ, tưởng, hành, thức
vô sở hữu nên
Bồ Tát tiền tế bất khả đắc. Vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức không, vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức ly nên
Bồ Tát tiền tế bất khả đắc.
Vì
ngũ ấm tánh
vô sở hữu nên
Bồ Tát tiền tế bất khả đắc. Vì
lục ba la mật vô sở hữu nên
Bồ Tát tiền tế bất khả đắc.
Tại sao vậy? Vì trong
tánh không,
tiền tế bất khả đắc,
hậu tế bất khả đắc,
trung tế bất khả đắc.
Tánh không chẳng khác
Bồ Tát.
Bồ Tát chẳng khác
tiền tế.
Tánh không cùng
Bồ Tát và
tiền tế, ba pháp ấy không hai, không khác. Vì
nhơn duyên nầy mà
Bồ Tát tiền tế bất khả đắc.
Nầy Ngài
Xá Lợi Phất! Vì
sáu ba la mật rỗng không, vì
sáu ba la mật rời lìa, vì
sáu ba la mật tánh không có nên
Bồ Tát tiền tế bất khả đắc.
Tại sao vậy? Vì trong
tánh không,
tiền tế bất khả đắc,
hậu tế bất khả đắc,
trung tế bất khả đắc.
Tánh không chẳng khác
Bồ Tát.
Bồ Tát chẳng khác
tiền tế.
Tánh không cùng
Bồ Tát và
tiền tế, ba pháp nầy không hai không khác. Do đây nên
Bồ Tát tiền tế bất khả đắc.
Nầy Ngài
Xá Lợi Phất! Vì
nội không đến
vô pháp hữu pháp không là
vô sở hữu, là rỗng không, là rời lìa, là
tánh không có nên
Bồ Tát tiền tế bất khả đắc.
Vì
tứ niệm xứ đến
bất cộng pháp là
vô sở hữu, là rỗng không, là rời lìa, là
tánh không có nên
Bồ Tát tiền tế bất khả đắc.
Tại sao vậy? Vì trong
tánh không,
tiền tế,
hậu tế và
trung tế đều
bất khả đắc.
Tánh không cùng
Bồ Tát và
tiền tế không hai, không khác. Do đây nên
Bồ Tát tiền tế bất khả đắc.
Nầy Ngài
Xá Lợi Phất! Vì tất cả
tam muội môn, tất cả
đà la ni môn là
vô sở hữu, là rỗng không, là rời lìa, là
tánh không có nên
Bồ Tát tiền tế bất khả đắc.
Vì
pháp tánh,
pháp như, thiệt tế,
bất khả tư nghì tánh là
vô sở hữu, rỗng không, rời lìa
tánh không có nên
Bồ Tát tiền tế bất khả đắc.
Nầy Ngài
Xá Lợi Phất! Vì
Thanh Văn,
Bích Chi Phật,
Phật Đà là
vô sở hữu rỗng không, rời lìa
tánh không có nên
Bồ Tát tiền tế bất khả đắc.
Vì
Vô thượng Bồ đề, nhứt thiết
chủng trí là
vô sở hữu, rỗng không, rời lìa
tánh không có nên
Bồ Tát tiền tế bất khả đắc.
Tại sao vậy? Vì trong
tánh không,
tiền tế,
hậu tế,
trung tế đều
bất khả đắc,
Bồ Tát cũng
bất khả đắc.
Không chẳng khác
Bồ Tát, cũng chẳng khác
tiền tế. Không cùng
Bồ Tát và
tiền tế, các pháp nầy không hai không khác. Do đây nên
Bồ Tát tiền tế bất khả đắc.
Như
tiền tế,
hậu tế và
trung tế cũng như vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Sắc như
hư không, thọ, tưởng, hành, thức cũng như
hư không.
Tại sao vậy? Như
hư không, biên bờ và
trung gian đều
bất khả đắc. Vì không có biên và trung nên chỉ gọi tên là
hư không.
Cũng vậy, sắc, thọ, tưởng, hành, thức, biên bờ và
trung gian đều
bất khả đắc. Vì sắc rỗng không. Trong rỗng không cũng không có biên bờ, không có
trung gian. Thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy.
Do
nhơn duyên nầy nên vì sắc
vô biên mà biết
Bồ Tát cũng
vô biên. Vì thọ, tưởng, hành, thức
vô biên nên biết
Bồ Tát cũng
vô biên. Nhẫn đến
bất cộng pháp cũng
luận thuyết như vậy.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Sắc
sắc tướng rỗng không, nhẫn đến thức thức tướng rỗng không.
Đàn na ba la mật Đàn na ba la mật tướng rỗng không, nhẫn đến
Bát nhã ba la mật Bát nhã ba la mật tướng rỗng không.
Nội không nội không tướng rõng không, nhẫn đến
vô pháp hữu pháp không tướng rỗng không.
Tứ niệm xứ tứ niệm xứ tướng rỗng không, nhẫn đến
bất cộng pháp bất cộng pháp tướng rỗng không.
Pháp như pháp như tướng rỗng
không nhẫn đến
bất khả tư nghì tánh
bất khả tư nghì tánh tướng rỗng không.
Tam muội môn tam muội môn tướng rỗng không, nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí nhứt thiết
chủng trí tánh rỗng không.
Thanh Văn thừa Thanh Văn thừa tướng rỗng không, nhẫn đến
Phật thừa Phật thừa tướng rỗng không.
Thanh Văn nhơn
Thanh Văn nhơn tướng rỗng không, nhẫn đến Phật tướng tánh rỗng không.
Trong rỗng không đó, sắc
bất khả đắc, thọ, tưởng. hành, thức
bất khả đắc. Do đây nên sắc là
Bồ Tát đây cũng
bất khả đắc. Thọ, tưởng, hành, thức là
Bồ Tát đây cũng
bất khả đắc.
Lại nầy Ngài
Xá Lợi Phất! Trong sắc, sắc
bất khả đắc. Trong thọ, sắc
bất khả đắc. Trong thọ, thọ
bất khả đắc. Trong sắc, thọ
bất khả đắc. Trong tưởng, thọ
bất khả đắc. Trong tưởng, tưởng
bất khả đắc. Trong sắc thọ, tưởng
bất khả đắc. Trong hành, tưởng
bất khả đắc. Trong hành, hành
bất khả đắc.
Trong sắc thọ tưởng, hành
bất khả đắc. Trong thức, thức
bất khả đắc. Trong sắc thọ tưởng hành, thức
bất khả đắc.
Nầy Ngài
Xá Lợi Phất! Trong nhãn, nhãn
bất khả đắc. Trong nhĩ, nhĩ
bất khả đắc. Trong nhãn, nhĩ
bất khả đắc. Trong tĩ, tĩ
bất khả đắc. Trong nhãn nhĩ, tĩ
bất khả đắc. Trong thiệt, tĩ
bất khả đắc. Trong thiệt, thiệt
bất khả đắc. Trong nhãn nhĩ tĩ, thiệt
bất khả đắc. Trong thân, thân
bất khả đắc. Trong nhãn nhĩ tĩ thiệt, thân
bất khả đắc. Trong ý, thân
bất khả đắc. Trong ý, ý
bất khả đắc. Trong nhãn nhĩ tĩ
thiệt thân, ý
bất khả đắc.
Như
ngũ ấm và sáu căn,
sáu trần, sáu thức và
sáu xúc cùng
sáu xúc,
nhơn duyên, sanh thọ cũng vậy.
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật,
nội không đến
vô pháp hữu pháp không,
tứ niệm xứ đến mười
tám pháp bất cộng, tất cả
tam muội đến tất cả
đà la ni môn, tánh pháp đến
Bích Chi Phật pháp,
sơ địa đến
thập địa, nhứt thiết
chủng trí,
đạo chủng trí và nhứt thiết
chủng trí cũng như vậy.
Tu Đà Hoàn đến Phật cũng như vậy.
Nầy Ngài
Xá Lợi Phất! Trong
Bồ Tát,
Bồ Tát bất khả đắc. Trong
Bát nhã ba la mật,
Bồ Tát bất khả đắc. Trong
Bát nhã ba la mật,
Bát nhã ba la mật bất khả đắc. Trong
Bồ Tát,
Bát nhã ba la mật bất khả đắc. Trong
Bát nhã ba la mật,
giáo hóa vô sở hữu bất khả đắc. Trong
giáo hóa,
giáo hóa vô sở hữu bất khả đắc. Trong
giáo hóa,
Bồ Tát và
Bát nhã ba la mật vô sở hữu bất khả đắc.
Tất cả pháp
vô sở hữu bất khả đắc như vậy. Do
nhơn duyên nầy nên trong tất cả thứ, tất cả chỗ,
Bồ Tát bất khả đắc. Thời sẽ dạy
Bồ Tát nào về
Bát nhã ba la mật?
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Sắc là
giả danh. Thọ, tưởng, hành, thức là
giả danh. Sắc gọi là chẳng phải sắc, nhẫn đến thức gọi là chẳng phải thức.
Tại sao vậy? Vì danh
danh tướng rỗng không. Nếu rống không thời chẳng phải là
Bồ Tát. Do
nhơn duyên nầy
Bồ Tát chỉ có
giả danh.
Nầy Ngài
Xá Lợi Phất!
Đàn na ba la mật chỉ có
danh tự. Trong
danh tự chẳng phải có
Đàn na ba la mật. Trong
Đàn na ba la mật chẳng phải có
danh tự. Do
nhơn duyên nầy
Bồ Tát chỉ có
giả danh.
Như
Đàn na ba la mật, năm
ba la mật kia cũng vậy.
Như
lục ba la mật,
nội không đến
vô pháp hữu pháp không,
tứ niệm xứ đến
bất cộng pháp,
tam muội môn,
đà la ni môn, đến nhứt thiết
chủng trí cũng vậy. Do đây nên
Bồ Tát chỉ có
giả danh.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Ngã
rốt ráo bất khả đắc thời thế nào có sanh. Nhẫn đến
tri giả,
kiến giả rốt ráo bất khả đắc thời thế nào có sanh.
Sắc đến thức
rốt ráo bất khả đắc thời thế nào có sanh.
Nhãn đến ý xúc,
nhơn duyên, sanh thọ
rốt ráo bất khả đắc thời thế nào có sanh.
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật rốt ráo bất khả đắc thời thế nào có sanh.
Nội không đến
vô pháp hữu pháp không rốt ráo bất khả đắc thời thế nào có sanh.
Tứ niệm xứ đến
bất cộng pháp rốt ráo bất khả đắc thời thế nào có sanh.
Tam muội môn đến nhứt thiết
chủng trí rốt ráo bất khả đắc thời thế nào có sanh.
Thanh Văn đến Phật
rốt ráo bất khả đắc thời thế nào có sanh.
Do
nhơn duyên nầy nên nói rằng như ngã,
danh tự ngã cũng
rốt ráo chẳng sanh.
Lại nầy Ngài
Xá Lợi Phất! Vì các pháp hòa hiệp sanh nên không có
tự tánh.
Những gì hòa hiệp sanh nên không có tự tánh?
Sắc hòa hiệp sanh nên không có
tự tánh.
Thọ, tưởng, hành, thức hòa hiệp sanh nên không có
tự tánh.
Nhãn đến ý xúc,
nhơn duyên, sanh thọ hòa hiẹp sanh nên không có
tự tánh.
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật hòa hiệp sanh nên không có
tự tánh.
Tứ niệm xứ đến
bất cộng pháp hòa hiệp sanh nên không có
tự tánh.
Lại nầy Ngài
Xá Lợi Phất! Tất cả pháp
vô thường cũng không mất”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: “Sắc
vô thường cũng không mất. Thọ, tưởng, hành, thức
vô thường cũng không mất.
Tại sao vậy? Vì nếu pháp
vô thường thời là tướng lay động, tướng rỗng không. Do đây nên tất cả
pháp hữu vi vô thường cũng không mất.
Lại nầy Ngài
Xá Lợi Phất! Hoặc
pháp hữu lậu hoặc pháp
vô lậu, hoặc
pháp hữu ký, hoặc pháp
vô ký, là pháp
vô thường cũng không mất.
Tại sao vậy? Vì nếu pháp
vô thường thời là tướng lay động, là tướng rỗng không. Do đây nên tất cả pháp có tạo tác
vô thường cũng không mất.
Lại nầy Ngài
Xá Lợi Phất! Tất cả pháp chẳng phải thường, chẳng phải diệt”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: “Những pháp nào chẳng phải thường, chẳng phải diệt?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Sắc chẳng phải thường chẳng phải diệt, thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh
tự như vậy. Nhẫn đến ý xúc,
nhơn duyên, sanh thọ, chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh
tự như vậy.
Do những
nhơn duyên trên đây, nên các pháp hòa hiệp
sanh không có tự tánh”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: “Do
duyên cớ gì mà sắc đến thức
rốt ráo chẳng sanh?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Sắc đến thức chẳng phải pháp tạo tác. Vì
tác giả bất khả đắc.
Nhẫn đến ý xúc,
nhơn duyên, sanh thọ chẳng phải pháp tạo tác, vì
tác giả bất khả đắc.
Tất cả pháp đều chẳng phải khởi, chẳng phải tác, vì
tác giả bất khả đắc.
Do đây nên sắc đến thức
rốt ráo bất khả sanh”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: “Do
nhơn duyên gì mà
rốt ráo bất khả sanh chẳng gọi là sắc đến thức?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Sắc tánh rỗng không. Rỗng không nầy không có sanh, không có diệt, không có trụ, không có dị. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy.
Nhẫn đến ý xúc,
nhơn duyên, sanh thọ cùng tất cả
pháp hữu vi tánh rỗng không. Rỗng không nầy không có sanh, diệt, trụ, dị.
Do đây nên
rốt ráo chẳng sanh chẳng gọi là sắc.
Rốt ráo chẳng sanh chẳng gọi là thọ, tưởng, hành, thức”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: “Pháp
rốt ráo chẳng sanh, nên dạy
Bát nhã ba la mật nầy chăng?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Rốt ráo chẳng sanh chính là
Bát nhã ba la mật.
Bát nhã ba la mật chính là
rốt ráo chẳng sanh.
Bát nhã ba la mật cùng
rốt ráo chẳng
sanh không hai không khác. Do đây nên nói rằng
rốt ráo chẳng sanh, nên dạy
Bát nhã ba la mật nầy chăng?”
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: “Do
nhơn duyên gì mà rời lìa
rốt ráo chẳng sanh thời không
Bồ Tát thật hành
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Đại
Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật, chẳng thấy
rốt ráo chẳng sanh khác với
Bát nhã ba la mật, cũng chẳng thấy
rốt ráo chẳng sanh khác với
Bồ Tát.
Rốt ráo chẳng sanh với
Bồ Tát không hai, không khác.
Chẳng thấy
rốt ráo chẳng sanh khác với sắc, vì
rốt ráo chẳng sanh với
sắc không hai, không khác.
Chẳng thấy
rốt ráo chẳng sanh khác với sắc, vì
rốt ráo chẳng sanh với
sắc không hai, không khác.
Chẳng thấy
rốt ráo chẳng sanh khác với thọ, tưởng, hành, thức vì
rốt ráo chẳng sanh với thọ, tưởng, hành, thức không hai, không khác, nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí cũng như vậy.
Do đây nên lìa
rốt ráo chẳng sanh nên không có
Bồ Tát thật hành
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: “Do
nhơn duyên gì mà
Bồ Tát nghe thuyết trên đây tâm chẳng
trầm một, chẳng
ăn năn, chẳng
kinh hãi, chẳng sợ sệt, thời gọi là
Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Đại
Bồ Tát chẳng thấy các pháp có giác tri tưởng.
Đại Bồ Tát thấy tất cả các
pháp như mộng, như hưởng, như ảnh,
như ảo, như diệm,
như hóa. Do đây nên nghe thuyết trên đây,
Bồ Tát tâm chằng
trầm một, chẳng
ăn năn, chẳng
kinh hãi, chẳng sợ sệt”.
Bấy giờ Ngài
Tu Bồ Đề bạch Phật: “Thế Tôn!
Đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật quán sát các
pháp như vậy.
Lúc ấy đại Bồ Tát chẳng
lãnh thọ sắc, chẳng
hiển thị sắc, chẳng an trụ sắc, chẳng
chấp trước sắc, cũng chẳng nói là sắc. Với thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy.
Với nhãn, nhĩ, tĩ, thiêt, thân, ý chẳng thọ, chẳng thị, chẳng trụ, chẳng trước, cũng chẳng nói là nhãn đến ý.
Với
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật, chẳng
lãnh thọ, chẳnh
hiển thị, chẳng an trụ, chẳng
chấp trước, cũng chẳng nói là
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật.
Với
nội không đến
vô pháp hữu pháp không, chẳng
lãnh thọ, chẳng
hiển thị, chẳng an trụ, chẳng
chấp trước, cũng chẳng nói là
nội không đến
vô pháp hữu pháp không.
Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát đối với
tứ niệm xứ đến
bất cộng pháp nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí, chẳng
lãnh thọ, chẳng
hiển thị, chẳng an trụ chẳng
chấp trước.
Bạch đức Thế Tôn! Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát chẳng thấy sắc nhẫn đến chẳng thấy nhứt thiết
chủng trí.
Tại sao vậy? Sắc chẳng sanh thời chẳng phải sắc. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng sanh thời chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức.
Nhãn chẳng sanh thời chẳng phải nhãn. Nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý chẳng sanh thời chẳng phải nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý.
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật chẳng sanh thời chẳng phải
Đàn na ba la mật đến chẳng phải
Bát nhã ba la mật.
Nội không đến
vô pháp hữu pháp không chẳng sanh thời chẳng phải
nội không đến chẳng phải
vô pháp hữu pháp không.
Tại sao vậy? Sắc chẳng sanh thời chẳng hai, chẳng khác. Nhẫn đến
vô pháp hữu pháp không chăng sanh thời chẳng hai, chẳng khác.
Bạch đức Thế Tôn!
Tứ niệm xứ chẳng sanh thời chẳng phải
tứ niệm xứ. Nhẫn đến
bất cộng pháp chẳng sanh thời chẳng phải
bất cộng pháp.
Pháp như,
pháp tánh đến
bất khả tư nghì tánh chẳng sanh thời chẳng phải
pháp như đến chẳng phải
bất khả tư nghì tánh. Nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí chẳng sanh thời chẳng phải nhứt thiết
chủng trí.
Tại sao vậy?
Tứ niệm xứ đến nhứt thiết
chủng trí chẳng sanh thời chẳng hai, chẳng khác.
Bất sanh đây chẳng phải một, chẳng phải hai, ba, chẳng phải sai khác. Thế nên pháp ấy chẳng sanh thời chẳng phải pháp ấy.
Bạch đức Thế Tôn!
Sắc tướng chẳng diệt thời chẳng phải sắc.
Tại sao vậy? Sắc và tướng chẳng diệt chẳng hai, chẳng khác. Vì pháp chẳng diệt nầy chẳng phải một, chẳng phải hai, ba, chẳng phải sai khác. Thế nên
sắc tướng chẳng diệt thời chẳng phải sắc.
Như sắc, thọ, tướng, hành, thức nhẫn đến
bất cộng pháp cũng vậy.
Do đây nên sắc vào trong
pháp số vô nhị, thọ, tưởng, hành, thức vào trong
pháp số vô nhị, nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí vào trong
pháp số vô nhị”.