KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT
Hán dịch: Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập - Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Viện Phật Học Phổ Hiền Xuất Bản PL. 2530 DL 1986 (Trọn bộ 3 tập)
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn hành P.L 2539 DL. 1995 (Trọn bộ 3 tập)
QUYỂN THỨ BA
PHẨM KHUYẾN HỌC
THỨ TÁM
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát muốn đầy đủ
Đàn na ba la mật thời phải học
Bát nhã ba la mật, muốn đầy đủ
Thi la ba la mật,
Sằn đề ba la mật, Tỳ lê gia
ba la mật,
Thiền na ba la mật và
Bát nhã ba la mật thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát muốn biết
ngũ uẩn,
thập nhị xứ,
thập bát giới, muốn biết nhãn xúc cùng nhãn xúc làm
nhơn duyên sanh ra thọ, nhẫn đến ý xúc làm
nhơn duyên sanh ra thọ, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát muốn dứt tam, sân, si, mạn, nghi,
thân kiến,
giới thủ, các thứ
tâm sở phiền não, thời phải học
Bát nhã ba la mật. Muốn dứt tứ phược,
tứ kiến,
tứ điên đảo, thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát muốn biết
thập thiện,
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định,
tứ niệm xứ nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng, đều phải học
Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát muốn nhập
giác ý tam muội, muốn nhập
lục thần thông, muốn nhập
cửu thứ đệ định, muốn nhập
siêu việt tam muội, đều phải học
Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát muốn được
sư tử du hí tam muội,
sư tử phấn tấn tam muội, muốn được tất cả môn
đà la ni, muốn được
thủ lăng nghiêm tam muội, bửu ấn
tam muội,
diệu nguyệt tam muội,
nguyệt tràng tướng tam muội, nhứt thiết
pháp ấn tam muội, quán ấn
tam muội,
tất pháp tánh tam muội, tất trụ tứơng
tam muội, như
kim cang tam muội, nhập nhứt thiết
pháp môn tam muội,
tam muội vương tam muội, vương ấn
tam muội, tịnh lực
tam muội,
cao xuất tam muội, tất nhập nhứt thiết
biện tài tam muội, nhập
chư pháp danh
tam muội, quán
thập phương tam muội, chư
đà la ni môn ấn
tam muội, nhật thiết pháp bất vong
tam muội, nhiếp nhứt thiết
pháp tụ ấn
tam muội,
hư không trụ
tam muội, tam phần
thanh tịnh tam muội,
bất thối thần thông tam muội, xuất bát
tam muội, chư
tam muội tràng tướng
tam muội, đều phải học
Bát nhã ba la mật.
Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát muốn
thỏa mãn nguyện vọng của tất cả
chúng sanh thời phải học
Bát nhã ba la mật.
Muốn được đầy đủ những
thiện căn sau đây: thường chẳng đọa vào
ác đạo, chẳng sanh nhà ti tiện, chẳng ở trong hàng
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, chẳng sa vào
Bồ Tát đảnh, thời phải học
Bát nhã ba la mật”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: "Thế nào là sa vào
Bồ Tát đảnh?"
Ngài
Tu Bồ Đề nói: "Nếu
đại Bồ Tát chẳng dùng pháp
phương tiện mà thật hành
sáu ba la mật nhập không,
vô tướng vô tác tam muội, chẳng sa vào hàng
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, cũng chẳng nhập
Bồ Tát vị, đây gọi là
đại Bồ Tát pháp ái sanh, vì thế nên sa vào
Bồ Tát đảnh”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: "Thế nào gọi là
Bồ Tát sanh?"
Ngài
Tu Bồ Đề nói: "Sanh gọi là pháp ái”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: "Những gì là pháp ái?"
Ngài
Tu Bồ Đề nói: "Đại
Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật, sắc, thọ, tưởng, hành, thức là không, là
vô tướng, là
vô tác, là
tịch diệt, là
vô thường, là khổ, là
vô ngã,
Bồ Tát nhẫn thọ ghi nhớ nắm giữ nơi đây, thời gọi là
thuận đạo pháp ái sanh.
Đây là khổ phải biết, đây là tập phải dứt, đây là diệt phải chứng, đây là đạo phải
tu pháp nầy cấu, pháp nầy tịnh, nên gần pháp nầy, chẳng nên gần pháp nầy, chỗ nầy nên làm, chỗ nầy chẳng nên làm, đây là
Bồ Tát đạo, đây chẳng phải
Bồ Tát đạo, đây là chỗ học của
Bồ Tát, đây chẳng phải chỗ học của
Bồ Tát, đây là
Đàn na ba la mật nhẫn đến
Bát nhã ba la mật của
Bồ Tát, đây chẳng phải sáu
pháp ba la mật của
Bồ Tát, đây là
phương tiện của
Bồ Tát, đây chẳng phải phương tiên của
Bồ Tát, đây là chỗ
thành thục của
Bồ Tát, đây chẳng phải chỗ
thành thục của
Bồ Tát. Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật, nếu
đại Bồ Tát nhẫn thọ ghi nhớ nắm giử những pháp trên đây thời gọi là
thuận đạo pháp ái sanh”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: "Thế nào là
Bồ Tát bất sanh?"
Ngài
Tu Bồ Đề nói: "Đại
Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật, trong
nội không chẳng thấy
ngoại không, trong
ngoại không chẳng thấy
nội không, trong
ngoại không chẳng thấy
nội ngoại không, trong
nội ngoại không chẳng thấy
ngoại không, trong
nội ngoại không chẳng thấy
không không, trong
không không chẳng thấy
nội ngoại không, trong
đại không chẳng thấy
không không, trong
đại không chẳng thấy
đệ nhứt nghĩa không, trong
đệ nhứt nghĩa không chẳng thấy
đại không, trong
đệ nhứt nghĩa không chẳng thấy
hữu vi không, trong
hữu vi không chẳng thấy
đệ nhứt nghĩa không, trong
hữu vi không chẳng thấy
vô vi không, trong
vô vi không chẳng thấy
hữu vi không, trong
vô vi không chẳng thấy
tất cánh không, trong
tất cánh không chẳng thấy
vô vi không, trong
tất cánh không chẳng thấy vô thỉ không, trong vô thỉ không chẳng thấy
tất cánh không, trong vô thỉ không chẳng thấy
tán không, trong
tán không chẳng thấy vô thỉ không, trong
tán không chẳng thấy
tánh không, trong
tánh không chẳng thấy
tán không, trong
tánh không chẳng thấy
chư pháp không, trong
chư pháp không chẳng thấy
tánh không, trong
chư pháp không chẳng thấy
tự tướng không, trong
tự tướng không chẳng thấy
chư pháp không, trong
tự tướng không chẳng thấy
vô sở đắc không, trong
vô sở đắc không chẳng thấy
tự tướng không, trong
vô sở đắc không chẳng thấy
vô pháp không, trong
vô pháp không chẳng thấy
vô sở đắc không, trong
vô pháp không chẳng thấy
hữu pháp không, trong
hữu pháp không chẳng thấy
vô pháp không, trong
hữu pháp không chẳng thấy
vô pháp hữu pháp không,? trong
vô pháp hữu pháp không chẳng thấy
hữu pháp không.
Như trên đây là
Bồ Tát bất sanh, là được nhập
Bồ Tát vị.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát muốn học
Bát nhã ba la mật phải học thế nầy: Chẳng nghĩ nhớ
ngũ uẩn,
thập nhị xứ,
thập bát giới, chẳng nghĩ nhớ
sáu ba la mật nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng.
Lúc được những tâm nầy, tâm
vô đẳng đẳng,
đại tâm,
đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật chẳng nên nghĩ nhớ, chẳng nên tự đắc.
Tại sao vậy? Vì tâm nầy chẳng phải tâm, vì
tâm tướng vốn là thường tịnh vậy”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: "Thế nào là
tâm tính thường thanh tịnh?"
Ngài
Tu Bồ Đề nói: "Bồ Tát biết rõ
tâm tướng cùng với tham, sân, si, tất cả
kiết sử,
phiền não vốn chẳng hiệp, chẳng lý nhau, với tâm
Thanh Văn, tâm
Bích Chi Phật vốn chẳng hiệp, chẳng lý nhau. Đây gọi là
Bồ Tát tâm tướng thường thanh tịnh”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: "Có cái
tâm không tâm tướng nầy chăng?"
Ngài
Tu Bồ Đề nói: "Trong
tâm không tướng nầy có thể được những tướng
hữu tâm cùnng tướng
vô tâm chăng?"
Ngài
Xá Lợi Phất nói: "Chẳng thể được”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: "Nếu là chẳng thể được thời chẳng nên hỏi có cái
tâm không tâm tướng chăng”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: "Những gì là
không tâm tướng?"
Ngài
Tu Bồ Đề nói: "Với các pháp, chẳng hư hoại, chẳng
phân biệt, đây gọi là
không tâm tướng”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: "Chỉ có tâm nầy chẳng hư hoại, chẳng
phân biệt, còn sắc nhẫn đến
Phật đạo có là cũng chẳng hư hoại, chẳng
phân biệt chăng?"
Ngài
Tu Bồ Đề nói: "Nếu có thể biết
tam tướng chẳng hư hoại, chẳng
phân biệt, thời cũng có thể biết sắc nhẫn đến
Phật đạo cũng chẳng hư hoại, chẳng phân biệt”.
Ngài
Xá Lợi Phất tán thán: "
Lành thay,
lành thay! Tu Bồ Đề là
chơn Phật tử từ miệng Phật mà sanh, từ thấy pháp mà sanh,
từ pháp hóa sanh, lấy được pháp phần, chẳng lấy tài phần. Trong
chánh pháp tự tin thân được chứng.
Đúng như lời
đức Phật từng khen ông là bực nhứt trong những người được
vô tránh tam muội.
Đại Bồ Tát phải học
Bát nhã ba la mật như vậy. Trong đây cũng phải biết rõ
Bồ Tát đúng như lời ông đa nói mà thật hành, thời chẳng rời
Bát nhã ba la mật.
Những
thiện nam tử,
thiện nữ nhơn muốn học bực
Thanh Văn cũng phải nghe
Bát nhã ba la mật để
thọ trì,
đọc tụng, ghi nhớ, thậc hành. Người muốn học bực
Bích Chi Phật cũng phải nghe
Bát nhã ba la mật để
thọ trì,
đọc tụng, ghi nhớ, thật hành. Người muốn học bực
Bồ Tát cũng phải nghe
Bát nhã ba la mật để
thọ trì,
đọc tụng, ghi nhớ,
thực hành.
Tại sao vậy? Vì trong
Bát nhã ba la mật nói rộng về
tam thừa, nên
Bồ Tát,
Thanh Văn,
Bích Chi Phật đều phải học”.
PHẨM TẬP TÁN
THỨ CHÍN
Ngài
Tu Bồ Đề bạch
đức Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Con chẳng
cảm thấy cũng chẳng được gì là
Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật thời sẽ vì ai mà
giảng thuyết Bát nhã ba la mật?
Bạch đức Thế Tôn! Con chẳng thấy được tất cả các
pháp tập hợp rời tan, nếu con vì
Bồ Tát mà gọi tên là
Bồ Tát có thể con sẽ
hối hận.
Bạch đức Thế Tôn! Tên gọi ấy chẳng an trụ cũng chẳng phải chẳng an trụ. Tại sao vậy? Vì tên gọi vốn
vô sở hữu. Vì thế tên gọi ấy chẳng trụ cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch đức Thế Tôn! Con chẳng thấy được sắc nhẫn đến thức, nhãn nhẫn đến ý, sắc nhẫn đến pháp,
nhãn thức nhẫn đến
ý thức, nhãn xúc nhẫn đến ý xúc,
nhơn duyên, sanh thọ, con cũng chẳng thấy được
vô minh nhẫn đến
lão tử hợp tan,
vô minh diệt nhẫn đến
lão tử hợp tan,
vô minh diệt nhẫn đến
lão tử diệt hợp tan. Nếu đã là chẳng thấy được thời thế nào lại đặt tên. Thế nên tên gọi chẳng trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Tại sao vậy? Vì tên gọi
vô sở hữu vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Con chẳng thấy được tham, sân, si các
phiền não,
kiết sử hợp tan, chẳng thấy được
sáu ba la mật đến mười
tám pháp bất cộng tập hợp rời tan, thời thế nào sẽ đặt tên gọi là
Bồ Tát. Tên gọi nầy chẳng an trụ chẳng phải chẳng an trụ. Tại sao vậy? Vì tên gọi
vô sở hữu vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Con chẳng thấy được
ngũ ấm hợp tan như mộng, như bóng, như vang, như dương diệm, như
biến hóa.
Con chẳng được rời hợp tan, cùng
tịch diệt,
bất sanh,
bất diệt, bất cấu,
bất tịnh hợp tan.
Con chẳng được
pháp tánh, thiệt tế,
pháp tướng,
pháp vị hợp tan.
Con chẳng được những
pháp thiện, pháp
bất thiện hợp tan.
Con chẳng được những
pháp hữu vi,
vô vi,
hữu lậu,
vô lậu hợp tan.
Con chẳng được những pháp
quá khứ,
vị lai,
hiện tại hợp tan.
Con chẳng được những pháp chẳng
quá khứ, chẳng
vị lai, chẳng
hiện tại hợp tan.
Những gì là pháp chẳng
quá khứ, chẳng
vị lai, chẳng hiện tại? Chính là
pháp vô vi vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Con chẳng thấy được
pháp vô vi hợp tan. Chẳng thấy được Phật hợp tan, cũng chẳng thấy được
hằng sa Phật quốc, chư Phật và
Bồ Tát cùng
Thanh Văn,
Bích Chi Phật hợp tan. Vì đều
vô sở hữu nên chẳng trụ, chẳng phải chẳng trụ.
Như thế thời thế nào sẽ có thể giáo
Bồ Tát về
Bát nhã ba la mật.
Bạch đức Thế Tôn!
Danh tự Bồ Tát đây chẳng an trụ, cũng chẳng phải chẳng an trụ. Tại sao vậy? Vì
danh tự nầy
vô sở hữu vậy, thế nên chẳng trụ, cũng chẳng phải chẳng an trụ.
Bạch đức Thế Tôn! Con chẳng thấy được
chư pháp thiệt tướng hợp tan thời thế nào đặt tên cho
Bồ Tát mà gọi là
Bồ Tát.
Danh tự thiệt tướng của các pháp chẳng trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì
danh tự nầy
vô sở hữu. Thế nên
danh tự chẳng trụ, cũng chẳng phải chẳng an trụ.
Bạch đức Thế Tôn! Các pháp do
nhơn duyên hòa hiệp mà có
giả danh thi thiết.
Danh tự Bồ Tát trong
ngũ ấm,
thập nhị xứ,
thập bát giới nhẫn đến trong mười
tám pháp bất cộng đều
bất khả thuyết, ở trong pháp hòa hiệp cũng là
bất khả thuyết.
Ví như mộng, ảnh, hưởng, diệm, hóa trong các pháp, đều
bất khả thuyết.
Ví như danh tự hư không, địa, thủy, hỏa, phong cũng chỉ có thể nói trong không có pháp.
Danh tự của giới,
tam muội,
trí tuệ,
giải thoát,
giải thoát tri kiến,
danh tự của
Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm,
A La Hán,
Bích Chi Phật cũng chỉ có thể nói trong không có pháp.
Danh tự của Phật, của Pháp cũng chỉ có thể nói trong không có pháp. những pháp là thiện,
bất thiện,
thường vô thường, khổ, lạc, ngã
vô ngã,
tịch diệt, ly, hữu, vô .
Bạch đức Thế Tôn! Vì thế nên lòng con sẽ
hối hận nếu con đạt
danh tự Bồ Tát mà gọi là
Bồ Tát, vì tướng hợp tan của tất cả pháp đều
bất khả đắc.
Danh tự ấy chẳng trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ, vì là
vô sở hữu vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu
đại Bồ Tát nghe nói tướng và nghĩa của
Bát nhã ba la mật như
vậy mà tâm chẳng
trầm một, chẳng
hối tiếc, chẳng kinh, chẳng sợ, thời phải biết
Bồ Tát nầy
quyết định an trụ trong tánh
bất thối chuyển, vì chẳng an trụ nơi các pháp vậy.
Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát muốn thật
hành Bát nhã
ba la mật, chẳng nên an trụ trong
ngũ uẩn,
thập nhị xứ,
thập bát giới, chẳng nên an trụ trong
sáu đại chủng,
thập nhị nhơn duyên.
Tại sao vậy? Vì sắc và
sắc tướng là
không nhẫn đến
lão tử và tướng
lão tử là không.
Sắc không nhẫn đến
lão tử không chẳng gọi là sắc nhẫn đến chẳng gọi là
lão tử. rời ngoài không cũng cũng không có sắc, nhẫn đến rời ngoài không cũng không có
lão tử. Sắc tức là không, không tức là sắc. Nhẫn đến
lão tử tức là không, không tức là
lão tử.
Vì lẽ trên đây nên lúc muốn thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát chẳng nên an trụ trong sắc, nhẫn đến chẳng nên an trụ trong
lão tử. Chẳng nên an trụ trong
tứ niệm xứ nhẫn đến chẳng nên an trụ trong mười
tám pháp bất cộng. Tại sao vậy? Vì
tứ niệm xứ và tướng của
tứ niệm xứ là không.
Tứ niệm xứ không chẳng gọi là
tứ niệm xứ, rời ngoài không cũng không có
tứ niệm xứ.
Tứ niệm xứ tức là không, không tức là
tứ niệm xứ. Nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng cũng như vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Lúc muốn thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát chẳng nên ai trụ trong
sáu ba la mật. Tại sao vậy? Vì
sáu ba la mật và tướng của
sáu ba la mật là không.
Sáu ba la mật không chẳng gọi là
sáu ba la mật. rời ngoài không cũng chẳng có
sáu ba la mật.
Sáu ba la mật tức là không, không tức là
sáu ba la mật.
Bạch đức Thế Tôn! Lúc muốn thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát chẳng nên an trụ trong nhứt
tự môn,
nhị tự môn nhẫn đến
vô lượng tự môn. Vì
ý nghĩa cũng như trên đã nói.
Bạch đức Thế Tôn! Lúc muốn thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát chẳng nên an trụ trong các
môn thần thông. Vì
ý nghĩa cũng như trên đã nói.
Bạch đức Thế Tôn! Lúc muốn thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát chẳng nên an trụ trong sắc là
vô thường, sắc là khổ, sắc là
vô ngã, sắc là không, sắc là
tịch diệt, là ly. Tại sao vậy? Vì
vô thường và tướng
vô thường là không.
Vô thường không chẳng gọi là
vô thường, rời ngoài không cũng chẳng có
vô thường.
Vô thường tức là không, không tức là
vô thường. Khổ,
vô ngã không tịch diệt và ly cũng như vậy. Nhẫn đến thọ, tưởng, hành, thức là ly,
đại Bồ Tát chẳng nên an trụ cũng như vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Lúc muốn thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát chẳng nên an trụ trong
như như. Tại sao vậy? Vì như tướng là không nên chẳng gọi
như như, rời ngoài không cũng chẳng có
như như. Như tức là không, không tức là như.
Bạch đức Thế Tôn! Muốn thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát chẳng nên an trụ trong
pháp tánh,
pháp tướng,
pháp vị, thiệt tế. Tại sao vậy? Vì thiệt tế và thiệt tế tướng là không. Thiệt tế không chẳng gọi là thiệt tế, rời ngoài không cũng cũng chẳng có thiệt tế. Thiệt tế tức là không, không tức là thiệt tế.
Bạch đức Thế Tôn! Muốn thật
hành Bát nhã
ba la mật, đại
Bát nhã ba la mật chẳng nên an trụ trong tất cả môn
đà la ni, môn
tam muội. Tại sao vậy? Vì tướng của
đà la ni và
tam muội là không. Đã là không thời chẳng gọi là môn
đà la ni môn
tam muội. Rời ngoài không cũng chẳng có môn
đà la ni, môn
tam muội. Môn
đà la ni và môn
tam muội tức là không, không tức là môn
đà la ni và môn
tam muội.
Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát muốn thật
hành Bát nhã
ba la mật, vì không
phương tiện nên an trụ trong sắc, thọ, tưởng, hành, thức, vì có tâm
chấp ngã nên
Bồ Tát nầy
sanh khởi sắc hành. Nếu đã
sanh khởi hành thời chẳng nhẫn thọ
Bát nhã ba la mật và cũng chẳng đầy đủ
Bát nhã ba la mật. Vì chẳng đầy đủ
Bát nhã ba la mật nên chẳng
thành tựu được nhứt thiết
chủng trí.
Như
ngũ uẩn,
thập nhị xứ đến
tam muội môn cũng như vậy. Do tâm ngô ngã mà
Bồ Tát sanh khởi tam muội môn hành. Vì có hành nên chẳng nhẫn thọ và chẳng đầy đủ
Bát nhã ba la mật, do đây nên chẳng
thành tựu được
nhất thiết chủng trí.
Tại sao vậy? Vì sắc đến
tam muội môn vốn chẳng thọ nhận. Vì chẳng thọ nhận nên sắc chẳng phải sắc, đến
tam muội môn, chẳng phải
tam muội môn, vì là
tánh không.
Bát nhã ba la mật cũng chẳng thọ nhận, thế nên chẳng phải
Bát nhã ba la mật, vì là
tánh không.
Vì thế nên muốn thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát phải quán các
pháp tánh không,
quán tâm không
hành xứ. Đây gọi là
Bồ Tát chẳng thọ nhận,
công dụng tam muội quảng đại nầy chẳng
cùng chung với hàng
Thanh Văn,
Bích Chi Phật.
Nhứt thiết
chủng trí đây cũng chẳng thọ nhận, vì là
nội không, vì là
ngoại không,
nội ngoại không,
không không,
đại không,
đệ nhứt nghĩa không,
hữu vi không,
vô vi không,
tất cánh không, vô thỉ không,
tán không,
tánh không,
tự tướng không,
chư pháp không,
bất khả đắc không,
vô pháp không,
hữu pháp không,
vô pháp hữu pháp không.
Tại sao vậy? Vì nhứt thiết
chủng trí chẳng thể dùng tướng và hành mà có thể được tướng hành. Vì tướng hành là cấu tướng.
Những gì là cấu tướng?
Sắc tướng đến
tam muội môn tướng gọi là tướng
cấu uế.
Nếu nhẫn thọ, nếu
tu hành cấu tướng nầy mà có thể được nhứt thiết
chủng trí thời
phạm chí Tiên Ni tất chẳng phát
tín tâm.
Tin thế nào? Tin
Bát nhã ba la mật.
Suy gẫm phân biệt rõ biết chẳng do
pháp hữu tướng, chẳng do pháp
vô tướng. Như thế,
phạm chí Tiên Ni chẳng chấp lấy tướng mà an trụ. Trong
tín hành,
phạm chí Tiên Ni dùng
tín không trí nhập trong
pháp tướng, chẳng nhẫn thọ sắc, thọ, tưởng, hành, thức, vì các pháp vốn
tự tướng không nên chẳng thể nhẫn thọ.
Phạm chí Tiên Ni nầy do chẳng phải
nội quán, ngoại quán và
nội ngoại quán mà được
trí tuệ nầy. Cũng do chẳng phải là không
trí huệ quán nên được
trí huệ nầy.
Tại sao vậy?
Phạm chí nầy chẳng thấy có pháp, vì người trí biết pháp, biết xứ vậy.
Chẳng phải ở trong sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng phải ở ngoài sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà
phạm chí nầy được trí, cũng chẳng ở trong
nội ngoại sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà được
trí huệ nầy, cũng chẳng phải rời ngoài sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà được
trí tuệ nầy, vì
nội ngoại không vậy.
Ở trong đây
phạm chí Tiên Ni tâm được
tín giải nơi
nhứt thiết trí. Thế nên
phạm chí tin
thiệt tướng của các pháp, vì tất cả các pháp
bất khả đắc.
Tín giải như vậy rồi thời không có pháp để có thể nhẫn thọ, vì các
pháp không tướng, không
ức niệm.
Nơi các pháp, phạm? chí
Tiên Ni cũng
vô sở đắc, không thủ, không xả, vì thủ xả đều
bất khả đắc vậy.
Phạm chí Tiên Ni cũng chẳng niệm
trí huệ, vì các
pháp tướng vôn
vô niệm vậy.
Đây gọi là
Bát nhã ba la mật của
đại Bồ Tát vì
Bát nhã ba la mật chẳng phải
Bát nhã ba la mật vậy.
Đại Bồ Tát chẳng nhẫn thọ sắc, thọ, tưởng, hành, thức, vì tất cả các pháp chẳng nhẫn thọ vậy. Nhẫn đến chẳng thọ
tam muội môn, vì tất cả pháp chẳng htọ vậy.
Ở trong đây,
Bồ Tát nầy cũng chẳng lấy
Niết Bàn niệm xứ, vì chưa đầy đủ
tứ niệm xứ nhẫn đến chưa đầy đủ mười
tám pháp bất cộng.
Tứ niệm xứ nầy chẳng phải
tứ niệm xứ, nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng chẳng phải pháp
bất cộng. Những pháp nầy chẳng phải pháp, cũng không chẳng phải pháp.
Đây gọi là
Bát nhã ba la mật của
đại Bồ Tát chẳng thọ sắc, nhẫn đến chẳng
thọ pháp bất cộng.
Bạch đức Thế Tôn! Muốn thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát phải
tư duy như vầy: Gì là
Bát nhã ba la mật? Tại sao gọi là
Bát nhã ba la mật?
Bát nhã ba la mật của ai?
Nếu thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát nên nghĩ nhớ rằng nếu các pháp
vô sở hữu bất khả đắc thời là
Bát nhã ba la mật”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: "Những pháp gì
vô sở hữu bất khả đắc?"
Ngài
Tu Bồ Đề nói: "Bát nhã
ba la mật là pháp
vô sở hữu bất khả đắc,
Thiền na, Tỳ lê gia,
Sằn đề,
Thi la,
Đàn na ba la mật là pháp
vô sở hữu bất khả đắc. Tại sao vậy? Vì là
nội không,
ngoại không,
nội ngoại không,
không không,
đại không,
đệ nhứt nghĩa không,
hữu vi không,
vô vi không,
tất cánh không,
tự tướng không,
chư pháp không,
bất khả đắc không,
vô pháp không,
hữu pháp không,
vô pháp hữu pháp không vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là pháp
vô sở hữu bất khả đắc, nhẫn đến
vô pháp hữu pháp không là pháp
vô sở hữu bất khả đắc.
Tứ niệm xứ đến
bất cộng pháp là pháp
vô sở hữu bất khả đắc. Các
môn thần thông cùng
như như pháp tánh,
pháp tướng,
pháp vị,
pháp trụ và thiệt tế đều là pháp
vô sở hữu bất khả đắc.
Nầy
Xá Lợi Phất! Phật cùng
nhứt thiết trí, nhứt thiết
chủng trí là pháp
vô sở hữu bất khả đắc. Vì là
nội không nhẫn đến
vô pháp hữu pháp không vậy.
Nầy
Xá Lợi Phất! Nếu lúc
tư duy như vậy,
quán sát như vậy,
đại Bồ Tát tâm chẳng
trầm một, chẳng
hối tiếc, chẳng khinh, chẳng sợ, phải biết
đại Bồ Tát nầy chẳng rời hạnh
Bát nhã ba la mật”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: "Do
nhơn duyên gì mà biết
Bồ Tát chẳng rời hạnh
Bát nhã ba la mật?"
Ngài
Tu Bồ Đề nói: "Sắc rời sắc tánh, nhẫn đến thức rời thức tánh.
Sáu ba la mật rời
sáu ba la mật tánh, nhẫn đến thiệt tế rời thiệt tế tánh”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: "Thế nào là sắc tánh đến thiệt tế tánh?"
Ngài
Tu Bồ Đề nói: "Vô
sở hữu là sắc tánh, nhẫn đến
vô sở hữu là thiệt tế tánh. Vì
duyên cớ nầy nên biết rằng sắc rời sắc tánh nhẫn đến thiệt tế rời thiệt tế tánh.
Nầy Ngài
Xá Lợi Phất! Sắc cũng rời
sắc tướng, nhẫn đến thiệt tế cũng rời thiệt tế tướng. Tướng cũng rời tướng, tánh cũng rời tánh”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: "Nếu học như vậy,
đại Bồ Tát được nhứt thiết
chủng trí chăng?"
Ngài
Tu Bồ Đề nói: "Đúng như vậy. Nếu
đại Bồ Tát học như vậy
thời thành tựu nhứt thiết
chủng trí. Tại sao vậy? Vì các pháp chẳng
sanh khởi, chẳng
thành tựu vậy”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: "Duyên cớ gì các pháp chẳng sanh, chẳng thành?"
Ngài
Tu Bồ Đề nói: "Vì sắc tức là
sắc không, nhẫn đến vì thiệt tế là thiệt tế không nên sắc sanh thành
bất khả đắc, nhẫn đến thiệt tế sanh thành
bất khả đắc.
Nầy Ngài
Xá Lợi Phất! Học như vậy,
đại Bồ Tát lần lần gần nhứt thiết
chủng trí, lần lần được
thân thanh tịnh,
tâm thanh tịnh và tướng
thanh tịnh. Vì được thân và tâm cùng tướng
thanh tịnh nên
đại Bồ Tát nầy chẳng phát sanh những tâm
phiền não, tham, sân, si, mạn, xan
tà kiến. Vì chẳng phát sanh tâm
phiền não nên
Bồ Tát nầy chẳng sanh từ bụng người mẹ mà thường
hóa sanh từ một
Phật quốc đến một
Phật quốc để
thành tựu chúng sanh,
thanh tịnh Phật độ, mãi đến khi thành
Vô thượng Bồ đề trọn chẳng lúc nào rời chư Phật.
Đại Bồ Tát phải học và
hành Bát nhã
ba la mật như vậy”.
PHẨM HÀNH TƯỚNG
THỨ MƯỜI
Ngài
Tu Bồ Đề bạch
đức Phật: "Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát nếu không phương tiện mà muốn thật
hành Bát nhã
ba la mật, nếu duyên nơi sắc, nếu duyên nơi thọ, tưởng, hành, thức, thời là
hành tướng, nếu duyên nơi sắc, thọ, tưởng, hành, thức, hoặc
thường hay vô thường, hoặc lạc hay khổ, hoặc hữu hay không, hoặc ngã hay
vô ngã, hoặc ly, hoặc
tịch diệt, đây đều là
hành tướng cả.
Nếu
đại Bồ Tát không
phương tiện mà duyên nơi
tứ niệm xứ, nhẫn đến duyên nơi mười
tám pháp bất cộng, đây là
hành tướng.
Nếu thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát nghĩ rằng: Tôi có thật
hành Bát nhã
ba la mật, đây là
hành tướng. Hoặc lại nghĩ rằng có thể thật hành như vậy thời là
tu hành Bát nhã ba la mật, đây cũng là
hành tướng. Nên biết
đại Bồ Tát nầy không có
phương tiện mà thật
hành Bát nhã
ba la mật.
Ngài
Tu Bồ Đề lại nói với Ngài
Xá Lợi Phất: "Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật, nếu
đại Bồ Tát phân biệt duyên nơi sắc, vì
vấn đề sắc mà khởi hạnh. Nếu vì
vấn đề sắc mà khởi hạnh, thời chẳng thể
thoát ly sanh, lão, bệnh, tử,
ưu bi,
khổ não và
khổ quả đời sau. Như sắc với thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy.
Như
ngũ ấm với
lục căn,
lục trần,
thập bát giới với
tứ niệm xứ, nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng cũng vậy. Nếu
đại Bồ Tát phân biệt duyên nơi pháp
bất cộng, vì
vấn đề pháp
bất cộng mà khởi hạnh thời chẳng thể
thoát ly sanh, lão, bịnh, tử,
ưu bi,
khổ não và quả khổ
đời sau Bồ Tát như đây còn chẳng thể chứng bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật huống là có thể được
Vô thượng Bồ đề.
Nên biết
Bồ Tát như vậy là không
phương tiện mà thật
hành Bát nhã
ba la mật”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: "Thế nào biết rằng
đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật mà có phương tiện?"
Ngài
Tu Bồ Đề nói: "Lúc muốn thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát chẳng duyên nơi sắc, chẳng duyên nơi thọ, tưởng, hành, thức, chẳng duyên nơi tướng của sắc, chẳng duyên nơi tướng của thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng duyên nơi sắc, thọ, tưởng, hành, thức là thường, là
vô thường, là lạc, là khổ, là ngã, là
vô ngã, là không, là
vô tướng, là
vô tác, là ly, là tịnh diệt. Với tất cả,
đại Bồ Tát đều chẳng duyên.
Tại sao vậy?
Nầy
Xá Lợi Phất!
Sắc không đây thời chẳng phải sắc, rời ngoài không cũng chẳng có sắc, rời ngoài sắc cũng chẳng có không, sắc tức là không, không tức là sắc. thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy.
Nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng, pháp
bất cộng không thời là chẳng phải pháp
bất cộng, rời không chẳng có pháp
bất cộng, rời pháp
bất cộng cũng chẳng có không, pháp
bất cộng tức là không, không tức là pháp
bất cộng.
Nên biết đây là
đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật có
phương tiện vậy.
Thật
hành Bát nhã
ba la mật mà có
phương tiện như vậy,
đại Bồ Tát nầy có thể được
Vô thượng Bồ đề.
Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát nầy chẳng nhận lấy thật hành, chẳng nhận lấy chẳng thật hành, chẳng nhận lấy thật hành chẳng thật hành, cũng chẳng nhận lấy chẳng phải thật hành chẳng phải chẳng thật hành. Chẳng nhận lấy, cũng chẳng nhận lấy”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: "Duyên cớ gì mà
đại Bồ Tát chẳng nhận lấy?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: "Vì
tự tánh bất khả đắc nên chẳng nhận lấy.
Tại sao vậy? Vì không có tánh, chính đó là
Bát nhã ba la mật. Thế nên
đại Bồ Tát với tất cả đều chẳng nhận lấy. Với chẳng nhận lấy, cũng chẳng nhận lấy.
Tại sao vậy? Vì
pháp tánh là
vô sở hữu nên chẳng duyên nơi pháp, cũng chẳng nhận lấy các
pháp tướng.
Đây gọi là
tác dụng quảng đại của
chư pháp vô sở thọ
tam muội của
đại Bồ Tát.
Tam muội chẳng
cùng chung với hàng
Thanh Văn,
Bích Chi Phật.
Đại Bồ Tát thường thật hành
tam muội nầy mà chẳng rời thời mau được
Vô thượng Bồ đề”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: "Chỉ chẳng rời
tam muội nầy mà
đại Bồ Tát mau được
Vô thượng Bồ đề, hay là còn những
tam muội khác?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: "Những
tam muội sau đây cũng làm cho
đại Bồ Tát mau được
Vô thượng Bồ đề. Như là
thủ lăng nghiêm tam muội, bửu ấn
tam muội,
sư tử du hí tam muội,
diệu nguyệt tam muội,
nguyệt tràng tướng tam muội, xuất
chư pháp ấn
tam muội,
quán đảnh tam muội,
tất pháp tánh tam muội,
tất tràng tướng tam muội,
kim cang tam muội, nhập
pháp ấn tam muội,
tam muội vương an lập tam muội, vương ấn
tam muội,
phóng quang tam muội,
lực tấn tam muội, xuất sanh
tam muội,
tất nhập biện tài tam muội, nhập
danh tự tam muội, quán phương
tam muội,
đà la ni ấn
tam muội, bất vong
tam muội, nhiếp
chư pháp hải ấn tam muội, biến phú
hư không tam muội,
kim cang luân tam muội, bửu đoạn
tam muội, năng chiếu diệu
tam muội, bất cầu
tam muội,
tam muội vô xứ trụ
tam muội,
vô tâm tam muội, tịnh đăng
tam muội,
vô biên minh tam muội, năng tác minh
tam muội,
phổ chiếu minh
tam muội, kiên tịnh chư
tam muội tam muội,
vô cấu minh
tam muội, tác nhạc
tam muội, điển quang
tam muội, vô tịnh
tam muội,
oai đức tam muội, ly tận
tam muội,
bất động tam muội,
trang nghiêm tam muội, nhựt quang
tam muội,
nguyệt tịnh tam muội, tịnh minh
tam muội, tác hành
tam muội, tri tướng
tam muội, như
kim cang tam muội, tâm trụ
tam muội,
biến chiếu tam muội,
an lập tam muội, bửu đảng
tam muội,
diệu pháp ấn
tam muội, pháp đẳng
tam muội, lập sanh hỉ
tam muội, đáo pháp đảnh
tam muội, năng tán
tam muội, hoại
chư pháp xứ
tam muội, tự đẳng tướng
tam muội, ly tự
tam muội, đoạn duyên
tam muội,
bất hoại tam muội, vô chủng tướng
tam muội, vô xứ hành
tam muội, ly ám
tam muội, vô khứ
tam muội, độ duyên
tam muội, tập chư đức
tam muội, trụ
vô tâm tam muội,
tịnh diệu hoa
tam muội,
giác ý tam muội,
vô lượng biện
tam muội,
vô đẳng đẳng tam muội, độ
chư pháp tam muội,
phân biệt chư pháp tam muội,
tán nghi tam muội,
vô trụ xứ
tam muội, nhứt tướng tâm muội, bất nhứt hạnh
tam muội,
diệu hạnh tam muội, đạt nhứt thiết hữu để tán
tam muội, nhập
ngôn ngữ tam muội, ly
âm thanh tự ngữ
tam muội, nhiên cự
tam muội, tịnh tướng
tam muội,
phá tướng tam muội, nhứt thiết chủng như túc
tam muội, bất hỷ khổ lạc
tam muội, bất tận hành
tam muội,
đà la ni tam muội, thủ chư
tà chánh tướng
tam muội, diệt tắng ái
tam muội,
nghịch thuận tam muội,
tịnh quang tam muội,
kiên cố tam muội,
mãn nguyệt tịnh quang tam muội,
đại trang nghiêm tam muội, năng chiếu nhứt thiết thế
tam muội, đẳng
tam muội,
vô tránh hạnh
tam muội,
vô trụ xứ lạc
tam muội, như
trụ định tam muội, hoại
thân tam muội, hoại ngữ như
hư không tam muội, ly trước như
hư không bất nhiễn
tam muội.
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát thật hành các môn
tam muội trên đây cùng
vô lượng vô số môn
tam muội môn đà la ni đều có thể mau được
Vô thượng Bồ đề”.
Thuận theo ý của
đức Phật, Ngài
Tu Bồ Đề nói: "Nên biết rằng
chư đại Bồ Tát thật hành các môn
tam muội nầy, thời đã được chư Phật
quá khứ thọ ký. Chư
Phật hiện tại ở
mười phương cũng
thọ ký cho
đại Bồ Tát nầy.
Chư đại Bồ Tát nầy chẳng thấy, chẳng nghĩ những
tam muội ấy, cũng chẳng nghĩ rằng tôi sẽ nhập, đương nhập, hay đã nhập những
tam muội ấy.
Chư đại Bồ Tát nầy
hoàn toàn không có
quan niệm phân biệt”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: "Đại
Bồ Tát an trụ nơi những
tam muội nầy, có phải đã được
thọ ký từ chư Phật
quá khứ chăng?"
Ngài
Tu Bồ Đề nói: "Không phải. Tại sao vậy? Nầy
Xá Lợi Phất!
Bát nhã ba la mật chẳng khác những
tam muội, . Những
tam muội chẳng khác
Bát nhã ba la mật.
Bồ Tát chẳng khác
Bát nhã ba la mật và
tam muội.
Bát nhã ba la mật và
tam muội chẳng khác
Bồ Tát.
Bát nhã ba la mật tức là
tam muội.
Tam muội tức là
Bát nhã ba la mật.
Bồ Tát tức là
Bát nhã ba la mật và
tam muội.
Bát nhã ba la mật và
tam muội tức là Bồ Tát”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: "Nếu
tam muội chẳng khác
Bồ Tát,
Bồ Tát chẳng khác
tam muội,
tam muội tức là
Bồ Tát,
Bồ Tát tức là
tam muội, thời
Bồ Tát thế nào biết tất cả pháp là tam muội?"
Ngài
Tu Bồ Đề nói: "Lúc
Bồ Tát nhập
tam muội nầy chẳng nghĩ rằng tôi dùng pháp nầy để nhập
tam muội nầy. Do
duyên cớ đây nên đối với các
tam muội,
Bồ Tát chẳng biết, chẳng nhớ”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: "Tại sao chẳng biết, chẳng nhớ ?"
Ngài
Tu Bồ Đề nói: "Vì các
tam muội vô sở hữu nên
Bồ Tát chẳng biết, chẳng nhớ”.
Đức Phật khen: "Lành thay,
lành thay! Nầy Tu Bồ Đề! Đúng như lời của Phật từng nói, ông là người thật hành
vô tránh tam muội đệ nhứt được
tương ứng với nghĩa nầy.
Đại Bồ Tát phải
y theo nghĩa nầy mà học
sáu ba la mật,
tứ niệm xứ nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: "Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát học như vậy có phải là học
Bát nhã ba la mật chăng?"
Đức Phật nói: "Đại
Bồ Tát học như vậy chính là học
Bát nhã ba la mật bì pháp ấy là
bất khả đắc. Cũng chính là học năm
ba la mật kia cùng
tứ niệm xứ nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng, vì pháp ấy là
bất khả đắc vậy”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: "Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát học
Bát nhã ba la mật như vậy, có phải pháp ấy là
bất khả đắc chăng?"
Đức Phật nói: "Đại
Bồ Tát học
Bát nhã ba la mật như vậy, pháp ấy là bất khả đắc”.
Ngài
Xá Lợi Phất thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Những pháp gì là bất khả đắc?"
Đức Phật nói: "Ngã là
bất khả đắc, nhẫn đến
tri giả,
kiến giả là
bất khả đắc, vì
rốt ráo thanh tịnh vậy.
Ngũ ấm,
thập nhị xứ,
thập bát giới là
bất khả đắc, vì
rốt ráo thanh tịnh vậy.
Tứ đế,
thập nhị nhơn duyên là
bất khả đắc, vì
rốt ráo thanh tịnh vậy.
Dục giới,
Sắc giới,
Vô sắc giới là
bất khả đắc, vì
rốt ráo thanh tịnh vậy.
Tứ niệm xứ nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng là
vô sở đắc, vì
rốt ráo thanh tịnh vậy.
Sáu ba la mật là
vô sở đắc, vì
rốt ráo thanh tịnh vậy.
Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm,
A La Hán,
Bích Chi Phật,
Bồ Tát, Phật là
vô sở đắc, vì
rốt ráo thanh tịnh vậy”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: "Bạch đức Thế Tôn! Những gì là
rốt ráo thanh tịnh?"
Đức Phật nói: "Chẳng xuất, chẳng sanh, không được, không làm, đây gọi là
rốt ráo thanh tịnh”.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu
đại Bồ Tát học như vậy, đó là học những pháp gì ?
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát học như vậy, với các pháp là
vô sở học. Tại sao vậy? Nầy
Xá Lợi Phất! Các
pháp tướng chẳng phải như chỗ
chấp trước của kẻ
phàm phu.
Bạch đức Thế Tôn! Các
pháp thiệt tướng thế nào có ?
Nầy
Xá Lợi Phất! Các pháp
vô sở hữu. Hữu như vậy,
vô sở hữu như vậy, nơi sự nầy mà chẳng biết thời gọi là
vô minh.
Bạch đức Thế Tôn! Những gì là
vô sở hữu, nơi sự nầy chẳng biết nên gọi là vô minh?
Nầy
Xá Lợi Phất!
Ngũ ấm đến
thập bát giới là
vô sở hữu,
tứ niệm xứ đến pháp
bất cộng là
vô sở hữu. Tại sao vậy? Vì là
nội không, nhẫn đến
vô pháp hữu pháp không vậy.
Ở trong đây, vì sức
vô minh làm cho
khát ái nên kẻ
phàm phu vọng thấy
phân biệt. Đây gọi là
vô minh. kẻ
phàm phu nầy bị
nhị biên trói buộc nên chẳng biết, chẳng thấy các pháp
vô sở hữu. Do đây mà nhớ tưởng
phân biệt chấp trước nơi sắc, nhẫn đến pháp
bất cộng.
Nơi pháp
vô sở hữu, vì
chấp trước nên người nầy sanh ra sự
phân biệt biết và thấy. Đây là kẻ
phàm phu chẳng biết, chẳng thấy. Chẳng thấy, chẳng biết những gì ? Chẳng thấy, chẳng biết sắc, nhẫn đến chẳng thấy, chẳng biết pháp
bất cộng. Do cớ nầy mà sa vào hàng
phàm phu như trẻ nít.
Người nầy chẳng ra khỏi. Chẳng ra khỏi chỗ nào? Chẳng ra khỏi
Dục giới,
Sắc giới,
Vô sắc giới, chẳng ra khỏi trong pháp của
Thanh Văn,
Bích Chi Phật.
Người nầy cũng chẳng tin. Chẳng tin những gì ? Chẳng tin
sắc không, nhẫn đến chẳng tin pháp
bất cộng không.
Người nầy cũng chẳng an trụ. Chẳng an trụ nơi đâu? Chẳng an trụ nơi
lục ba la mật, chẳng an trụ bực
bất thối chuyển, nhẫn đến chẳng an trụ pháp
bất cộng.
Do
duyên cớ nầy mà gọi là
phàm phu như trẻ nít. Cũng gọi là kẻ
chấp trước.
Chấp trước những gì ?
Chấp trước sắc, nhẫn đến
ý thức giới,
chấp trước tham, nhẫn đến
tà kiến,
chấp trước tứ niệm xứ, nhẫn đến
Phật đạo.
Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát học như vậy, có phải cũng là chẳng học
Bát nhã ba la mật, chẳng được nhứt thiết
chủng trí chăng?
Nầy
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát học như vậy cũng là chẳng học
Bát nhã ba la mật, chẳng được nhứt thiết
chủng trí.
Tại sao vậy? Vì
đại Bồ Tát nầy không
phương tiện nên
nghĩ tưởng phân biệt chấp trước Bát Nhã,
Thiền na, Tỳ lê gia,
Sằn đề,
Thi la và
Đàn na ba la mật, nhẫn đến
nghĩ tưởng,
phân biệt,
chấp trước pháp
bất cộng và nhứt thiết
chủng trí. Vì
duyên cớ nầy nên
đại Bồ Tát học như vậy cũng là chẳng học
Bát nhã ba la mật, chẳng được nhứt thiết
chủng trí.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu như vậy
thời đại Bồ Tát phải học
Bát nhã ba la mật như thế mới là học
Bát nhã ba la mật được nhứt thiết chủng trí?
Nầy
Xá Lợi Phất! Lúc học
Bát nhã ba la mật, nếu
đại Bồ Tát chẳng thấy
Bát nhã ba la mật thời là học
Bát nhã ba la mật được nhứt thiết
chủng trí, vì
bất khả đắc vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Tại sao gọi là bất khả đắc?
Nầy
Xá Lợi Phất! Vì tất cả pháp
nội không nhẫn đến
vô pháp hữu pháp không vậy”.