KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT
Hán dịch: Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập - Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Viện Phật Học Phổ Hiền Xuất Bản PL. 2530 DL 1986 (Trọn bộ 3 tập)
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn hành P.L 2539 DL. 1995 (Trọn bộ 3 tập)
QUYỂN THỨ HAI MƯƠI TÁM
PHẨM THẬT TẾ
THỨ TÁM MƯƠI
Ngài
Tu Bồ Đề bạch
đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu
chúng sanh rốt ráo bất khả đắc thì
Bồ Tát vì ai mà thật
hành Bát nhã
ba la mật?”.
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Bồ Tát vì
thật tế mà
hành Bát nhã
ba la mật.
Này Tu Bồ Đề! Nếu
thật tế cùng
chúng sanh tế dị biệt thì
Bồ Tát chẳng
hành Bát nhã
ba la mật. Nhưng do vì
thật tế,
chúng sanh tế chẳng dị biệt nên
Đại Bồ Tát vì lợi ích chúng sanh mà
hành Bát nhã
ba la mật.
Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
Đại Bồ Tát vì chẳng
phá hoại thật tế mà
kiến lập chúng sanh trong
thật tế.
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu
thật tế tức là
chúng sanh tế thì
Bồ Tát kiến lập thật tế ở nơi
thật tế.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu
kiến lập thật tế ở nơi
thật tế thì là
kiến lập tự tánh ở nơi
tự tánh.
Bạch đức Thế Tôn! Chẳng được
kiến lập tự tánh ở nơi
tự tánh.
Bạch đức Thế Tôn! Tại sao lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
Đại Bồ Tát kiến lập chúng sanh ở nơi thật tế?
- Này Tu Bồ Đề!
Thật tế chẳng thể
kiến lập ở
thật tế,
tự tánh chẳng thể
kiến lập ở
tự tánh.
Nay
Đại Bồ Tát lúc
hành Bát nhã
ba la mật vì sức
phương tiện nên
kiến lập chúng sanh ở
thật tế.
Thật tế chẳng khác
chúng sanh tế.
Thật tế cùng
chúng sanh tế không hai, không khác.
- Bạch đức Thế Tôn! Những gì là sức
phương tiện của Đại Bồ Tát?
Dùng sức phương tiện ấy,
Đại Bồ Tát lúc
hành Bát nhã
ba la mật kiến lập chúng sanh ở
thật tế, cũng chẳng
phá hoại tướng
thật tế.
- Này Tu Bồ Đề! Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
Đại Bồ Tát vì sức
phương tiện nên
kiến lập chúng sanh ở nơi
bố thí.
Kiến lập xong,
Bồ Tát nói
bố thí rốt ráo rỗng không:
Bố thí như vậy trước, sau, chặng giữa đều rỗng không, người thí rỗng không,
quả báo bố thí rỗng không, kẻ thọ nhận cũng rỗng không. Này các người! Trong
thật tế, tất cả pháp ấy đều
bất khả đắc. Các người chớ
quan niệm bố thí khác, người thí khác, quả
bố thí khác, kẻ thọ nhận khác. Nếu các người chẳng
quan niệm dị biệt thì
bố thí có thể đưa đến mùi
cam lồ, được quả
mùi vị cam lồ. Vì
bố thí như thế nên các người chớ
chấp trước sắc, chớ
chấp trước thọ, tưởng, hành, thức. Tại sao?
Bố thí ấy, tướng
bố thí rỗng không. Người thí, người thí rỗng không.
Quả báo thí,
quả báo thí rỗng không. Kẻ thọ nhận, kẻ thọ nhận rỗng không. Trong rỗng không mà
bố thí thì
bố thí bất khả đắc, người thí
bất khả đắc,
quả báo thí
bất khả đắc, kẻ thọ nhận
bất khả đắc. Tại sao? Vì các pháp ấy
rốt ráo tự tánh rỗng không vậy.
Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
Đại Bồ Tát vì sức
phương tiện nên dạy
chúng sanh trì giới, bảo họ rằng các người trừ bỏ
sát sanh nhẫn đến trừ bỏ
tà kiến. Tại sao? Vì pháp mà các người
phân biệt không có tánh như vậy. Các người nên
suy nghĩ kỹ: những gì là
chúng sanh mà muốn giết chết? Dùng những vật gì để giết chết? Nhẫn đến
tà kiến cũng
suy nghĩ kỹ như vậy.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát dùng sức phương tiện như vậy
thành tựu chúng sanh.
Đại Bồ Tát này liền vì
chúng sanh mà nói
quả báo bố thí,
trì giới.
Quả báo bố thí,
trì giới ấy
tự tánh rỗng không.
Biết
quả báo bố thí,
trì giới tự tánh rỗng không rồi, trong ấy chẳng
chấp trước. Vì chẳng
chấp trước nên tâm chẳng
tán loạn hay sanh
trí huệ. Dùng
trí huệ ấy dứt diệt tất cả
kiết sử phiền não, nhập
vô dư Niết Bàn.
Trên đây là pháp
thế tục, chẳng phải
đệ nhứt thiệt nghĩa. Tại sao? Vì trong rỗng không, không có diệt, cũng không có kẻ diệt. Các pháp
rốt ráo không chính đó là
Niết Bàn.
Lại nữa, này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát thấy
chúng sanh tâm
phiền não giận hờn bèn dạy rằng: Người lại đây! Người nên tu hạnh
nhẫn nhục, làm người
nhẫn nhục, người nên thích
nhẫn nhục.
Sân hận của người,
tự tánh nó rỗng không.
Người nên
suy nghĩ kỹ
như vầy: Tôi ở trong pháp nào mà giận? Ai là người giận? Người bị giận là ai? Pháp ấy đều không.
Pháp tánh không ấy không có lúc nào là chẳng rỗng không. Rỗng không ấy chẳng phải do Phật,
Bồ Tát,
Thanh Văn,
Bích Chi Phật làm ra, cũng chẳng phải do
chư Thiên hay
quỷ thần làm ra.
Người nên
suy nghĩ kỹ
như vầy: Giận ai? Ai là người giận? Những gì là sự giận? Tất cả pháp ấy
tự tánh rỗng không. Pháp rỗng
không không có chỗ giận.
Như vậy, này Tu Bồ Đề! Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
Đại Bồ Tát dùng pháp
nhơn duyên ấy
kiến lập chúng sanh nơi
tánh không, thứ lớp lần lần chỉ dạy cho họ được
lợi ích vui mừng, cho họ được
Vô Thượng Bồ Đề. Đây là pháp
thế tục, chẳng phải
đệ nhứt thiệt nghĩa. Tại sao? Vì trong
tánh không ấy không có người được, không có pháp được, không có chỗ được.
Này Tu Bồ Đề! Đó gọi là pháp
thật tế tánh không.
Đại Bồ Tát vì
chúng sanh mà
hành pháp ấy.
Chúng sanh ấy cũng
bất khả đắc. Tại sao? Vì tất cả pháp rời
lìa tướng chúng sanh vậy.
Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
Đại Bồ Tát vì sức
phương tiện nên thấy
chúng sanh giải đãi dạy cho họ thân
tinh tiến, tâm
tinh tiến, bảo họ rằng: Này các người! Trong
tánh không của các
pháp không có
giải đãi, không có người
giải đãi, tánh của tất cả pháp này đều không, không gì
vượt qua tánh không. Các người
sanh thân tinh tiến, tâm
tinh tiến. Vì
sanh pháp lành nên chớ có
giải đãi. Đây là pháp lành: hoặc
bố thí, hoặc
trì giới, hoặc
nhẫn nhục, hoặc
tinh tiến, hoặc
thiền định, hoặc
trí huệ, hoặc các
thiền định giải thoát tam muội, hoặc
tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo, hoặc
không vô tướng,
vô tác giải thoát môn đến mười
tám pháp bất cộng. Chớ có
giải đãi.
Này các người! Trong
tánh không của tất cả pháp ấy phải biết không có tướng
đối ngại. Trong
pháp không đối ngại ấy, không có người
giải đãi, không có pháp
giải đãi.
Như vậy, này Tu Bồ Đề! Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
Đại Bồ Tát dạy
chúng sanh cho họ an trụ
tánh không, chẳng rơi vào pháp có hai. Tại sao? Vì trong
tánh không ấy không có hai, không có dị biệt vậy.
Pháp không hai ấy không có chỗ
chấp trước được.
Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Lúc hành
tánh không Bát nhã ba la mật,
Đại Bồ Tát dạy
chúng sanh cho họ
tinh tiến, bảo họ rằng: Này các người! Phải siêng năng
tinh tiến hoặc
bố thí, hoặc
trì giới, hoặc
nhẫn nhục, hoặc
tinh tiến, hoặc
thiền định, hoặc
trí huệ, hoặc
thiền định giải thoát tam muội, hoặc
tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo phần, hoặc không,
vô tướng,
vô tác giải thoát môn, hoặc Phật
thập lực, hoặc
tứ vô úy, hoặc
tứ vô ngại trí, hoặc mười
tám pháp bất cộng, hoặc
đại từ,
đại bi. Với các pháp ấy các người chớ
quan niệm là tướng hai, cũng chớ
quan niệm là tướng chẳng hai.
Tại sao? Vì tánh các pháp ấy đều không.
Pháp tánh không này, chẳng nên dùng tướng hai để
quan niệm, cũng chẳng nên dùng tướng chẳng hai để
quan niệm.
Như vậy, này Tu Bồ Đề! Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
Đại Bồ Tát vì sức
phương tiện nên
thành tựu chúng sanh.
Thành tựu chúng sanh xong,
thứ đệ dạy cho họ được quả
Tu Đà Hoàn, quả
Tư Đà Hàm, quả
A Na Hàm, quả
A La Hán, đạo
Bích Chi Phật, nhập
Bồ Tát vị, được
Vô Thượng Bồ Đề.
Lại nữa, Này Tu Bồ Đề! Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
Đại Bồ Tát thấy
chúng sanh loạn tâm bèn
dùng sức phương tiện vì lợi ích chúng sanh nên bảo họ rằng: Này các người! Phải
tu thiền định, các người chớ sanh
loạn tưởng, phải sanh
nhứt tâm. Tại sao? Tánh của các pháp ấy đều là
tánh không. Trong tánh rỗng không ấy không có pháp để được, hoặc là loạn hoặc là
nhứt tâm. Các người an trụ trong
tam muội ấy, chỗ có những
tác nghiệp hoặc là thân, là khẩu, là ý, hoặc
bố thí,
trì giới,
nhẫn nhục, hoặc siêng
tinh tiến, hành
thiền định, tu
trí huệ, hoặc hành
tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo phần, hoặc hành các
giải thoát, các định
thứ đệ, hoặc
hành Phật thập lực đến
đại từ đại bi, hoặc hành ba mươi hai tướng,
tám mươi tùy hình hảo, hoặc
Thanh Văn đạo,
Bích Chi Phật đạo,
Phật đạo, hoặc quả
Tu Đà Hoàn, quả
Tư Đà Hàm, quả
A Na Hàm, quả
A La Hán, hoặc đạo
Bích Chi Phật, hoặc nhứt thiết
chủng trí, hoặc
thành tựu chúng sanh, hoặc
tịnh Phật quốc độ. Các người phải
tùy theo sở nguyện của mình mà thật hành để được an trụ
tánh không.
Như vậy, Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật dùng sức phương tiện vì làm
lợi ích chúng sanh nên từ khi
sơ phát tâm trọn chẳng lười bỏ, thường
cầu pháp lành để
lợi ích chúng sanh, từ một
cõi Phật đến một
cõi Phật, theo chư Phật
nghe pháp, bỏ thân thọ
thân nhẫn đến
Vô Thượng Bồ Đề trọn chẳng quên mất.
Chư
Bồ Tát ấy thường được các đà là ni, các căn đầy đủ, đó là
thân căn, ngữ căn và
ý căn.
Tại sao? Vì
Đại Bồ Tát này thường tu nhứt thiết
chủng trí. Vì tu nhứt thiết
chủng trí nên tất cả
đạo hạnh đều tu, hoặc là đạo
Thanh Văn, đạo
Bích Chi Phật, hoặc là đạo
Bồ Tát thần thông. Lúc
hành đạo thần thông,
Bồ Tát thường
lợi ích chúng sanh, vào trong năm loài
sanh tử mà trọn chẳng hao mất.
Như vậy, Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật an trụ
tánh không dùng
thiền định lợi ích chúng sanh.
Lại nữa, Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật an trụ
tánh không, vì sức
phương tiện nên
lợi ích chúng sanh, bảo họ rằng: Này các người! Phải quán tất cả
pháp tánh không. Các người nên làm các nghiệp: hoặc
thân nghiệp, hoặc
khẩu nghiệp, hoặc
ý nghiệp hướng đến
mùi vị cam lồ. Trong
tánh không không có pháp thối lui, cũng không có người thối. Bởi
tánh không chẳng phải là pháp. Ở trong pháp
vô sở hữu sao lại có thối!
Này Tu Bồ Đề! Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
Đại Bồ Tát dạy bảo chúng sanh như vậy, thường chẳng lười bỏ.
Bồ Tát này tự thật hành
thập thiện, cũng dạy người khác làm
thập thiện. Với
năm giới,
bát giới trai cũng như vậy.
Bồ Tát này
tự hành tứ thiền, cũng dạy người khác hành
tứ thiền. Thường
tự hành từ, bi, hỉ, xả,
tự hành bốn
định vô sắc,
tự hành tứ niệm xứ đến tám phần
thánh đạo,
tự hành Phật
thập lực đến mười
tám pháp bất cộng, đến
tám mươi tùy hình hảo, cũng dạy người khác hành
từ tâm nhẫn đến hành
tám mươi tùy hình hảo như vậy.
Bồ Tát này ở trong quả
Tu Đà Hoàn sanh
trí huệ nhưng chẳng an trụ trong quả ấy, cũng dạy người khác được quả
Tu Đà hoàn, nhẫn đến
A La Hán cũng vậy.
Bồ Tát này tự ở trong đạo
Bích Chi Phật sanh
trí huệ nhưng chẳng an trụ trong đó, cũng dạy người khác được đạo
Bích Chi Phật.
Bồ Tát này tự mình đến đạo
Vô Thượng Bồ Đề, cũng dạy người khác được đạo
Vô Thượng Bồ Đề.
Như vậy, Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật vì sức
phương tiện nên trọn chẳng lười bỏ”.
Ngài
Tu Bồ Đề bạch
đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu tánh các
pháp thường không. Trong tánh thường rỗng không ấy,
chúng sanh bất khả đắc, pháp và
phi pháp cũng
bất khả đắc thì
đại Bồ Tát thế nào cầu nhứt thiết chủng trí?”.
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Đúng như vậy. Đúng như lời ông nói, tánh các pháp đều không. Trong
tánh không ấy,
chúng sanh bất khả đắc, pháp và
phi pháp cũng
bất khả đắc.
Này Tu Bồ Đề! Nếu tất cả
pháp tánh chẳng không thì
Đại Bồ Tát chẳng Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý cứ
tánh không thành
Vô Thượng Bồ Đề và vì
chúng sanh nói
pháp tánh không.
Này Tu Bồ Đề! Sắc tánh rỗng không, thọ, tưởng, hành, thức tánh rỗng không. Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
Đại Bồ Tát nói pháp
ngũ ấm tánh không, pháp
thập nhị nhập tánh không, pháp
thập bát giới tánh không, pháp
tứ thiền,
tứ tâm,
tứ vô sắc định tánh không, pháp
tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo phần tánh không, pháp
ba môn giải thoát, tám bội xả, chín định
thứ đệ,
mười trí lực, bốn
vô úy, bốn trí
vô ngại, mười
tám pháp bất cộng,
đại từ đại bi, ba mươi hai tướng,
tám mươi tùy hình hảo đều
tánh không.
Đại Bồ Tát cũng nói những pháp
Tu Đà Hoàn quả,
Tư Đà Hàm quả,
A Na Hàm quả,
A La Hán quả,
Bích Chi Phật đạo, nhứt thiết
chủng trí dứt tập chủng
phiền não đều
tánh không.
Này Tu Bồ Đề! Nếu
nội không nhẫn đến
vô pháp hữu pháp không mà tánh chẳng không thì
phá hoại tánh không.
Này Tu Bồ Đề!
Tánh không ấy chẳng thường, chẳng đoạn. Tại sao? Vì
tánh không ấy không chỗ trụ, cũng không chỗ từ đâu lại, cũng không chỗ từ đâu đi. Đây gọi là tướng
pháp trụ. Trong đây không có pháp, không có trụ, không có tán, không có tăng, không có giảm, không có sanh, không có diệt, không có cấu, không có tịnh. Đây là các
pháp tướng.
Đại Bồ Tát an trụ trong các
pháp tướng ấy
phát tâm Vô Thượng Bồ Đề chẳng thấy pháp có chỗ phát, không có phát, không có trụ. Đây gọi là tướng
pháp trụ.
Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
Đại Bồ Tát ấy thấy tất cả
pháp tánh không, chẳng
thối chuyển Vô Thượng Bồ Đề. Tại sao? Vì
Bồ Tát ấy chẳng thấy có pháp hay
chướng ngại thì ở chỗ nào mà
sanh nghi. Đây gọi là
Vô Thượng Bồ Đề.
Tánh không ấy chẳng có
chúng sanh, chẳng có ngã, chẳng có nhơn, chẳng có thọ, chẳng có mạng, nhẫn đến chẳng có
tri giả,
kiến giả.
Trong
tánh không ấy, sắc
bất khả đắc, thọ, tưởng, hành, thức
bất khả đắc, nhẫn đến
tám mươi tùy hình hảo bất khả đắc.
Này Tu Bồ Đề!
Ví như đức Phật hóa làm
tứ chúng:
Tỳ Kheo,
Tỳ Kheo Ni,
Ưu Bà Tắc,
Ưu bà Di, rồi thường vì
tứ chúng này mà
thuyết pháp ngàn vạn
ức kiếp chẳng dứt. Ý của ông nghĩ sao, hóa chúng ấy sẽ được quả
Tu Đà Hoàn, nhẫn đến sẽ được
Vô Thượng Bồ Đề chăng?”.
- Bạch đức Thế Tôn! Không. Tại sao? Vì các hóa chúng ấy không có căn bổn thiệt sự. Tất cả
pháp tánh không, cũng không có căn bổn thiệt sự, thì có những
chúng sanh nào được quả
Tu Đà Hoàn nhẫn đến được
thọ ký Vô Thượng Bồ Đề?
- Này Tu Bồ Đề! Cũng như vậy,
Đại Bồ Tát vì
chúng sanh nói
pháp tánh không.
Chúng sanh ấy thiệt
bất khả đắc. Vì
chúng sanh rơi vào trong
điên đảo nên cứu vớt
chúng sanh, khiến họ an trụ nơi chẳng
điên đảo.
Điên đảo tức là không
điên đảo.
Điên đảo và không
điên đảo đều là một tướng mà có nhiều
điên đảo, có ít chẳng
điên đảo.
Trong chỗ không
điên đảo thì không có ngã, không có
chúng sanh, nhẫn đến không có
tri giả,
kiến giả.
Trong chỗ không
điên đảo cũng không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức, không có
mười hai nhập, nhẫn đến không có
Vô Thượng Bồ Đề.
Đây gọi là các
pháp tánh không.
Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
Đại Bồ Tát an trụ trong đây, ở nơi trong tướng
chúng sanh điên đảo mà cứu vớt
chúng sanh.
Đó là trong
tướng không chúng sanh, có
chúng sanh mà cứu vớt ra. Nhẫn đến trong tướng
tri giả,
kiến giả mà cứu vớt ra. Ở trong
tướng không sắc, thọ, tưởng, hành, thức, có sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà cứu vớt
chúng sanh.
Mười hai nhập,
mười tám giới nhẫn đến tất cả
pháp hữu lậu cũng như vậy.
Này Tu Bồ Đề! Cũng có các pháp
vô lậu. Đó là
tứ niệm xứ,
tứ chánh cần,
tứ như ý túc,
ngũ căn,
ngũ lực,
thất giác phần,
bát thánh đạo phần. Các páp ấy đều là pháp
vô lậu, cũng chẳng bằng tướng
đệ nhứt nghĩa.
Tướng
đệ nhứt nghĩa ấy
vô tác,
vô vi,
vô sanh,
vô tướng,
vô thuyết. Đây gọi là
đệ nhứt nghĩa, cũng gọi là
tánh không, cũng gọi là
Phật đạo. Trong ấy
chúng sanh bất khả đắc, nhẫn đến
tri giả,
kiến giả bất khả đắc, sắc, thọ, tưởng, hành, thức
bất khả đắc nhẫn đến
tám mươi tùy hình hảo bất khả đắc.
Tại sao vậy?
Vì
Đại Bồ Tát chẳng phải vì
đạo pháp mà cầu
Vô Thượng Bồ Đề.
Đại Bồ Tát vì
chư pháp thiệt tướng tánh không mà cầu
Vô Thượng Bồ Đề.
Tánh không ấy,
tiền tế,
hậu tế và
trung tế đều tánh không! Thường là
tánh không, chẳng có lúc nào là chẳng tánh rỗng không.
Đại Bồ Tát hành
tánh không Bát nhã ba la mật ấy, vì những
chúng sanh chấp trước tướng
chúng sanh, muốn cứu vớt họ mà
cầu đạo chủng trí.
Lúc
cầu đạo chủng trí,
Đại Bồ Tát thật hành khắp tất cả đạo như là
Thanh Văn đạo,
Bích Chi Phật đạo.
Đại Bồ Tát ấy đầy đủ tất cả đạo, cứu vớt
chúng sanh ra khỏi là tưởng,
chấp trước.
Thanh tịnh cõi Phật xong,
tùy theo thọ mạng được
Vô Thượng Bồ Đề.
Này Tu Bồ Đề! Thuở
quá khứ, đạo của
chư Phật mười phương là
tánh không. Thuở
vị lai, thuở
hiện tại, đạo của
chư Phật mười phương là
tánh không. Rời
tánh không,
thế gian không có đạo, không có quả.
Cần phải gần gũi chư Phật nghe dạy các
pháp tánh không này.
Hành pháp này chẳng mất nhứt thiết
chủng trí.
- Bạch đức Thế Tôn! Rất là
hi hữu.
Chư Đại Bồ Tát có
hành pháp tánh không ấy mà cũng chẳng
phá hoại tướng
tánh không. Đó là sắc khác với
tánh không, thọ, tưởng, hành, thức khác với
tánh không, nhẫn đến
Vô Thượng Bồ Đề khác với
tánh không.
- Này Tu Bồ Đề! Sắc tức là
tánh không,
tánh không tức là sắc. Nhẫn đến
Vô Thượng Bồ Đề tức là
tánh không,
tánh không tức là
Vô Thượng Bồ Đề.
Này Tu Bồ Đề! Nếu sắc khác với
tánh không, nhẫn đến
Vô Thượng Bồ Đề khác với
tánh không thì
Đại Bồ Tát chẳng thể được nhứt thiết
chủng trí.
Nay sắc chẳng khác
tánh không, nhẫn đến
Vô Thượng Bồ Đề chẳng khác
tánh không. Vì thế nên
Đại Bồ Tát biết tất cả
pháp tánh không,
phát tâm cầu
Vô Thượng Bồ Đề.
Tại sao? Vì trong ấy không có pháp nào hoặc là thiệt hoặc là thường, chỉ vì hành
phàm phu chấp trước sắc, thọ, tưởng, hành, thức, có tâm
chấp ngã trước
nội pháp ngoại pháp, nên thọ lấy thân
ngũ ấm sắc, thọ, tưởng, hành, thức kế sau.
Vì lẽ ấy mà chẳng thoát được sanh, già, bệnh, chất,
sầu bi khổ não, qua lại năm loài.
Vì
cớ sự ấy nên
Đại Bồ Tát hành
tánh không Bát nhã ba la mật, chẳng
phá hoại các
pháp tướng sắc, thọ v.v… hoặc không hoặc
bất không.
Tại sao? Vì tướng sắc
tánh không chẳng
phá hoại sắc, đó là sắc, là không, là thọ, tưởng, hành, thức, nhẫn đến
Vô Thượng Bồ Đề cũng như vậy.
Ví như hư không chẳng
phá hoại hư không. Nội
hư không chẳng
phá hoại ngoại
hư không, ngoại
hư không chẳng
phá hoại nội
hư không.
Như vậy, Này Tu Bồ Đề! Sắc chẳng
phá hoại sắc tướng không. Tướng
sắc không chẳng
phá hoại sắc. Tại sao? Vì hai pháp ấy không có tánh có thể có bị
phá hoại, đó là không, là chẳng phải không.
Nhẫn đến
Vô Thượng Bồ Đề cũng như vậy.
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu tất cả pháp rỗng
không vô phân biệt, tại sao
Đại Bồ Tát từ lúc mới
phát tâm đến nay phát nguyện rằng tôi sẽ được
Vô Thượng Bồ Đề?
Bạch đức Thế Tôn! Nếu tất cả pháp
vô phân biệt, tại sao
Bồ Tát phát tâm rằng tôi sẽ được
Vô Thượng Bồ Đề?
Bạch đức Thế Tôn! Nếu
phân biệt các pháp chẳng thể được
Vô Thượng Bồ Đề.
- Đúng như vậy. Này Tu Bồ Đề! Nếu
Đại Bồ Tát hành hai tướng thì không có
Vô Thượng Bồ Đề. Nếu
phân biệt làm hai phần thì không có
Vô Thượng Bồ Đề. Nếu chẳng hai, chẳng
phân biệt các pháp thì là
Vô Thượng Bồ Đề.
Bồ Đề là tướng
bất nhị, là tướng
bất hoại.
Này Tu Bồ Đề!
Bồ Đề ấy chẳng hành trong sắc, chẳng hành trong thọ, tưởng, hành, thức. Nhẫn đến
Bồ Đề chẳng hành trong
Bồ Đề.
Tại sao? Vì sắc tức là
Bồ Đề,
Bồ Đề tức là sắc, chẳng hai, chẳng
phân biệt. Nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng cũng như vậy.
Bồ Đề ấy chẳng thấy vì lấy mà hành, chẳng phải vì bỏ mà hành.
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu
Đại Bồ Tát,
Bồ Đề chẳng phải vì lấy mà hành, chẳng phải vì bỏ mà hành, vậy
Đại Bồ Tát,
Bồ Đề chỗ nào mà hành?
- Này Tu Bồ Đề!
Như ý ông nghĩ sao?
Như hóa nhơn của
đức Phật biến hóa ra hành tại chỗ nào, là hành trong lấy, là hành trong bỏ?
- Bạch đức Thế Tôn! Chẳng phải hành trong lấy, chẳng phải hành trong bỏ.
- Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát,
Bồ Đề cũng như vậy, chẳng phải hành trong lấy, chẳng phải hành trong bỏ.
Này Tu Bồ Đề!
Như ý ông nghĩ sao?
A La Hán trong
chiêm bao,
Bồ Đề hành chỗ nào? Là hành trong lấy, là hành trong bỏ?
- Bạch đức Thế Tôn! Không. Chẳng phải hành trong lấy, chẳng phải hành trong bỏ. Tại sao? Vì
A La Hán rốt ráo không ngủ thì thế nào trong
chiêm bao,
Bồ Đề là hành trong lấy, là hành trong bỏ.
- Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát,
Vô Thượng Bồ Đề cũng như vậy. Chẳng phải hành trong lấy, chẳng phải hành trong bỏ, chỗ gọi là hành trong sắc, nhẫn đến hành trong nhứt thiết
chủng trí.
- Bạch đức Thế Tôn!
Phải chăng Đại Bồ Tát chẳng hành
thập địa, chẳng hành
sáu ba la mật, chẳng hành
ba mươi bảy pháp trợ đạo, chẳng hành mười tám không, chẳng hành các thiền
giải thoát tam muội, chẳng hành
mười trí lực, nhẫn đến chẳng hànht ám mươi
tùy hình hảo, trụ năm
thần thông,
tịnh Phật quốc độ,
thành tựu chúng sanh, được
Vô Thượng Bồ Đề?
- Đúng như vậy. Này Tu Bồ Đề! Đúng như lời ông nói. Nay
Bồ Tát dầu
Bồ Đề không chỗ hành, nếu chẳng đầy đủ
thập địa,
sáu ba la mật,
bốn thiền,
bốn tâm vô lượng, bốn
định vô sắc,
bốn niệm xứ, nhẫn đến tám mươi tù hình hảo, hạnh thường xả, pháp chẳng hư Luống, pháp chẳng
sai lầm, nếu chẳng đầy đủ những pháp ấy thì trọn chẳng được
Vô Thượng Bồ Đề.
Đại Bồ Tát ấy trụ trong tướng sắc, trụ trong tướng thọ, tưởng, hành, thức, nhẫn đến trụ trong tướng
Vô Thượng Bồ Đề, có thể đầy đủ
thập địa, nhẫn đến được
Vô Thượng Bồ Đề.
Tướng ấy
thường tịch diệt, không có pháp hay tăng, hay giảm, hay sanh, hay diệt, hay cấu, hay tịnh, có thể
đắc đạo, có thể
đắc quả.
Vì pháp
thế tục đế mà
Bồ Tát được
Vô Thượng Bồ Đề chớ chẳng phải
đệ nhứt thiệt nghĩa. Tại sao? Vì trong
đệ nhứt nghĩa không có sắc, nhẫn đến không có
Vô Thượng Bồ Đề, cũng không có người hành
Vô Thượng Bồ Đề. Tất cả pháp ấy đều vì
thế tục mà nói, chớ chẳng phải
đệ nhứt nghĩa.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát từ lúc mới
phát tâm đến nay hành
Vô Thượng Bồ Đề,
Bồ Đề cũng chẳng tăng thêm,
chúng sanh cũng chẳng
giảm bớt,
Bồ Tát cũng không tăng giảm.
Này Tu Bồ Đề!
Như ý ông nghĩ sao? Nếu người lúc
ban sơ đắc đạo trụ
vô gián tam muội, được căn
vô lậu thành tựu, hoặc quả
Tu Đà Hoàn, hoặc quả
Tư Đà Hàm, hoặc quả
A Na Hàm, hoặc quả
A La Hán. Lúc bấy giờ ông có sở đắc, hoặc là mộng, hoặc là tâm, hoặc là đạo, hoặc
đạo quả chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Không có chỗ được.
- Này Tu Bồ Đề! Làm thế nào biết người được đạo A La Hán?
- Bạch đức Thế Tôn! Vì
thế tục đế nên
phân biệt gọi là đạo
A La Hán.
- Đúng như vậy. Này Tu Bồ Đề! Vì
thế tục đế nên gọi là
Bồ Tát, nên gọi là sắc, thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí.
Trong
Bồ Đề ấy không có pháp để được hoặc tăng, hoặc giảm. Bởi vì các
pháp tánh không vậy.
Các
pháp tánh không còn là
bất khả đắc, huống là có được tâm
sơ địa nhẫn đến tam
thập địa, huống là có
sáu ba la mật,
ba mươi bảy pháp trợ đạo nhẫn đến tất cả Phật pháp!
Như vậy, này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát hành
Vô Thượng Bồ Đề được pháp
Vô Thượng Bồ Đề lợi ích chúng sanh như vậy”.
PHẨM CỤ TÚC
THỨ TÁM MƯƠI MỐT
Ngài
Tu Bồ Đề bạch
đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu
Đại Bồ Tát hành
sáu ba la mật, mười tám không,
ba mươi bảy pháp trợ đạo,
mười trí lực, bốn
vô úy, bốn trí
vô ngại, mười
tám pháp bất cộng mà chẳng đầy đủ
Bồ Tát đạo, chẳng có thể được
Vô Thượng Bồ Đề, vậy
Đại Bồ Tát phải thế nào để được
Vô Thượng Bồ Đề?”.
Đức Phật bảo ngài
Tu Bồ Đề: “Lúc
hành Bát nhã
ba la mật, nếu
Đại Bồ Tát vì sức
phương tiện nên hành
Đàn na ba la mật: chẳng thấy có
bố thí, chẳng thấy có người thí, chẳng thấy có người thọ, cũng chẳng xa rời các pháp ấy mà hành
Đàn na ba la mật. Đây là
soi sáng Bồ Tát đạo.
Này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát vì sức
phương tiện nên đầy đủ
Bồ Tát đạo như vậy. Đầy đủ xong thì có thể được
Vô Thượng Bồ Đề.
Trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tiến,
thiền định,
trí huệ nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng cũng như vậy”.
Ngài
Xá Lợi Phất bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát tu tập Bát nhã ba la mật thế nào?”
Đức Phật bảo Ngài
Xá Lợi Phất: “Nếu
Đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật, vì sức
phương tiện nên chẳng
phá hoại sắc, chẳng
tùy theo sắc. Tại sao? Vì sắc
tánh không, nên chẳng hoại chẳng tùy. Nhẫn đến thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy.
Này
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật, vì sức
phương tiện nên hành
Đàn na ba la mật chẳng hoại, chẳng tùy. Tại sao? Vì
Đàn na ba la mật tánh không, nên chẳng hoại, chẳng tùy. Nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng cũng như vậy”.
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu các
pháp không có
tự tánh có thể hoại được, có thể tùy được, thì thế nào
Đại Bồ Tát có thể
tu tập Bát nhã ba la mật và các
học xứ của
chư Đại Bồ Tát. Tại sao? Vì
Đại Bồ Tát nếu chẳng học
Bát nhã ba la mật thì chẳng có thể được
Vô Thượng Bồ Đề?
- Này
Xá Lợi Phất! Như lời ông nói,
Bồ Tát chẳng học
Bát nhã ba la mật thì chẳng có thể được
Vô Thượng Bồ Đề. Vì chẳng rời sức
phương tiện nên có thể được.
Này
Xá Lợi Phất! Nếu
Đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật mà có một
pháp tánh khả đắc thì mới nên lấy, còn nếu là
bất khả đắc thì sẽ lấy chỗ nào? Những
Bát nhã ba la mật,
Thiền na ba la mật,
Tinh tiến ba la mật,
Nhẫn nhục ba la mật,
Thi la ba la mật,
Đàn na ba la mật, sắc, thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến
Vô Thượng Bồ Đề.
Này
Xá Lợi Phất!
Bát nhã ba la mật ấy chẳng nắm lấy tướng được. Nhẫn đến tất cả
Phật pháp chẳng nắm lấy tướng được.
Này
Xá Lợi Phất! Đó gọi là bất thủ
Bát nhã ba la mật nhẫn đến
Phật pháp, là chỗ phải nên học của
Đại Bồ Tát.
Lúc
Đại Bồ Tát học trong ấy, tướng học còn là
bất khả đắc huống là
Bát nhã ba la mật,
Phật pháp,
Bồ Tát pháp,
Bích Chi Phật pháp,
Thanh Văn pháp,
phàm phu pháp.
Tại sao? Này
Xá Lợi Phất! Các
pháp không một pháp nào có tánh.
Các
pháp không có tánh như
vậy thì những gì là
phàm phu, là
Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm,
A La Hán,
Bích Chi Phật,
Bồ Tát, Phật!
Nếu không có các
Hiền Thánh ấy thì sao lại có pháp, vì biết pháp ấy nên
phân biệt nói là
phàm phu, là
Tu Đà Hoàn nhẫn đến Phật.
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu các
pháp không có
tánh không thiệt, không căn bổn thì sao lại biết là
phàm phu nhẫn đến là Phật?
- Này
Xá Lợi Phất! Chỗ nắm lấy
phàm phu như sắc v.v… có tánh có thiệt chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Không chỉ là do tâm
điên đảo thôi.
- Này
Xá Lợi Phất! Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
Đại Bồ Tát vì sức
phương tiện, vì thấy các
pháp không có
tánh không có căn bổn nên có thể
phát tâm Vô Thượng Bồ Đề.
- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
Đại Bồ Tát vì sức
phương tiện, vì thấy các
pháp không có
tánh không có căn bổn nên
phát tâm Vô Thượng Bồ Đề?
- Này
Xá Lợi Phất! Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
Đại Bồ Tát chẳng thấy các pháp căn bổn ở trong đó thối mất, sanh lòng
giải đãi.
Này
Xá Lợi Phất! Nay các pháp căn bổn thiệt không ngã, không có tánh
sở hữu, thường rỗng không. Chỉ vì
điên đảo ngu si nên
chúng sanh nắm lấy ấm, nhập giới.
Đại Bồ Tát này lúc thấy các
pháp không có tánh
sở hữu, thường rỗng không,
tự tướng không, thật
hành Bát nhã
ba la mật,
tự lập mình như nhà
ảo thuật mà vì
chúng sanh thuyết pháp.
Với người
xan tham,
Bồ Tát vì họ nói
pháp bố thí. Với người
phá giới, nói
pháp trì giới. Với người
sân hận, nói
pháp nhẫn nhục. Với người
giải đãi, nói pháp
tinh tiến. Với người
tán loạn, nói pháp
Thiền định. Với người
ngu si, nói
pháp trí huệ.
Bồ Tát thuyết pháp làm cho
chúng sanh an trụ nơi
bố thí,
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tiến,
thiền định,
trí huệ. Rồi sau đó vì họ mà nói
thánh pháp có thể ra khỏi khổ. Dùng pháp ấy có thể được quả
Tu Đà hoàn nhẫn đến
Vô Thượng Bồ Đề.
- Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát khả đắc chúng sanh vô sở hữu ấy, dạy họ
bố thí nhẫn đến
trí huệ rồi sau nói
thánh pháp có thể ra khỏi khổ. Vì dùng pháp ấy nên được quả
Tu Đà hoàn nhẫn đến
Vô Thượng Bồ Đề.
- Này
Xá Lợi Phất! Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
Đại Bồ Tát không có lỗi
hữu sở đắc.
Tại sao? Này
Xá Lợi Phất! Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
Đại Bồ Tát chẳng có được
chúng sanh. Chỉ vì pháp rỗng không
tương tục mà gọi là
chúng sanh.
Này
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát an trụ trong hai đế mà vì
chúng sanh thuyết pháp, đó là
thế đế nà
đệ nhứt nghĩa đế.
Này
Xá Lợi Phất! Trong hai đế, dầu
chúng sanh bất khả đắc,
Đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật vì sức
phương tiện nên
thuyết pháp cho
chúng sanh.
Chúng sanh nghe pháp ấy, đời nay ngô ngã còn là
bất khả đắc, huống là người sẽ được
Vô Thượng Bồ Đề và pháp dùng để tu.
Này
Xá Lợi Phất! Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
Đại Bồ Tát vì sức
phương tiện nên
thuyết pháp cho
chúng sanh như vậy.
- Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát ấy tâm
quảng đại, không có pháp
khả đắc, hoặc là nhứt tướng, hoặc là
dị tướng, hoặc là
biệt tướng mà có
thể đại trang nghiêm như vậy.
Vì dùng sự
trang nghiêm ấy nên chẳng sanh cõi Dục, chẳng sanh cõi Sắc, chẳng sanh cõi
vô sắc.
Bồ Tát ấy chẳng thấy tánh
hữu vi, tánh
vô vi mà ở trong ba cõ
độ thoát chúng sanh, cũng chẳng có được
chúng sanh.
Tại sao? Vì
chúng sanh chẳng phược, chẳng giải được. Vì
chúng sanh chẳng phược, chẳng giải nên không cấu, không tịnh. Vì không cấu, không tịnh nên không
phân biệt năm loài. Vì không
phân biệt năm loài nên không nghiệp, không
phiền não. Vì không nghiệp, không
phiền não thì chẳng nên có
quả báo. Vì do
quả báo ấy mà sanh trong
ba cõi.
- Đúng như vậy. Này
Xá Lợi Phất! Như lời ông nói, nếu
chúng sanh là trước có sau không thì chư Phật,
Bồ Tát có
tội lỗi. Các pháp, năm loài
sanh tử cũng như vậy, nếu trước có sau không thì chư Phật, chư
Bồ Tát có
tội lỗi.
Này
Xá Lợi Phất! Nay đây không luận có Phật hay không Phật, các
pháp tướng vẫn trụ không dị biệt.
Trong
pháp tướng ấy còn không có ngã, không có
chúng sanh,
thọ giả nhẫn đến không có
tri giả,
kiến giả, huống là có sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
Nếu không có những pháp ấy thì thế nào có năm loài qua lại, và chỗ cứu vớt
chúng sanh ra.
Này
Xá Lợi Phất! Các pháp ấy, tánh của nó thường không.
Vì thế nên
chư Đại Bồ Tát từ nơi chư Phật
quá khứ nghe pháp tướng ấy mà
phát tâm Vô Thượng Bồ Đề. Trong ấy không có pháp gì để sẽ được, cũng không có chỗ nào
chúng sanh quyết định nắm lấy.
Pháp chẳng thể ra được. Chỉ vì
chúng sanh điện đảo nên nắm lấy. Bởi thế mà
Đại Bồ Tát phát
đại trang nghiêm thường chẳng
thối chuyển Vô Thượng Bồ Đề.
Bồ Tát này chẳng
nghi ngờ rằng tôi sẽ chẳng được
Vô Thượng Bồ Đề.
Chắc chắn tôi sẽ được
Vô Thượng Bồ Đề. Sau khi được
Vô Thượng Bồ Đề rồi, dùng thiệt
pháp lợi ích
chúng sanh cho họ ra khỏi
điên đảo.
Này
Xá Lợi Phất!
Ví như nhà
ảo thuật, thuật làm trăm ngàn muôn ức người, những thứ uống ăn cho no đủ. Những người này
vui mừng hô rằng tôi được phước lớn, tôi được phước lớn.
Ý của ông nghĩ sao, trong đây có người nào
ăn uống no đủ chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Không.
- Này
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát từ khi mới
phát tâm trở lại, thật hành
sáu ba la mật,
tứ thiền,
tứ tâm,
tứ định,
tứ niệm xứ nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng, đầy đủ
Bồ Tát đạo,
thành tựu chúng sanh,
tịnh Phật quốc độ. Nhưng không có
pháp chúng sanh có thể được độ”.
Ngài
Tu Bồ Đề bạch Phật : “Bạch đức Thế Tôn! Những gì là
Bồ Tát đạo ấy có thể
thành tựu chúng sanh,
tịnh Phật quốc độ.
- Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát từ lúc mới
phát tâm trở lại, hành
Bố thí ba la mật,
Trì giới ba la mật,
Nhẫn nhục ba la mật,
Tinh tiến ba la mật,
Thiền định ba la mật,
Bát nhã ba la mật nhẫn đến hành mười
tám pháp bất cộng,
thành tựu chúng sanh,
tịnh Phật quốc độ.
- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
Đại Bồ Tát hành
Bố thí ba la mật thành tựu chúng sanh?
- Này Tu Bồ Đề! Có
Đại Bồ Tát lúc hành
Bố Thí ba la mật, tự mình
bố thí, cũng dạy người khác
bố thí, bảo họ rằng các người chớ nắm lấy
bố thí, nếu nắm lấy
bố thí thì sẽ lại phải thọ thân nữa. Vì phải thọ thân nữa nên phải nhận nhiều sự khổ. Này các người! Trong các
pháp tướng không có bị
bố thí, không có người
bố thí, không có kẻ nhận lãnh. Ba thứ ấy đếu tánh rỗng không ấy chẳng thể lấy được.
Tướng không thể lấy được là tánh rỗng không.
Này Tu Bồ Đề! Lúc hành
Bố thí ba la mật,
Đại Bồ Tát bố thí chúng sanh, trong ấy chẳng có được
bố thí, chẳng có được người thí, chẳng có được kẻ nhận. Tại sao? Vì
vô sở đắc ba la mật gọi là
Bố thí ba la mật.
Vì
Bồ Tát ấy chẳng có được ba pháp ấy nên c1o thể dạy
chúng sanh cho họ được quả
Tu Đà Hoàn nhẫn đến
Vô Thượng Bồ Đề.
Như vậy, Này Tu Bồ Đề! Lúc hành
Bố thí ba la mật,
Đại Bồ Tát thành tựu chúng sanh.
Bồ Tát ấy tự mình hành
bố thí, cũng dạy người
bố thí, khen ngợi
pháp bố thí,
vui mừng khen ngợi người
bố thí.
Bố thí như vậy xong,
Bồ Tát ấy sanh
nhà dòng Sát Đế Lợi,
Bà La Môn,
Cư Sĩ, hoặc làm
Tiểu Vương, hoặc làm
Chuyển Luân Thánh Vương. Bấy giờ dùng bốn việc nhiếp lấy
chúng sanh. Đó là
bố thí,
ái ngữ, lợi hành và
đồng sự.
Dùng bốn việc ấy nhiếp lấy
chúng sanh rồi,
chúng sanh lần lần an trụ nơi giới,
tứ thiền,
tứ tâm,
tứ định,
tứ niệm xứ nhẫn đến
bát thánh đạo phần, ba
giải thoát môn, được vào trong chánh vị, được quả
Tu Đà Hoàn nhẫn đến quả
A La Hán, hoặc được đạo
Bích Chi Phật. Hoặc dạy cho họ được
Vô Thượng Bồ Đề ấy rất dễ được. Tại sao? Không có pháp nhứt định làm chỗ
chúng sanh nắm lấy được, chỉ vì
điên đảo nên
chúng sanh nắm lấy thôi. Vì thế mà các người nên tự mình rời lìa
sanh tử, cũng phải dạy người khác rời lìa
sanh tử. Các người
phát tâm hay
lợi ích cho mình, cũng sẽ
lợi ích người khác.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát phải hành
Bố thí ba la mật như vậy.
Do hành
bố thí ba la mật mà từ khi mới
phát tâm trở lại,
Bồ Tát trọn chẳng đọa
ác đạo, thường làm
Chuyển Luân Thánh Vương. Tại sao? Vì
tùy theo chỗ gieo giống mà được
quả báo lớn vậy.
Lúc
Bồ Tát ấy làm
Chuyển Luân Thánh Vương thấy có người đến xin nghĩ rằng tôi chẳng vì việc nàm khác mà thọ ngôi
Chuyển Luân Thánh Vương, mà chỉ
vì lợi ích tất cả
chúng sanh.
Suy nghĩ xong bảo người đến xin rằng đây là vật của nhà người, nhà ngươi tự
lấy đi chớ
e dè, ta không tiếc đâu. Ta vì
chúng sanh mà thọ lấy
sanh tử, vì
thương xót các người mà ta đầy đủ lòng
đại bi.
Bồ Tát thật hành
đại bi ấy làm
lợi ích cho
chúng sanh, cũng chẳng được tướng
chúng sanh quyết định thiệt, chỉ
giả danh mà có thể gọi là
chúng sanh.
Danh tự ấy rỗng không. Như
tiếng vang, thiệt chẳng thể nói tướng
quyết định được.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát phải hành
Bố thí ba la mật như vậy, ở trong
chúng sanh không tiếc gì cả, nhẫn đến chẳng tiếc
da thịt của chính thân mình, huống là vật ngoài thân. Do pháp này mà có thể cứu vớt
chúng sanh ra khỏi
sanh tử. Pháp này là những gì? Đó là
Bố thí ba la mật,
Trì giới ba la mật,
Nhẫn nhục ba la mật,
Tinh tiến ba la mật,
Bát nhã ba la mật nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng, dùng những pháp ấy làm cho
chúng sanh từ trong
sanh tử được ra khỏi.
Lại Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát an trụ trong
Bố thí ba
Bố thí ba la mật,
Trì giới ba la mật,
Nhẫn nhục ba la mật,
Tinh tiến ba la mật,
Bát nhã ba la mật nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng mật,
bố thí xong bảo rằng: Này các người! Các người đến đây
giữ giới, tôi sẽ
cung cấp các người không để
thiếu hụt. Những đồ uống ăn, Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý phục, đồ năm, nhẫn đến tất cả đồ cần để sống tôi sẽ
cung cấp đầy đủ đồ dùng cho các người không
thiếu hụt, hoặc là món ăn,
thức uống nhẫn đến
bảy báu.
Các người an trụ trong
giới luật nghi này, lần lần sẽ được hết khổ, nương nơi
ba thừa mà
được giải thoát, hoặc
Thanh Văn thừa, hoặc
Bích Chi Phật thừa, hoặc
Phật thừa.
Lại Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát an trụ trong
Bố thí ba la mật, nếu thấy
chúng sanh sân hận thì bảo họ rằng: Này các người!
Duyên cớ gì mà các người giận hờn? Tôi sẽ cấp đồ
cần dùng cho các người. Các người muốn vật gì cứ lấy ở nơi tôi, tôi sẽ
cung cấp đầy đủ để các người khỏi
thiếu hụt.
Bồ Tát này an trụ trong
Bố thí ba la mật dạy
chúng sanh nhẫn nhục, bảo họ rằng: Trong tất cả pháp, không có pháp nào thiệt chắc, chỗ giận của các người là
nhơn duyên rỗng không, chẳng thiệt chắc, đều từ nhớ tưởng,
hư vọng mà sanh. Các người bị cái
sân hận không căn bổn
phá hoại nơi tâm mà
ác khẩu mắng nhiếc, dao gậy hại nhau, nhẫn đến giết chết. Các người chớ vì pháp
hư vọng ấy mà sanh
sân hận không căn bổn
phá hoại nơi tâm mà
ác khẩu mắng nhiếc, dao gậy hại nhau, nhẫn đến giết chết. Các người chớ vì pháp
hư vọng ấy mà sanh
sân hận để rồi phải đọa trong
Địa ngục,
Súc sanh,
Ngạ quỷ, chịu
vô lượng khổ. Các người chớ vì những pháp
hư vọng không thiệt mà gậy
tội nghiệp. Vì
tội nghiệp ấy thì còn chẳng được thân người, huống là được sanh đời có Phật. Này các người! Đời có Phật khó gặp,
thân người khó được. Các người chớ để mất dịp tốt. Nếu mất dịp tốt thì chẳng cứu được.
Đại Bồ Tát ấy
giáo hóa chúng sanh như vậy. Tự mình hành
nhẫn nhục, cũng dạy người khác hành
nhẫn nhục, khen ngợi
pháp nhẫn nhục,
vui mừng khen ngợi người hành
nhẫn nhục.
Bồ Tát ấy làm cho
chúng sanh an trụ trong
nhẫn nhục, lần lần do
tam thừa mà được hết khổ.
Như vậy, Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát an trụ
Bố thí ba la mật làm cho
chúng sanh an trụ
nhẫn nhục.
Này Tu Bồ Đề! Thế nào là
Đại Bồ Tát an trụ
bố thí ba la mật làm cho
chúng sanh tinh tiến?
Này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát thấy
chúng sanh giải đãi, bảo họ rằng: Các người sao lại giải đãi?
Chúng sanh thưa vì
nhơn duyên ít.
Bồ Tát ấy bảo
mọi người rằng tôi sẽ làm cho các người đầy đủ
nhơn duyên: hoặc
bố thí, hoặc
trì giới, hoặc
nhẫn nhục, những
nhơn duyên như vậy làm cho các người đều đầy đủ.
Những
chúng sanh ấy được
Bồ Tát lợi ích nhơn duyên nên họ được thân
tinh tiến, khẩu
tinh tiến, tâm
tinh tiến. Vì
ba nghiệp tinh tiến nên đầy đủ tất cả pháp lành,
tu pháp thánh
vô lậu. Vì
tu pháp thánh
vô lậu nên được quả
Tu Đà Hoàn nhẫn đến
Vô Thượng Bồ Đề.
Như vậy, Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát lúc hành
Bố thí ba la mật, an trụ
Tinh tiến ba la mật để nhiếp lấy
chúng sanh.
Này Tu Bồ Đề! Thế nào là
Đại Bồ Tát lúc hành
Bố thí ba la mật,
giáo hóa chúng sanh khiến họ
tu Thiền ba la mật?
Này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát thấy
chúng sanh loạn tâm, bảo họ rằng các người nên
tu thiền định.
Chúng sanh thưa
chúng tôi chẳng đầy đủ
nhơn duyên.
Bồ Tát bảo ta sẽ làm cho các người đầy đủ
nhơn duyên, để các người tâm chẳng theo
giác quán, tâm chẳng chạy tan. Do đủ
nhơn duyên ấy,
chúng sanh dứt
giác quán, nhập
sơ thiền,
nhị thiền,
tam thiền,
tứ thiền, hành từ, bi, hỉ, xả. Do thiền và tâm
vô lượng ấy mà
chúng sanh có thể tu
tứ niệm xứ nhẫn đến
bát thánh đạo phần. lúc tu
ba mươi bảy pháp trợ đạo ấy,
chúng sanh lần nhập
tam thừa mà được
Niết Bàn, trọn chẳng mất đạo.
Này Tu Bồ Đề! Như vậy, lúc hành
Bố thí ba la mật,
Đại Bồ Tát dùng
Thiền ba la mật nhiếp lấy
chúng sanh, khiến họ hành
Thiền ba la mật.
Này Tu Bồ Đề! Thế nào là
Đại Bồ Tát hành
Bố thí ba la mật, dùng
Bát nhã ba la mật nhiếp lấy chúng sanh?
Này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát thấy
chúng sanh ngu si, không
trí huệ, bảo họ rằng: Các người sao không tu trí huệ?
Chúng sanh thưa vì không đầy đủ
nhơn duyên.
Bồ Tát ấy bảo những
nhơn duyên mà các người cần để được đầy đủ
trí huệ có thể lấy ở ta, đó là
bố thí,
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tiến,
thiền định. Khi những
nhơn duyên ấy đã đầy đủ, các ngươi
tư duy như vầy: Lúc
tư duy Bát nhã ba la mật, có pháp gì có thể được chăng? Những là ngã,
chúng sanh,
thọ mạng, nhẫn đến
tri giả,
kiến giả có thể được chăng? Những là sắc, thọ, tưởng, hành, thức,
Dục giới,
Sắc giới,
Vô sắc giới,
sáu ba la mật,
ba mươi bảy pháp trợ đạo, quả
Tu Đà Hoàn, quả
Tư Đà Hàm, quả
A Na Hàm, quả
A La Hán, đạo
Bích Chi Phật,
Vô Thượng Bồ Đề có thể được chăng?
Lúc
tư duy như vậy, ở trong
Bát nhã ba la mật,
chúng sanh ấy không có pháp nào có thể được, có thể nắm lấy.
Nếu chẳng nắm lấy các pháp, nấy giờ
chúng sanh ấy chẳng thấy pháp có sanh, có diệt, có cấu, có tịnh, chẳng
phân biệt là
Địa ngục, là
Súc sanh, là
Ngạ quỷ, là
A tu la, là Nhơn, là Thiên, là
Trì giới, là
phá giới, là
Tu Đà Hoàn, là
Tư Đà Hàm, là
A Na Hàm, là
A La Hán, là
Bích Chi Phật, là Phật.
Như vậy, Này Tu Bồ Đề! Lúc hành
Bố thí ba la mật,
Đại Bồ Tát dùng
Bát nhã ba la mật nhiếp lấy
chúng sanh.
Này Tu Bồ Đề! Thế nào là
Đại Bồ Tát an trụ trong
Bố thí ba la mật,
Giới ba la mật,
Nhẫn ba la mật, Tiến
ba la mật,
Thiền ba la mật,
Bát nhã ba la mật nhẫn đến
ba mươi bảy pháp trợ đạo nhiếp lấy chúng sanh?
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát an trụ trong
Bố thí ba la mật, đem đồ cấp dưỡng làm
lợi ích cho
chúng sanh. Do
nhơn duyên làm
lợi ích này,
chúng sanh có thể tu
tứ niệm xứ nhẫn đến
bát thánh đạo phần.
Chúng sanh hành
ba mươi bảy phẩm trợ đạo ấy được ra khỏi
sanh tử.
Như vậy, Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát dùng
thánh pháp vô lậu nhiếp lấy
chúng sanh.
Lại Này Tu Bồ Đề! Lúc
Đại Bồ Tát giáo hóa chúng sanh bảo họ rằng: Này các người! Các người đến nơi ta mà lấy những vật
cần dùng, những là đồ uống ăn, Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý phục, đồ nằm,
hương hoa, nhẫn đến
bảy báu. Từ nay các người
mãi mãi được
lợi ích an vui. Các người chớ nghĩ rằng những vật này chẳng phải
sở hữu của
chúng tôi. Từ lâu luôn luôn ta vì
chúng sanh mà tập hợp những vật ấy, các người nên lấy những vật ấy như vật của mình không khác.
Bồ Tát giáo hóa chúng sanh khiến họ hành
bố thí,
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tiến,
thiền định,
trí huệ, nhẫn đến khiến họ được
ba mươi bảy pháp trợ đạo,
mười trí lực nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng, cũng khiến họ được các pháp
vô lậu, những là quả
Tu Đà Hoàn, quả
Tư Đà Hàm, quả
A Na Hàm, quả
A La Hán, đạo
Bích Chi Phật,
Vô Thượng Bồ Đề.
Này Tu Bồ Đề! Như vậy, lúc hành
Bố thí ba la mật,
Đại Bồ Tát giáo hóa chúng sanh cho họ được rời lìa ba
ác đạo và tất cả sự khổ
sanh tử qua lại.
Lại nữa, Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát an
trụ trì giới ba la mật giáo hóa chúng sanh, bảo họ rằng: Các người thiếu
nhơn duyên gì mà phá giới? Ta sẽ
cấp cho các người để đầy đủ
nhơn duyên, những là
bố thí, nhẫn đến
trí huệ và các thứ vật dùng để sống.
Đại Bồ Tát này an
trụ Trì giới ba la mật làm
lợi ích chúng sanh, khiến họ hành
mười điều lành, xa rời mười điều
bất thiện.
Những
chúng sanh ấy trì các giới, chẳng
phá giới, chẳng tạp giới, chẳng nắm lấy giới, lần lần do
ba thừa mà được hết khổ.
Thi ba la mật làm đầu như
Bố thí ba la mật.
Bốn
ba la mật kia cũng như vậy”.