KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT
Hán dịch: Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập - Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Viện Phật Học Phổ Hiền Xuất Bản PL. 2530 DL 1986 (Trọn bộ 3 tập)
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn hành P.L 2539 DL. 1995 (Trọn bộ 3 tập)
QUYỂN THỨ HAI MƯƠI MỐT
PHẨM MA SẦU
THỨ SÁU MƯƠI HAI
Khi đó
Thích Đề Hoàn Nhơn thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật này rất sâu khó thấy, không có nhớ tưởng,
phân biệt, vì là
rốt ráo ly vậy.
Bạch đức Thế Tôn!
Chúng sanh nào nghe
Bát nhã ba la mật này mà có thể
thọ trì,
đọc tụng,
giảng thuyết, chánh
ức niệm, gần gũi,
thực hành đúng như lời, nhẫn đến lúc được
Vô Thượng Bồ Đề chẳng xen tạp tâm và
tâm sở khác, phải biết là chẳng từ nơi
công đức nhỏ”.
Đức Phật dạy: “Đúng như vậy. Này Kiều Thi Ca! Người nghe
Bát nhã ba la mật này nhẫn đến chẳng xen tạp các tâm,
tâm sở khác, chẳng phải từ nơi
công đức nhỏ mà được như vậy.
Này Kiều Thi Ca! Theo ý ngươi thế nào? Nếu
chúng sanh trong
Diêm Phù Đề thành tựu thập thiện đạo,
thành tựu tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định. Lại có
thiện nam,
thiện nữ thọ trì Bát nhã ba la mật,
đọc tụng, gần gũi, chánh
ức niệm,
thực hành đúng như lời.
Thiện nam,
thiện nữ này hơn hẳn
chúng sanh kia trăm ngàn muôn ức lần, nhẫn đến toán số ví dụ đều chẳng bằng được”.
Bấy giờ có một
Tỳ Kheo nói với
Thích Đề Hoàn Nhơn: “Thiện nam,
thiện nữ hành Bát nhã
ba la mật đó,
công đức hơn Ngài”.
Thích Đề Hoàn Nhơn nói: “Thiện nam,
thiện nữ đó chỉ một phen
phát tâm còn hơn tôi, huống là nghe
Bát nhã ba la mật này,
thọ trì,
đọc tụng, chánh
ức niệm,
thực hành đúng như lời.
Thiện nam,
thiện nữ đó chẳng phải chỉ hơn tôi, mà cũng hơn tất cả
chư Thiên, Nhơn,
A tu la ở
thế gian. Chẳng phải chỉ hơn tất cả
chư Thiên, Nhơn,
A tu la ở
thế gian, mà cũng hơn các bậc
Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm,
A La Hán và
Bích Chi Phật. Chẳng phải chỉ hơn các bậc
Tu Đà Hoàn đến
Bích Chi Phật, mà cũng hơn chư
Bồ Tát hành năm
ba la mật xa lìa Bát nhã ba la mật, cũng hơn
Bồ Tát hành Bát nhã ba la mật mà không có sức
phương tiện.
Thiện nam,
thiện nữ đó
hành Bát nhã
ba la mật đúng như lời, thì chẳng dứt giống Phật, thường thấy Phật, sớm gần
đạo tràng.
Đại Bồ Tát thực hành như vậy là vì muốn cứu vớt
chúng sanh khỏi bị
chìm đắm trong biển rộng.
Đại Bồ Tát học như vậy là vì chẳng học những
môn học của
Thanh Văn, của
Bích Chi Phật.
Đại Bồ Tát học như vậy, bốn
Thiên Vương đến chỗ
Bồ Tát thưa rằng: Ngài nên siêng học gấp. Lúc ngồi
đạo tràng thành
Vô Thượng Bồ Đề, như chư Phật
quá khứ thọ bốn cái bát,
chúng tôi sẽ
mang đến dưng lên Ngài. Và
chư Thiên khác nhẫn đến
Đại Tự Tại Thiên cũng sẽ
cúng dường.
Chư Phật mười phương cũng thường
hộ niệm đại Bồ Tát này.
Tất cả sự nạn ách khốn khổ
thế gian,
Bồ Tát này đều khỏi cả, cũng không có bốn trăm lẻ bốn thứ bệnh
thế gian.
Vì
hành Bát nhã
ba la mật đại Bồ Tát này được
công đức trong thời
hiện tại như vậy”.
Ngài
A Nan nghĩ rằng:
Thiên Đế Thích tự lực mình nói như vậy, hay là do
thần lực của Phật?
Biết
tâm niệm của Ngài
A Nan,
Thích Đề Hoàn Nhơn nói: “Lời nói của tôi vừa rồi đều là
thần lực của
đức Phật cả”.
Đức Phật bảo Ngài
A Nan: “Đúng như lời
Thích Đề Hoàn Nhơn nói, đều là
oai thần của Phật.
Này A Nan! Lúc
Đại Bồ Tát học
Bát nhã ba la mật sâu xa này, các
ác ma trong cõi
Đại Thiên đều
hồ nghi:
Bồ Tát này sẽ được
Vô Thượng Bồ Đề, hay sẽ giữa đường chứng thiệt tế, sa vào bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật.
Lại này A Nan! Lúc
Đại Bồ Tát nếu chẳng rời lìa
Bát nhã ba la mật thì
ác ma rất
sầu khổ như tên nhọn xoi tim.
Ác ma lại phóng gió lửa lớn nổi lên bốn phía, muốn làm cho
Bồ Tát khiếp sợ biếng trễ, nhẫn đến sanh một niệm
loạn tâm ở trong nhứt thiết chủng trí”.
- Bạch đức Thế tôn! Chư
Bồ Tát đều bị
ác ma làm nhiễu loạn, hay có người chẳng bị làm nhiễu loạn?
- Này A Nan! Có người bị nhiễu loạn, có người chẳng bị nhiễu loạn.
- Bạch đức Thế Tôn! Những
Bồ Tát nào bị
ác ma làm nhiễu loạn?
- Này A Nan! Có
Bồ Tát ở đới trước nghe
Bát nhã ba la mật mà lòng không tin, không hiểu.
Bồ Tát này bị ma nhiễu loạn.
Lại này A Nan! Lúc nghe
Bát nhã ba la mật,
Bồ Tát có ý
nghi ngờ:
Bát nhã ba la mật là thiệt có hay là thiệt không?
Bồ Tát này bị ma nhiễu loạn.
Lại này A Nan! Có
Bồ Tát xa lìa thiện tri thức, chẳng nghe
Bát nhã ba la mật. Vì chẳng nghe nên chẳng thấy, chẳng hỏi nên
hành Bát nhã
ba la mật thế nào? Nên tu
Bát nhã ba la mật thế nào?
Bồ Tát này
ác ma nhiễu loạn được.
Lại này A Nan! Nếu
Bồ Tát xa lìa Bát nhã ba la mật để thọ những pháp khác.
Bồ Tát này bị
ác ma nhiễu loạn.
Ác ma nghĩ rằng: Bọn này sẽ có bạn có đảng, sẽ
thỏa mãn nguyện vọng của ta.
Bồ Tát này tự mình sa vào hai bậc, cũng làm cho người khác sa vào hai bậc.
Lại này A Nan! Lúc nghe nói
Bát nhã ba la mật, nếu
đại Bồ Tát bảo người khác rằng:
Bát nhã ba la mật sâu xa này, chính tôi còn chẳng thấu đáo được, các người nghe học làm gì.
Bồ Tát này
ác ma nhiễu loạn được.
Lại này A Nan! Nếu
Bồ Tát khinh khi
Bồ Tát khác rằng: Tôi
hành Bát nhã
ba la mật, hành
viễn ly không, Ngài không có
công đức đó. Bấy giờ
ác ma rất
vui mừng hớn hở: Nếu có
Bồ Tát tự thị danh tánh bè đảng đông mà khinh khi chư
Bồ Tát tốt khác,
Bồ Tát này không thiệt có
công đức bất thối chuyển. Vì không có thiệt nên sanh các
phiền não, chỉ ham hư danh mà khinh tiện người khác không ở trong pháp của mình được.
Ác ma nghĩ rằng: Nay
cảnh giới cung diện của ta sẽ không trống, sẽ thêm đông ba
ác đạo.
Bấy giờ
ác ma giúp oai lực cho
Bồ Tát đó làm cho người khác tin
lời nói của
Bồ Tát đó.
Vì tin
lời nói nên
thọ lãnh tu học theo kinh của
Bồ Tát đó. Lúc
tu học theo kinh của
Bồ Tát đó. Lúc
tu học theo kinh đó thêm nhiều các
kết sử. Vì tâm của các người này
điên đảo nên
thân khẩu ý ba nghiệp gây tội mà đều thọ
ác báo, do đó thêm nhiều ba
ác đạo mà cung điện
quyến thuộc ma càng đông. Vì thấy lợi như vậy nên
ác ma vui mừng hớn hở.
Này A Nan! Nếu người hành
Bồ Tát đạo tranh đấu với người cầu
Thanh Văn,
ác ma thấy vậy nghĩ rằng đó là xa rời nhứt thiết
chủng trí.
Nếu
Bồ Tát tranh đấu giận giữ mắng, nhiếc
ác ma rất mừng rằng cả hai đều xa rời nhứt thiết
chủng trí.
Này A nan! Nếu
Bồ Tát chưa được
thọ ký có
ác tâm tranh đấu mắng nhiếc đối với
Bồ Tát đã được
thọ ký, tùy khởi niệm nhiều ít, sẽ phải trãi qua
số kiếp bao nhiêu đó, nếu chẳng bỏ nhứt thiết
chủng trí, rồi sau mới được bổ nhậm bao nhiêu
số kiếp đại trang nghiêm.
- Bạch đức Thế Tôn!
Ác tâm đó
trải qua bao nhiêu kiếp số như vậy, giữa chừng có được xuất trừ chăng?
- Này A Nan! Dầu ta có nói người cầu
Bồ Tát đạo và người cầu
Thanh Văn được xuất tội, nhưng với người cầu
Bồ Tát đạo mà
giận dữ tranh đấu mắng nhiếc ôm hờn chẳng
ăn năn, chẳng bỏ lỗi, ta chẳng nói có xuất tội. Quyết sẽ lại thọ bao nhiêu kiếp số đó. Nếu chẳng bỏ nhứt thiết
chủng trí vậy sau mới
đại trang nghiêm.
Nếu
Bồ Tát đó tự
cải hối rằng: Tôi có lỗi lớn, tôi sẽ chịu khuất dưới tất cả
chúng sanh, đời này và
đời sau tôi đều làm cho họ được
hòa giải. Tôi sẽ chịu sự đạp đi của tất cả
chúng sanh như cầu, như đò, như kẻ điếc câm. Sao tôi lại
mắng nhiếc người, tôi chẳng nên
phá hoại tâm
Vô Thượng Bồ Đề, tôi phải độ tất cả
chúng sinh khổ não này, sao tôi lại
giận dữ đối với họ.
- Bạch đức Thế Tôn!
Bồ Tát cùng
ở chung với
Bồ Tát thời phải thế nào?
- Này A Nan! Cùng
ở chung,
Bồ Tát phải xem nhau như Phật. Tại sao vậy? Vì
Bồ Tát phải
quan niệm rằng:
Bồ Tát này là bạn cùng ngồi một thuyền với tôi, cùng tôi
đồng học sáu ba la mật đến nhứt thiết
chủng trí.
Nếu
Bồ Tát đó
tạp hạnh, rời tâm nhứt thiết
chủng trí thì tôi không nên học
theo như vậy.
Bồ Tát học như
vậy thì gọi là bạn
đồng học
PHẨM ĐẲNG HỌC
THỨ SÁU MƯƠI BA
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Những gì là đẳng pháp của
đại Bồ Tát mà
Bồ Tát phải học?”.
- Này Tu Bồ Đề!
Nội không đến
vô pháp hữu pháp không là đẳng pháp của
Bồ Tát.
Sắc và
sắc tướng không, thọ, tưởng, hành, thức và thọ, tưởng, hành, thức
tướng không, nhẫn đến
Vô Thượng Bồ Đề tướng không là đẳng pháp của
Bồ Tát.
Đây gọi là đẳng pháp của
đại Bồ Tát. An trụ trong đẳng pháp này mà
đại Bồ Tát được
Vô Thượng Bồ Đề.
- Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát vì sắc tận, vì sắc ly, vì sắc diệt, vì sắc
bất sanh nên học, đó là học nhứt thiết chủng trí? Nhẫn đến vì
tứ niệm xứ đến pháp
bất cộng: tận, ly, diệt và
bất sanh nên học nhứt thiết chủng trí?
- Này Tu Bồ Đề? Theo ý ngươi thế nào? Sắc như, nhẫn đến
Vô Thượng Bồ Đề như, Phật như. Các như đó có tận, có diệt, đoạn chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Không.
- Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát học như đó là học nhứt thiết
chủng trí, chẳng
tác chứng, chẳng diệt, chẳng đoạn như vậy, học như thế ấy là
đại Bồ Tát học nhứt thiết
chủng trí.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát học như vậy là học
sáu ba la mật, là học
tứ niệm xứ đến học pháp
bất cộng. Nếu học
tứ niệm xứ đến pháp
bất cộng, đó là học nhứt thiết
chủng trí.
Này Tu Bồ Đề! Học như vậy là
cùng tận mé bờ của các
môn học. Ma và
Thiên ma chẳng
phá hoại được. Học như
vậy thì chẳng đến bậc
bất thối chuyển. Học như vậy là
học đạo sở hành của Phật. học như vậy là được pháp
ủng hộ, là học
đại từ đại bi, là học
tịnh Phật quốc độ,
thành tựu chúng sanh.
Này Tu Bồ Đề! Học như vậy là học ba lần chuyển mười hai
hành pháp luân. Học như vậy là học độ
chúng sanh. Học như vậy là học chẳng dứt giống Phật. Học như vậy là học mở cửa
cam lồ. Học như vậy là học muốn
hiển thị tánh
vô vi.
Này Tu Bồ Đề! Người
hạ liệt chẳng thể học được như vậy. Người học như vậy là vì muốn cứu vớt
chúng sanh chìm đắm trong
sanh tử.
Người học như vậy trọn chẳng sa vào
Địa ngục,
Ngạ quỉ,
Súc sanh, trọn chẳng sanh ở
biên địa, trọn chẳng sanh vào nhà
Chiên Đà La, trọn chẳng mang tật điếc đuôi, câm ngọng, què thọt, các căn đầy đú,
quyến thuộc thành tựu, trọn chẳng
cô độc, nghèo cùng.
Người học như vậy trọn chẳng
sát sanh, nhẫn đến trọn chẳng
tà kiến.
Người học như vậy chẳng sanh sống
tà mạng, chẳng gần người ác, người
phá giới.
Người học như vậy, do sức
phương tiện nên chẳng sanh
cõi Trời Trường Thọ. Những gì là sức phương tiện? Như trong
Bát nhã ba la mật đã nói:
Đại Bồ Tát do sức
phương tiện mà nhập
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định mà chẳng theo
thiền tâm định để thọ sanh.
Này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát học như vậy, ở trọng tất cả Pháp được
thanh tịnh, đó là
thanh tịnh tâm Thanh Văn, tâm
Bích Chi Phật vậy.
- Bạch đức Thế Tôn! Tất cả
pháp bổn tanh
thanh tịnh sao
đức Phật dạy rằng
Bồ Tát ở trong tất cả pháp được thanh tịnh?
- Này Tu Bồ Đề! Đúng như vậy. Tất cả
pháp bổn tánh
thanh tịnh. Ở trong các Pháp đó, nếu
đại Bồ Tát tâm
thông đạt, chẳng mê mờ, đó chính là
Bát nhã ba la mật.
Các
pháp như vậy, tất cả
phàm phu chẳng biết, chẳng thấy.
Vì những
chúng sanh đó mà
đại Bồ Tát hành
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật, hành
tứ niệm xứ đến nhứt thiết
chủng trí.
Này Tu Bồ Đề! Học như vậy,
Bồ Tát ở trong tất cả pháp được
mười trí lực, bốn
vô sở úy. Học như vậy để biết tâm
xu hướng của tất cả
chúng sanh.
Ví như ở quả đất, một ít chỗ sản xuất
vàng bạc,
châu báu.
Cũng vậy trong
chúng sanh có số ít người học được
Bát nhã ba la mật, còn phần nhiều sa vào
Thanh Văn,
Bích Chi Phật.
Ví như trong
loài người, ít người tạo nghiệp
Chuyển Luân Thánh Vương, còn người tạo nghiệp
Tiểu Vương thì đông.
Cũng vậy, một số ít
chúng sanh hành Bát nhã
ba la mật cầu nhứt thiết
chủng trí, phần đông
học đạo Thanh Văn, đạo
Bích Chi Phật.
Này Tu Bồ Đề! Trong hàng chư
Bồ Tát phát tâm cầu
Vô Thượng Bồ Đề, ít có người hành trúng như lời, mà phần nhiều sa vào bực
Thanh Văn, bực
Bích Chi Phật. Nhiều
Bồ Tát hành Bát nhã ba la mật không có sức
phương tiện, số ít người trụ bực
bất thối chuyển.
Này Tu Bồ Đề! Vì thế nên
đại Bồ Tát muốn trụ bực
bất thối chuyển, muốn trụ trong số
bất thối chuyển, phải học
Bát nhã ba la mật sâu xa này.
Lại này Tu Bồ Đề! Lúc học
Bát nhã ba la mật,
đại Bồ Tát chẳng sinh lòng
tham lam, căm giận,
ngu si,
giải đãi,
tán loạn,
phá giới, chẳng sanh tâm lầm lỗi khác, chẳng sanh tâm nắm lấy
sắc tướng, chẳng sanh tâm nắm lấy tướng
tứ niệm xứ đến
Vô Thượng Bồ Đề.
Tại sao vậy? Vì
đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật này thì không có pháp để được.
Vì không có pháp để được nên chẳng sanh tâm nắm lấy tướng.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát học
Bát nhã ba la mật sâu xa như
vậy thì tổng nhiếp tất cả
ba la mật, làm cho các
ba la mật được
tăng trưởng, các
ba la mật đều
tùy tùng. Vì
Bát nhã ba la mật sâu xa này là chỗ vào của tất cả
ba la mật.
Ví như trong
ngã kiến nhiếp hết sáu mươi hai kiến.
Cũng vậy,
Bát nhã ba la mật này nhiếp hết các
ba la mật.
Ví như người chết, vì
mạng căn diệt nên các căn khác cũng đều diệt theo.
Cũng vậy, lúc
đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật sâu xa này thì các
ba la mật đều tùy tùng!
Này Tu Bồ Đề! Muốn cho các
ba la mật được
thành tựu rốt ráo,
đại Bồ Tát phải học
Bát nhã ba la mật sâu xa này.
Đại Bồ Tát học
Bát nhã ba la mật sâu xa này thì lên trên tất cả
chúng sanh.
Này Tu Bồ Đề! Trong cõi
Đại Thiên,
chúng sanh có nhiều chăng?
- Bạch đức Thế tôn!
Chúng sanh trong
Diêm Phù Đề còn rất nhiều huống là trong cõi
Đại Thiên.
- Này Tu Bồ Đề! Nếu tất cả
chúng sanh trong cõi
Đại Thiên đồng thời được thân người đều chứng
Vô Thượng Bồ Đề, có vị
Bồ Tát đem
y phục, đồ uống ăn, đồ nằm, thuốc men
cúng dường bao nhiêu Phật như vậy, do
nhơn duyên cúng dường đó được phước nhiều chăng?
- Bạch đức Thế tôn! rất nhiều, rất nhiều.
- Này Tu Bồ Đề! Phước ấy không nhiều bằng
thiện nam,
thiện nữ học
Bát nhã ba la mật, chánh
ức niệm,
thực hành đúng như lời.
Tại sao vậy? Vì
Bát nhã ba la mật có
thế lực làm cho
đại Bồ Tát được
Vô Thượng Bồ Đề.
Thế nên, này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát muốn lên trên tất cả
chúng sanh thì phải học
Bát nhã ba la mật. Muốn làm chỗ
cứu hộ cho
chúng sanh khôn được
cứu hộ, muốn làm chỗ về nương cho
chúng sanh không chỗ về nương, muốn làm cho
con đường rốt ráo cho
chúng sanh không có đường
rốt ráo, muốn làm mắt sáng cho
chúng sanh mù, muốn được
công đức Phật, muốn
làm Phật tự tại du hí, muốn
làm Phật sư tử hống, muốn dộng chuông Phật, đánh trống Phật, thổi ốc Phật, lên tòa Phật cao
thuyết Pháp, muốn dứt nghi cho tất cả
chúng sanh thì phải học
Bát nhã ba la mật sâu xa.
Này Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát học
Bát nhã ba la mật sâu xa thì không
công đức lành nào mà chẳng được.
- Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát đó chừng có được
công đức Thanh Văn,
Bích Chi Phật chăng?
- Này Tu Bồ Đề! Đều có thể được cả, nhưng chẳng an trụ trong đó, dùng
trí quán xong liền thẳng qua nhập vào trong ngôi vị
Bồ Tát.
Đại Bồ Tát học như
vậy thì gần nhứt thiết
chủng trí, mau được
Vô Thượng Bồ Đề.
Đại Bồ Tát học như
vậy thì làm
phước điền cho tất cả Thiên, Nhơn,
A Tu La ở
thế gian.
Học như vậy,
đại Bồ Tát lên trên bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, mau gần nhứt thiết
chủng trí.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát học
Bát nhã ba la mật sâu xa như vậy, phải biết là bực
bất thối chuyển Bồ Tát, mau gần nhứt thiết
chủng trí, xa rời
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, gần
Vô Thượng Bồ Đề.
Này Tu Bồ Đề! Lúc
hành Bát nhã
ba la mật, nếu
đại Bồ Tát này nghĩ rằng: Đây là
Bát nhã ba la mật, tôi do
Bát nhã ba la mật này mà được nhứt thiết
chủng trí. Nếu
Bồ Tát có
ý nghĩ như trên thì chẳng gọi là
hành Bát nhã
ba la mật.
Nếu
Bồ Tát lúc
hành Bát nhã
ba la mật mà không có
ý nghĩ: Đây là
Bát nhã ba la mật, đây là người có
Bát nhã ba la mật, đây là pháp
Bát nhã ba la mật, đây là người
hành Bát nhã
ba la mật được
Vô Thượng Bồ Đề. Nếu
Bồ Tát chẳng có
ý nghĩ như trên thì gọi là
hành Bát nhã
ba la mật.
Này Tu Bồ Đề! Nếu
Bồ Tát nghĩ rằng không có
Bát nhã ba la mật ấy, không có người có
Bát nhã ba la mật ấy, không có
hành Bát nhã
ba la mật được
Vô Thượng Bồ Đề. Tại sao? Vì tất cả
pháp như,
pháp tánh, thiệt tế
thường trụ vậy. Hành như vậy, đó là
đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật”.
PHẨM TÙY HỈ
THỨ SÁU MƯƠI BỐN
Khi đó,
Thích Đề Hoàn Nhơn nghĩ rằng: Lúc
đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật,
Thiền ba la mật, Tấn
ba la mật,
Nhẫn ba la mật,
Giới ba la mật,
Thí ba la mật, nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng, thì lên trên tất cả
chúng sanh, huống là lúc được
Vô Thượng Bồ Đề.
Các
chúng sanh nghe nhứt thiết
chủng trí này, nếu người nào tin hiểu thì được lợi lành trong hàng người, được hơn thế trong hàng có
thọ mạng, huống là
phát tâm Vô Thượng Bồ Đề.
Chúng sanh này hay phát được tâm
Vô Thượng Bồ Đề, các
chúng sanh khác đều phải mong muốn.
Thích Đề Hoàn Nhơn đem bông
mạn đà la cõi trời rải trên
đức Phật mà tuyên lời rằng: “Do
phước đức này, nếu có ai
phát tâm Vô Thượng Bồ Đề thì làm cho người ấy đầy đủ
Phật pháp, đầy đủ
nhứt thiết trí, đầy đủ
pháp tự nhiên, nếu ai cầu
Thanh Văn thì làm cho họ đầy đủ pháp
Thanh Văn.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu có
Bồ Tát phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, tôi trọn chẳng sanh một niệm muốn họ
thối chuyển, tôi cũng chẳng sanh một niệm khiến họ
thối chuyển, sa vào bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật.
Bạch đức Thế Tôn! Tôi nguyện cho chư
Bồ Tát thêm
tinh tấn nơi
Vô Thượng Bồ Đề hơn, thấy
chúng sanh ở trong
sanh tử bị nhiều
khổ não nên muốn
lợi ích an vui cho tất cả
thế gian, Thiên, Nhơn,
A tu la, do tâm đó mà nguyện rằng: Tôi cũng tự độ cũng sẽ
độ người chưa được độ, tôi đã tự
giải thoát cũng sẽ
giải thoát người chưa
giải thoát, tôi đã
an ổn cũng sẽ an người chưa được an, tôi đã
diệt độ cũng sẽ khiến người chưa được
diệt độ được
diệt độ.
Bạch đức Thế Tôn! Đối với
Bồ Tát mới
phát tâm,
thiện nam,
thiện nữ có tâm
tùy hỷ công đức thì được bao nhiêu phước? Với
Bồ Tát phát tâm lâu, có tâm
tùy hỷ công đức thì được bao nhiêu phước? Với
nhứt sanh bổ xứ Bồ Tát, có tâm
tùy hỷ công đức thì được bao nhiêu phước?”
Đức Phật phán dạy: “Này Kiều Thi Ca! Cõi nước
Tứ Thiên Hạ có thể cân biết được cân lượng, không thể cân lường được
phước đức tùy hỷ này. Cõi nước
Đại Thiên có thể cân biết được cân lượng, không thể cân lường được phước
tùy hỷ này.
Lại này Kiều Thi Ca! Cõi nước
Đại Thiên, nước biển đầy trong đó, lấy một sợi tóc chẻ ra làm trăm phần, đem một phần tóc đó chấm lấy nước biển có thể biết được số giọt, không thể đếm biết được phước
tùy hỷ này”.
Thích Đề Hoàn Nhơn thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu
chúng sanh nào tâm chẳng
tùy hỷ Vô Thượng Bồ Đề thì đều là
quyến thuộc của ma. Các người tâm chẳng
tùy hỷ là từ trong ma sanh ra. Tại sao? Vì những người
phát tâm tùy hỷ đều vì phá
cảnh giới ma mà thọ sanh. Thế nên muốn ái kính
Tam Bảo thì phải có tâm
tùy hỷ, rồi
hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề, do vì chẳng một tướng, chẳng hai tướng”.
Đức Phật phán dạy: “Đúng như vậy. Này Kiều Thi Ca! Với chư
Bồ Tát, nếu người có tâm
tùy hỷ hồi hướng như
vậy thì thường gặp chư Phật. Người đó trọn chẳng thấy sắc ác, trọn chẳng nghe
tiếng ác, trọn chẳng ngửi mùi ác, trọn chẳng ăn vị ác, trọn chẳng chạm vật ác, trọn chẳng theo niệm ác, trọn chẳng xa rời chư Phật. Người đó sẽ sanh từ một
cõi Phật đến một
cõi Phật, luôn gần bên Phật và gieo trồng căn lành.
Tại sao vậy? Vì người đó ở vơ lượng
vô số thiện căn của chư
Bồ Tát mới
phát tâm, của chư
Bồ Tát đệ nhị địa đến cửa đệ
thập địa nhứt sanh
bổ xứ chư đại Bồ Tát mà
tùy hỷ hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề, do
nhơn duyên căn lành này mà người đó mau gần
Vô Thượng Bồ Đề.
Chư
Bồ Tát này được
Vô Thượng Bồ Đề rồi
độ thoát vô lượng vô biên vô số chúng sanh.
Này Kiều Thi Ca! Vì thế nên
thiện nam,
thiện nữ ở nơi
thiện căn của
Bồ Tát mới
phát tâm phải
tùy hỷ hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề, chẳng phải tâm cũng chẳng phải rời tâm”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Tâm ấy
như huyễn, làm sao có thể được
Vô Thượng Bồ Đề?”.
- Này Tu Bồ Đề! Ngươi có thấy tâm
như huyễn đó chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Không, tôi chẳng thấy huyễn, cũng chẳng thấy tâm
như huyễn.
- Này Tu Bồ Đề!
Nếu không huyễn, cũng
không tâm như huyễn, ngươi có thấy tâm đó chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Không.
- Này Tu Bồ Đề! Rời huyễn và rời tâm
như huyễn, ngươi thấy có pháp nào được
Vô Thượng Bồ Đề chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Không. Tôi chẳng thấy rời huyễn và rời tâm
như huyễn lại có pháp được
Vô Thượng Bồ Đề.
Bạch đức Thế Tôn! Tôi chẳng thấy lại có những pháp nào có thể nói được là có là không, vì
pháp tướng đó rất ráo ly, nên chẳng sa vào có, chẳng sa vào không.
Nếu pháp
rốt ráo ly thì chẳng thể được
Vô Thượng Bồ Đề.
Pháp
vô sở hữu cũng chẳng thể được
Vô Thượng Bồ Đề. Tại sao? Vì tất cả pháp
vô sở hữu, trong đó không có ai cấu, không có ai tịnh vậy.
Thế nên
Bát nhã ba la mật rốt ráo ly,
Thiền ba la mật, Tấn
ba la mật,
Nhẫn ba la mật, Tấn
ba la mật,
Nhẫn ba la mật,
Giới ba la mật và
Thí ba la mật đều
rốt ráo ly, nhẫn đến
Vô Thượng Bồ Đề cũng
rốt ráo ly.
Nếu pháp đã
rốt ráo ly thì chẳng nên tu, chẳng nên hoại.
Hành Bát nhã
ba la mật cũng không có pháp có thể được được, vì
rốt ráo ly vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu
Bát nhã ba la mật rốt ráo ly, sao lại nhơn nơi
Bát nhã ba la mật để
Vô Thượng Bồ Đề.
Vô Thượng Bồ Đề cũng
rốt ráo ly. Trong hai thứ
rốt ráo ly đó làm sao có thể có cái bị được”.
Đức Phật phán dạy: “Lành thay!
Lành thay! Bát nhã ba la mật rốt ráo ly, Thiền, Tấn, Nhẫn, Giới và
Thí ba la mật đều
rốt ráo ly, nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí rốt ráo ly.
Này Tu Bồ Đề! Nếu
Bát nhã ba la mật rốt ráo ly, nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí rốt ráo ly. Vì thế nên có thể được
Vô Thượng Bồ Đề.
Này Tu Bồ Đề! Nếu chẳng phải
rốt ráo ly thì chẳng gọi là Thiền, Tấn, Nhẫn, Giới,
Thí ba la mật, nhẫn đến chẳng gọi là nhứt thiết
chủng trí.
Này Tu Bồ Đề! Nếu là
Bát nhã ba la mật thì
rốt ráo ly, nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí rốt ráo ly. Vì thế nên chẳng phải chẳng nhơn nơi
Bát nhã ba la mật mà được
Vô Thượng Bồ Đề. Cũng chẳng do ly mà được ly. Nhưng
Vô Thượng Bồ Đề chẳng phải nhơn nơi
Bát nhã ba la mật”.
- Bạch đức Thế Tôn!
Nghĩa sở hành của
đại Bồ Tát thật là rất sâu.
- Đúng như vậy. Này Tu Bồ Đề!
Nghĩa sở hành của
đại Bồ Tát rất sâu.
Này Tu Bồ Đề!
Chư đại Bồ Tát có thể làm những sự khó làm: đó là hành nghĩa sâu mà chẳng chứng bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật.
- Bạch đức Thế Tô! Như tôi nghe nghĩa của
đức Phật dạy thì sở hành của
đại Bồ Tát chẳng lấy làm khó. Tại sao? Vì
đại Bồ Tát chẳng được nghĩa sâu đó để
tác chứng, cũng chẳng được
Bát nhã ba la mật để
tác chứng, cũng không người
tác chứng.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu tất cả pháp chẳng thể được, những nghĩa gì có thể
tác chứng, những gì là
Bát nhã ba la mật tác chứng, những gì là người
tác chứng,
tác chứng rồi được
Vô Thượng Bồ Đề?
Bạch đức Thế Tôn! Nếu
đại Bồ Tát nghe pháp đó mà tâm chẳng kinh sợ mê mờ thì gọi là
hành Bát nhã
ba la mật.
Đại Bồ Tát lúc
hành Bát nhã
ba la mật chẳng thấy mình
hành Bát nhã
ba la mật, chẳng thấy là
Bát nhã ba la mật, cũng chẳng thấy mình sẽ được
Vô Thượng Bồ Đề.
Tại sao vậy? Vì lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát chẳng nghĩ rằng:
Thanh Văn,
Bích Chi Phật cách xa tôi, nhứt thiết
chủng trí cách tôi gần.
Bạch đức Thế Tôn! Như
hư không kia chẳng nghĩ rằng có pháp cách xa nó hay gần nó, vì
hư không vô phân biệt.
Cũng vậy,
đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật chẳng nghĩ rằng: bục
Thanh Văn,
Bích Chi Phật cách tôi xa, nhứt thiết
chủng trí cách tôi gần. Vì trong
Bát nhã ba la mật vô phân biệt.
Bạch đức Thế Tôn! Như người huyễn chẳng nghĩ
huyễn sư cách tôi gần, khán giả cách tôi xa. Vì người huyễn
vô phân biệt.
Cũng vậy,
đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật chẳng nghĩ là gần là xa, vì
vô phân biệt vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Như tượng trong gương chẳng nghĩ rằng hình vật sở nhơn gần tôi, thứ khác thì xa tôi. Vì tượng
vô phân biệt.
Cũng vậy,
đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật chẳng nghĩ là gần, là xa, vì
vô phân biệt vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Như
đức Phật không thương, không ghét.
Đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật cũng không thương, không ghét. Vì trong
Bát nhã ba la mật không thương, không ghét.
Bạch đức Thế Tôn! Như
đức Phật, tất cả
phân biệt, tưởng niệm đã dứt mất.
Đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật tất cả
phân biệt, tưởng niệm cũng dứt mất. Vì
rốt ráo không vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Như
đức Phật hiện ra hóa nhơn. Hóa nhơn đó chẳng nghĩ rằng: bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật cách xa tôi,
Vô Thượng Bồ Đề cách tôi gần, vì hóa nhơn đó
vô phân biệt vậy.
Cũng vậy,
đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật chẳng nghĩ rằng
Thanh Văn,
Bích Chi Phật cách tôi xa,
Vô Thượng Bồ Đề cách tôi gần.
Bạch đức Thế Tôn! Như người vì có chỗ làm nên
biến hóa, sự việc
biến hóa đó
vô phân biệt.
Bát nhã ba la mật cũng vậy, vì có
việc phải làm mà tu. Việc ấy
thành tựu mà
Bát nhã ba la mật cũng không
phân biệt.
Bạch đức Thế Tôn! Như người thợ, vì có
sự nghiệp phải làm nên thầy trò tạo ra
người gỗ hoặc voi, ngựa, trâu, dê gỗ. Các hình gỗ đó cũng làm được việc mà
vô phân biệt.
Bát nhã ba la mật cũng vậy, vì có sự
việc phải làm nên nói sự việc ấy
thành tựu, nhưng
Bát nhã ba la mật vô phân biệt”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi Ngài
Tu Bồ Đề: “Chỉ có
Bát nhã ba la mật vô phân biệt thôi, còn năm
ba la mật kia có
vô phân biệt chăng?”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Năm
ba la mật kia cũng đều vô phân biệt”.
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi Ngài
Tu Bồ Đề: “Sắc
vô phân biệt, thọ, tưởng, hành, thức
vô phân biệt,
thập nhị nhập,
thập bát giới vô phân biệt,
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định,
tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo, không,
vô tướng,
vô tác,
mười trí lực, bốn
vô úy,
bốn vô ngại,
đại từ đại bi, mười
tám pháp bất cộng,
Vô Thượng Bồ Đề,
Vô vi tánh cũng đều
vô phân biệt.
Thưa Ngài Tu Bồ Đề! Nếu tất cả pháp, từ sắc đến
Vô vi tánh đều
vô phân biệt thì làm sao
phân biệt có sáu đạo
sanh tử: đó là
Địa ngục, là
Ngạ quỉ, là
Súc sanh, là Thiên, là Nhơn, là A tu la? Làm sao
phân biệt là
Tu Đà Hoàn, là
Tư Đà Hàm, là
A Na Hàm, là
A La Hán, là
Bích Chi Phật, là chư Phật?”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Vì
nhơn duyên chúng sanh điên đảo tạo nghiệp nơi thân, khẩu, ý, theo nghiệp trước mà thọ thân sáu đạo: thân
Địa ngục,
Ngạ quỷ,
Súc sinh,
A tu la, Nhơn, Thiên.
Như lời Ngài nói, làm sao
phân biệt có
Tu Đà Hoàn nhẫn đến chư Phật?
Thưa Ngài
Xá Lợi Phất!
Tu đà Hoàn tức là
vô phân biệt mà có. Quả
Tu Đà Hoàn cũng là
vô phân biệt mà có. Nhẫn đến Phật và quả Phật cũng là
vô phân biệt mà có.
Thưa Ngài
Xá Lợi Phất! Chư Phật
quá khứ cũng là vô phân việt, do dứt
phân biệt mà có.
Thưa Ngài
Xá Lợi Phất! Vì thế nên phải biết tất cả
pháp không có
phân biệt, vì tướng
bất hoại, các
pháp như,
pháp tánh, thiệt tế vậy.
Thưa Ngài
Xá Lợi Phất! Thế nên
đại Bồ Tát phải
hành Bát nhã
ba la mật vô phân biệt.
Hành Bát nhã
ba la mật vô phân biệt rồi thì được
Vô Thượng Bồ Đề vô phân biệt”.
PHẨM HƯ KHÔNG
THỨ SÁU MƯƠI LĂM
Ngài
Xá Lợi Phất hỏi: “Thưa Ngà Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật là
hành pháp chơn thiệt hay là
hành pháp không chơn thiệt?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Thưa Ngài
Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật là
hành pháp không chơn thiệt. Tại sao? Vì
Bát nhã ba la mật này không chơn thiệt, nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí không chơn thiệt vậy.
Đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật không chơn thiệt chẳng thể được, huống là chơn thiệt. Nhẫn đến hành nhứt thiết
chủng trí pháp không chơn thiệt chẳng thể được, huống là pháp chơn thiệt”.
Lúc đó
chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc nghĩ rằng: Có
thiện nam,
thiện nữ phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, hành đúng như nghĩa
Bát nhã ba la mật đã nói, nơi đẳng pháp chẳng chứng thiệt tế, chẳng sa vào bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, người như vậy đáng được
đảnh lễ.
Ngài
Tu Bồ Đề nói với
chư thiên tử: “Chư
đại Bồ Tát ở nơi đẳng pháp chẳng chứng bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật chẳng lấy làm khó.
Chư đại Bồ Tát đại trang nghiêm, tôi sẽ độ
vô lượng vô biên vô số chúng sanh. Biết
chúng sanh rốt ráo chẳng thể được mà độ
chúng sanh, đây mới là khó.
Chư Thiên Tử!
Đại Bồ Tát phát tâm Vô Thượng Bồ Đề nguyện rằng: Tôi sẽ độ tất cả
chúng sanh.
Chúng sanh thiệt chẳng thể được, người này muốn độ
chúng sanh như muốn độ
hư không.
Tại sao? Vì
hư không là ly, phải biết
chúng sanh cũng là ly. Vì
hư không là không, phải biết
chúng sanh cũng là không. Vì
hư không chẳng
kiên cố, phải biết
chúng sanh cũng không
kiên cố. Vì
hư không hư dối, phải biết
chúng sanh cũng
hư dối.
Chư Thiên Tử! Thế nên biết chỗ làm của
Đại Bồ Tát là khó.
Vì lợi ích chúng sanh không có được mà
đại trang nghiêm.
Bồ Tát này vì
chúng sanh mà kiết thệ nguyên, là muốn cùng
tranh đấu với
hư không.
Bồ Tát này kiết
thệ nguyện rồi cũng chẳng thấy có
chúng sanh mà vì
chúng sanh kiết
thệ nguyện.
Tại sao? Vì
chúng sanh là ly, phải biết
thệ nguyện cũng ly. Vì
chúng sanh hư dối, phải biết
thệ nguyện cũng
hư dối.
Nếu
đại Bồ Tát nghe pháp như
vậy mà lòng chẳng sợ, chẳng mê, phải biết đó là
đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật.
Tại sao? Vì sắc ly tức là
chúng sanh ly; thọ, tưởng, hành, thức ly tức là
chúng sanh ly. Sắc ly tức là
sáu ba la mật ly; thọ, tưởng, hành, thức ly tức là
sáu ba la mật ly, nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí ly tức là
sáu ba la mật ly.
Nếu nghe tất cả pháp
ly tướng như
vậy mà lòng chẳng kinh sợ, mê mờ, phải biết đó là
đại Bồ Tát ở trong
Bát nhã ba la mật lòng không mê mờ?”.
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Duyên cớ gì mà
đại Bồ Tát ở trong
Bát nhã ba la mật lòng không mê mờ?”.
Bạch đức Thế Tôn! Do
nhơn duyên như vậy nên
đại Bồ Tát ở trong
Bát nhã ba la mật lòng chẳng mê mờ. Nơi
Bồ Tát này: chẳng có người mê mờ, chẳng có sự mê mờ, chẳng có chỗ mê mờ, vì tất cả pháp này đều chẳng có thể được vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu
đại Bồ Tát nghe pháp như
vậy mà lòng chẳng sợ sệt, chẳng mê mờ, phải biết là
Bồ Tát hành Bát nhã ba la mật. Tại sao? Vì người, sự và chỗ đều chẳng thể có được vậy.
Đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật như vậy,
chư Thiên,
Thích Đề Hoàn Nhơn,
Phạm Vương, Thiên và
chư Thiên chủ
thế giới đều nên đảnh lễ”.
Đức Phật phán dạy: “Chẳng như
chư Thiên Tử ấy nên
đảnh lễ, mà
chư thiên cõi trên nữa như
Quang Âm Thiên,
Biến Tịnh Thiên,
Quảng Quả Thiên,
Tịnh Cư Thiên, đều nên
đảnh lễ Bồ Tát đó.
Này Tu Bồ Đề!
Hiện tại nay chư Phật ở
mười phương cũng
hộ niệm đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật đó. Phải biết
Bồ Tát đó như là Phật.
Này Tu Bồ Đề! Nếu
chúng sanh trong
hằng sa thế giới đều làm ma. Mỗi một ma này lại
biến hóa làm
hằng sa ma. Tất cả số ma đó chẳng lưu nạn được
đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát thành tựu hai pháp sau đây thời ma chẳng
phá hoại được: một là quán tất cả
pháp không, hai là chẳng rời bỏ tất cả
chúng sanh.
Bồ Tát thành tựu hai pháp này thì ma chẳng
phá hoại được.
Lại có hai pháp mà
đại Bồ Tát thành tựu thì ma chẳng phà hoại được: một là
việc làm đúng như
lời nói, hai là được chư
Phật hộ niệm.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát hành như vậy,
chư Thiên đều đến chỗ
Bồ Tát để thân cận,
thăm hỏi, khuyến dụ,
an ủi rằng: Không lâu Ngài sẽ được
Vô Thượng Bồ Đề, Ngài thường phải hành những hạnh không,
vô tướng,
vô tác. Tại sao? Vì Ngài hành những hạnh đó thì Ngài hộ cho
chúng sanh không được hộ, Ngài
y chỉ chó
chúng sanh không chỗ
y chỉ, Ngài cứu
chúng sanh không được cứu, Ngài làm
con đường rốt ráo cho
chúng sanh không đường
rốt ráo, Ngài làm chỗ về cho
chúng sanh không nơi về, làm cồn đảo cho
chúng sanh không cồn đảo, làm ánh sáng cho kẻ tối, làm mắt sáng cho kẻ mù.
Tại sao? Vì
đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật thì
hiện tại vô thượng vô số chư Phật mười phương ở trong
đại chúng thuyết pháp, đều khen ngợi
tuyên dương danh tánh của
đại Bồ Tát rằng:
Đại Bồ Tát tên hiệu đó
thành tựu công đức Bát nhã ba la mật.
Này Tu Bồ Đề! Như lúc ta
thuyết pháp, ta khen ngợi Bửu Tướng
Bồ Tát,
Thi Khí Bồ Tát.
Lại có
chư đại Bồ Tát ở tại nước của
đức Phật A Súc hành Bát nhã
ba la mật, tịnh tu
phạm hạnh, ta cũng khen ngợi danh tánh của
Bồ Tát đó.
Này Tu Bồ Đề! Cũng như phương Đông
hiện tại chư
Phật thuyết pháp. Trong đó có
đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật, tịnh tu
phạm hạnh, ta cũng
hoan hỷ ngợi khen Bồ Tát đó. Chín phương kia cũng vậy.
Lại có
Bồ Tát từ khi mới
phát tâm muốn đầy đủ
Phật đạo nhẫn đến được nhứt thiết
chủng trí, lúc chư
Phật thuyết pháp cũng
hoan hỷ khen ngợi
Bồ Tát đó. Tại sao? Vì chỗ làm của
chư đại Bồ Tát rất khó, là những
công hạnh chẳng dứt mất giống Phật”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Những
Bồ Tát nào, lúc chư
Phật thuyết pháp tự khen ngợi tuyên dương?”.
- Này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát bất thối chuyển, lúc chư
Phật thuyết pháp tự khen ngợi
tuyên dương.
- Bạch đức Thế Tôn!
Bồ Tát bất thối chuyển nào được Phật ngợi khen?
- Này Tu Bồ Đề! Như
đức Phật A Súc lúc làm
Bồ Tát thật
hành học tập, chư
Bồ Tát cũng học như vậy. Chư
Bồ Tát bất thối chuyển này được chư Phật lúc
thuyết pháp hoan hỷ ngợi khen.
Lại này Tu Bồ Đề! Có
Bồ Tát hành Bát nhã ba la mật tin hiểu tất cả pháp
vô sanh mà chưa được
vô sanh pháp nhẫn, tin hiểu tất cả
pháp không mà chưa được
vô sanh pháp nhẫn, tin hiểu tất cả pháp
hư dối chẳng thiệt, không chỗ có, chẳng bền chắc mà chưa được
vô sanh pháp nhẫn.
Này Tu Bồ Đề!
Chư đại Bồ Tát như vậy, lúc chư
Phật thuyết pháp
hoan hỷ khen ngợi,
tuyên dương danh tánh.
Này Tu Bồ Đề! Nếu
chư đại Bồ Tát nào được chư Phật lúc
thuyết pháp hoan hỷ tự
ngợi khen thì diệt dứt được bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, sẽ được
thọ ký Vô Thượng Bồ Đề.
Này Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát nào được chư
Phật thuyết pháp
hoan hỷ tự
ngợi khen thì sẽ được an trụ bực
bất thối chuyển. An trụ bực đó rồi sẽ được nhứt thiết
chủng trí.
Lại này Tu Bồ Đề! Lúc nghe
Bát nhã ba la mật sâu xa này,
đại Bồ Tát tâm sáng lẹ chẳng
nghi ngờ mà nghĩ rằng: sự đó đúng như
đức Phật đã nói.
Đại Bồ Tát đó cũng ở nơi
đức Phật A Súc và chư
Bồ Tát được nghe rộng
Bát nhã ba la mật này cũng tin hiểu. Tin hiểu rồi hành đúng như Phật đã nói sẽ được trụ bực
bất thối chuyển.
Này Tu Bồ Đề! Chỉ nghe
Bát nhã ba la mật được
lợi ích lớn, huống là tin hiểu rồi trụ đúng lời, hành đúng như lời. Trụ và hành đúng như lời rồi an trụ trong nhứt thiết
chủng trí.
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu như
đức Phật nói
chư đại Bồ Tát trụ đúng như lời, hành đúng như lời, an trụ trong nhứt thiết
chủng trí.
Đại Bồ Tát không pháp để được thế nào an trụ trong nhứt thiết chủng trí?
- Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát trụ trong
pháp như đó là an trụ nhứt thiết
chủng trí.
- Bạch đức Thế Tôn! Trừ như ra, không còn pháp nào để được thì ai trụ trong như, trụ trong như rồi sẽ được
Vô Thượng Bồ Đề? Ai trụ trong như để thuyết pháp? Như ấy còn chẳng thể được, huống là trụ trong như được
Vô Thượng Bồ Đề. Không bao giờ có ai trụ trong như để
thuyết pháp.
- Này Tu Bồ Đề! Đúng như vậy. Trừ như ra không còn pháp nào để được, ai trụ trong như. Trụ trong như rồi sẽ được
Vô Thượng Bồ Đề. Ai trụ trong như để
thuyết pháp. Như ấy còn chẳng thể được, huống là ai trụ trong như được
Vô Thượng Bồ Đề. Ai trụ trong như để
thuyết pháp.
Tại sao vậy? Như ấy: không có sanh, không có diệt, không có trụ, không có dị. Nếu
pháp không có sanh, diệt, trụ, dị thì trong đó ai sẽ trụ như. Ai sẽ trụ như mà
thuyết pháp. Không bao giờ có sự đó”.
Thích Đề Hoàn Nhơn thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Chỗ làm của
chư đại Bồ Tát rất là khó: ở trong
Bát nhã ba la mật sâu xa muốn được
Vô Thượng Bồ Đề.
Tại sao vậy? Vì không có ai trụ trong như, cũng không ai sẽ được
Vô Thượng Bồ Đề, cũng không ai
thuyết pháp.
Đại Bồ Tát ở nơi đây lòng chẳng kinh sợ, nghi ngờ”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói với
Thiên Đế Thích: “Ngài nói chỗ làm của
Đại Bồ Tát rất là khó: ở trong pháp rất khó đó mà tâm chẳng kinh sợ,
nghi ngờ.
Thưa Ngài Kiều Thi Ca! Trong các
pháp không, ai kinh sợ? Ai nghi ngờ?”.
Thiên Đế Thích nói: “Thưa Ngài Tu Bồ Đề! Chỗ Ngài nói chỉ là
pháp không, chẳng có
chướng ngại. Như ngước bắn giữa
hư không, mũi tên bay đi không
chướng ngại. Ngài
Tu Bồ Đề thuyết pháp vô ngại cũng như vậy”.