KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT
Hán dịch: Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập - Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Viện Phật Học Phổ Hiền Xuất Bản PL. 2530 DL 1986 (Trọn bộ 3 tập)
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn hành P.L 2539 DL. 1995 (Trọn bộ 3 tập)
QUYỂN THỨ NĂM
PHẨM TRANG NGHIÊM
THỨ MƯỜI BẢY
Bấy giờ Ngài
Tu Bồ Đề bạch
đức Phật: "Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát đại trang nghiêm.
Những gì là đại trang nghiêm?
Bực
Bồ Tát nào có
thể đại trang nghiêm?"
Đức Phật nói: "Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát Đại thừa đại trang nghiêm. Chính là
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật trang nghiêm.
Tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo phần trang nghiêm.
Nội không đến
vô pháp hữu không trang nghiêm.
Thập lực đến pháp
bất cộng và nhứt thiết
chủng trí trang nghiêm.
Biến thân như Phật
trang nghiêm,
quang minh chiếu khắp
tam thiên Đại Thiên quốc độ, cũng chiếu khắp mười, mỗi phương đều
hằng sa quốc độ. Làm
chấn động Đại Thiên quốc, cũng
chấn động hằng sa quốc độ trong
mười phương.
Bồ Tát nầy an trụ trong
Đàn na ba la mật Đại thừa đại trang nghiêm.
Đại Thiên quốc độ nầy
biến thành cõi
lưu ly.
Bồ Tát nầy
hóa thành Chuyển Luân Thánh Vương,
chúng sanh cần dùnh thứ gì thời đều
cung cấp đầy đủ thứ ấy, cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cần mặc cho
y phục, cần chỗ ở cho nhà phòng giường nệm, cần ánh sáng cho đèn đuốc, cần lành bệnh cho thuốc men, cần trang điển cho chuổi ngọc
châu báu cùng
các loại hoa hương.
Cấp cho xong rồi lại
thuyết pháp cho họ
tu hành pháp
Đại thừa.
Chúng sanh nghe xong, trọn chẳng rời
sáu ba la mật nhẫn đến
Vô thượng Bồ đề.
Đây gọi là
đại Bồ Tát Đại thừa đại trang nghiêm.
Nầy Tu Bồ Đề!
Ví như nhà
ảo thuật giỏi, ở giữa ngã tư đường hóa làm
đại chúng, rồi
cung cấp đồ
ăn uống, nhà phòng, thuốc men, hoa hương cho
đại chúng ấy.
Tu Bồ Đề nghĩa thế nào? Đối với nhà
ảo thuật nầy thiệt có
đại chúng cho chăng?"
Bạch đức Thế Tôn! Không có thiệt.
Nầy Tu Bồ Đề! Cũng vậy,
đại Bồ Tát hóa làm
Chuyển Luân Thánh Vương cung cấp nhu cầu đầy đủ cho tất cả
chúng sanh, mặc dù có làm mà thiệt thời không chỗ cho. Tại sao vậy? Vì
pháp tướng như ảo vậy.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát an trụ
Thi la ba la mật hiện sanh vào nhà
Chuyển Luân Thánh Vương, đem
thập thiện đạo giáo hóa chúng sanh. Có vị đem
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định,
tứ niệm xứ đến mười
tám pháp bất cộng giáo hóa
chúng sanh.
Chúng sanh nghe pháp tin hiểu
thọ trì mãi đến thành
Vô thượng Bồ đề trọn không rời pháp ấy.
Ví như nhà
ảo thuật giỏi, ở giữa ngã tư đường hóa làm
đại chúng rồi đem pháp
thập thiện đạo giáo hóa, cũng đem
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định,
tứ niệm xứ đến mười
tám pháp bất cộng để
giáo hóa khiến thật hành.
Tu Bồ Đề nghĩ thế nào? Có
chúng sanh thiệt được nhà
ảo thuật giáo hóa chăng?
Bạch đức Thế Tôn! Không có thiệt.
Cũng vậy, nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát giáo hóa chúng sanh thật hành
thập thiện đạo đến mười
tám pháp bất cộng, nhưng thiệt không có
chúng sanh thật hành
thập thiện đạo đến pháp
bất cộng. Tại sao vậy? Vì
pháp tướng như ảo vậy.
Đây gọi là
đại Bồ Tát đại trang nghiêm.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát an trụ
Sằn đề ba la mật,
giáo hóa chúng sanh làm cho họ thật hành
Sằn đề ba la mật. An trụ và
giáo hóa thế nào?
Đại Bồ Tát từ lúc
sơ phát tâm đến nay, dầu bị tất cả
chúng sanh mắng nhiếc, đánh đập, chém giết vẫn không móng khởi một niệm động tâm và cũng dạy tất cả
chúng sanh thật hành
nhẫn nhục nầy, nhưng thiệt không có
chúng sanh thọ giáo và thật hành
nhẫn nhục. Tại sao vậy? Vì
pháp tướng như ảo vậy.
Ví như nhà
ảo thuật giỏi,
hóa hiện đại chúng rồi dạy thật hành
nhẫn nhục.
Đây gọi là
đại Bồ Tát đại trang nghiêm.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát an trụ Tỳ lê gia
ba la mật,
giáo hóa tất cả
chúng sanh thật hành Tỳ lê gia
ba la mật. An trụ và
giáo hóa thế nào?
Đại Bồ Tát đúng với tâm
nhứt thiết trí,
thân tâm tinh tấn giáo hóa chúng sanh. Nhưng
thật không có
chúng sanh thọ giáo. Tại sao vậy? Vì
pháp tướng như ảo vậy.
Ví như nhà
ảo thuật giỏi.
Đây gọi là
đại Bồ Tát đại trang nghiêm.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát an trụ
Thiền na ba la mật,
giáo hóa tất cả
chúng sanh thật hành
Thiền na ba la. An trụ và
giáo hóa thế nào?
Đại Bồ Tát an trụ trong pháp
bất động, chẳng thấy có loạn, chẳng thấy có định,
giáo hóa tất cả
chúng sanh thật hành
Thiền na ba la mật, nhẫn đến
Vô thượng Bồ đề trọn chẳng rời
Thiền na ba la mật. Nhưng thiệt không có
chúng sanh thọ giáo thật hành
Thiền na ba la mật. Tại sao vậy? Vì
pháp tướng như ảo vậy.
Ví như nhà
ảo thuật giỏi.
Đây gọi là
đại Bồ Tát đại trang nghiêm.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát an trụ
Bát nhã ba la mật,
giáo hóa tất cả
chúng sanh thật
hành Bát nhã
ba la mật. An trụ và
giáo hóa thế nào?
Đại Bồ Tát lúc an trụ trong
Bát nhã ba la mật, không có pháp được
thử ngạn bỉ ngạn,
giáo hóa tất cả
chúng sanh thật
hành Bát nhã
ba la mật, nhẫn đến
Vô thượng Bồ đề trọn chẳng rời
Bát nhã ba la mật. Nhưng thiệt không có
chúng sanh thật
hành Bát nhã
ba la mật. Tại sao vậy? Vì
pháp tướng như ảo vậy.
Ví như nhà
ảo thuật giỏi.
Đây gọi là
đại Bồ Tát đại trang nghiêm.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Tùy theo chỗ đáng được độ của
chúng sanh trong
hằng sa quốc độ ở
mười phương,
đại Bồ Tát tự biến
thân hình an trụ
Đàn na ba la mật nhẫn đến
Bát nhã ba la mật, cũng
giáo hóa chúng sanh thật hành
sáu ba la mật.
Chúng sanh tuân hành pháp nầy đến
Vô thượng Bồ đề trọn chẳng rời pháp nầy. Nhưng thiệt không có
chúng sanh tuân hành. tại sao vậy? Vì
pháp tướng như ảo vậy.
Ví như nhà
ảo thuật giỏi.
Đây là
đại Bồ Tát đại trang nghiêm.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát đại trang nghiêm đúng với tâm
nhứt thiết trí, chẳng nghĩ rằng tôi dạy bao nhiêu người nầy an trụ
sáu ba la mật mà chẳng dạy những người kia.
Cũng chẳng nghĩ rằng tôi dạy bao nhiêu người nầy an trụ
tứ niệm xứ đến
bất cộng pháp mà chẳng dạy bao nhiêu người kia.
Cũng chẳng nghĩ rằng tôi dạy bao nhiêu người nầy cho họ được quả
Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm,
A La Hán,
Bích Chi Phật, nhứt thiết
chủng trí mà chẳng dạy bao nhiêu người kia.
Đại Bồ Tát đúng với tâm
nhứt thiết trí, nghĩ rằng tôi sẽ làm cho
vô lượng vô biên vô số tất cả
chúng sanh an trụ
sáu ba la mật. Tôi sẽ đặt tất cả
chúng sanh nơi
tứ niệm xứ nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng. Tôi sẽ làm cho tất cả
chúng sanh được quả
Tu Đà Hoàn đến nhứt thiết
chủng trí. Nhưng thiệt không có
chúng sanh an trụ
sáu ba la mật nhẫn đến được nhứt thiết
chủng trí. Tại sao vậy? Vì
pháp tướng như ảo vậy.
Ví như nhà
ảo thuật giỏi.
Đây gọi là
đại Bồ Tát đại trang nghiêm”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Theo
ý nghĩa mà con được nghe nơi
đức Phật dạy,
thời đại Bồ Tát không đại trang nghiêm là
đại trang nghiêm. Vì các
pháp tự tánh rỗng không vậy.
Nghĩa là
sắc tự tướng rỗng
không nhẫn đến thức
tự tướng rỗng không, nhãn
tự tướng rỗng
không nhẫn đến ý
tự tướng rỗng không,
sắc tự tướng rỗng
không nhẫn đến
pháp tự tướng rỗng không,
nhãn thức tự tướng rỗng
không nhẫn đến
ý thức tự tướng rỗng không, nhãn xúc
tự tướng rỗng
không nhẫn đến ý xúc
tự tướng rỗng không, nhãn
xúc nhân duyên, sanh thọ
tự tướng rỗng
không nhẫn đến ý xúc,
nhơn duyên, sanh thọ
tự tướng rỗng không,
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật tự tướng rỗng không,
nội không nhẫn đến
vô pháp hữu pháp không tự tướng rỗng không,
tứ niệm xứ nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng tự tướng rỗng không,
Bồ Tát tự tướng rỗng không.
Do
duyên cớ trên đây mà biết rằng
đại Bồ Tát không đại trang nghiêm là đại trang nghiêm”.
Đức Phật nói: "Phải lắm, đúng như lời ông nói. Nầy Tu Bồ Đề!
Nhứt thiết trí chẳng chẳng phải là
tác pháp,
chúng sanh cũng chẳng phải là
tác pháp.
Đại Bồ Tát vì
chúng sanh nầy mà
đại trang nghiêm.
Tại sao vậy? Vì
tác giả bất khả đắc vậy.
Nầy Tu Bồ Đề!
Nhứt thiết trí chẳng phải là pháp làm ra, sanh ra,
chúng sanh nầy cũng chẳng phải pháp làm ra, sanh ra.
Tại sao vậy? Vì sắc chẳng phải làm ra chẳng phải chẳng làm ra, thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải làm ra chẳng phải chẳng làm ra, ngã nhơn nhẫn đến
tri giả,
kiến giả chẳng phải? Làm ra chẳng phải chẳng làm ra.
Tại sao vậy? Vì các pháp
rốt ráo bất khả đắc vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! Mộng nhẫn đến
biến hóa chẳng phải làm ra chẳng phải chẳng làm ra, vì rồt ráo
bất khả đắc vậy.
Nầy Tu Bồ Đề!
Nội không nhẫn đến
vô pháp hữu
hữu pháp không chẳng phải làm ra chẳng phải chẳng làm ra, vì rốt ráp
bất khả đắc vậy.
Tứ niệm xứ nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng chẳng phải làm ra chẳng phải chẳng làm ra, vì
rốt ráo bất khả đắc vậy.
Nầy Tu Bồ Đề!
Pháp như,
pháp tướng,
pháp tánh,
pháp trụ,
pháp vị, thiệt tế chẳng phải làm ra chẳng phải chẳng làm ra, vì
rốt ráo bất khả đắc vậy.
Bồ Tát chẳng phải làm ra chẳng phải chẳng làm ra, vì
rốt ráo bất khả đắc vậy.
Nhứt thiết trí và nhứt thiết
chủng trí chẳng phải làm ra chẳng phải chẳng làm ra, vì
rốt ráo bất khả đắc vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! Do
duyên cớ nầy nên
nhứt thiết trí chẳng phải pháp làm ra, sanh ra,
chúng sanh nầy cũng chẳng phải pháp làm ra sanh ra.
Đại Bồ Tát vì
chúng sanh nầy mà đại trang nghiêm”.
Ngài thưa
Tu Bồ Đề: "Bạch đức Thế Tôn! như con
quán sát nghĩa của
đức Phật nói thời
sắc không phược, không thoát, thọ, tưởng, hành, thức không phược, không thoát”.
Ngài
Phú Lâu Na hỏi Ngài
Tu Bồ Đề: "những sắc gì không phược, không thoát, những thọ, tưởng, hành, thức gì không phược, không thoát?"
Ngài
Tu Bồ Đề nói: "Sắc như mộng và thọ, tưởng, hành, thức như mộng không phược, không thoát. Sắc như ảnh, như hưởng,
như ảo, như diệm,
như hóa và thọ, tưởng, hành, thức như ảnh, như hưởng,
như ảo, như diệm,
như hóa không phược, không thoát.
Nầy Ngài Phú Lâu Na! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức
quá khứ, không phược, không thoát. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức
vị lai không phược, không thoát. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức
hiện tại, không phược, không thoát.
Tại sao không phược, không thoát?
Vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức đây là
vô sở hữu nên không phược, không thoát.
Vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức đây là ly, là
tịch diệt, là
bất sanh nên không phược, không thoát.
Nầy Ngài Phú Lâu Na! Thiện và
bất thiện cùng
vô ký, sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không phược, không thoát.
Thế gian,
xuất thế gian và
hữu lậu cùng
vô lậu, sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không phược, không thoát.
Tại sao vậy? Vì là
vô sở hữu, là ly, là
tịch diệt, là
bất sanh nên không phược, không phước
Tất cả pháp cũng không phược, không thoát. Tại sao vậy? Vì là
vô sở hữu, là ly, là
tịch diệt, là
bất sanh nên không phược, không thoát.
Nầy Ngài Phú Lâu Na!
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật không phược, không thoát. Vì là
vô sở hữu, là ly, là
tịch diệt, là
bất sanh nên không phược, không thoát.
Nầy Ngài Phú Lâu Na!
Nội không đến
vô pháp hữu pháp không,
tứ niệm xứ đến mười
tám pháp bất cộng,
Vô thượng Bồ đề,
nhứt thiết trí, nhứt thiết
chủng trí,
Bồ Tát và Phật cũng đều không phược, không thoát.
Nầy Ngài Phú Lâu Na!
Pháp như,
pháp tướng,
pháp tánh,
pháp trụ,
pháp vị, thiệt tế,
vô vi pháp cũng đều không phược, không thoát. Vì là
vô sở hữu, là ly, là
tịch diệt, là
vô sanh nên không phược, không phước.
Nầy Ngài Phú Lâu Na! Đây gọi là
đại Bồ Tát Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật không phược, không thoát,
tứ niệm xứ đến nhứt thiết
chủng trí không phược, không thoát.
Đại Bồ Tát an trụ trong
sáu ba la mật không phược, không thoát, nhẫn đến an trụ nhứt thiết
chủng trí không phược, không thoát để
thực hiện không phược, không thoát
thành tựu chúng sanh, không phược, không thoát thành
tịnh Phật độ, không phược, không thoát
cúng dường chư Phật, không phược, không thoát nghe
chánh pháp, không phược, không thoát trọn chẳng rời chư Phật, không phược, không thoát trọn chẳng rời các
thần thông, không phược, không thoát trọn chẳng rời
ngũ nhãn, không phược, không thoát trọn chẳng rời các môn
đà la ni, không phược, không thoát trọn chẳng rời các môn
tam muội, không phược, không thoát sẽ sanh
đạo chủng trí, không phược, không thoát sẽ được nhứt thiết
chủng trí, không phược, không thoát
chuyển pháp luân, không phược, không thoát
an lập chúng sanh nơi
Tam thừa.
Nầy Ngài Phú Lâu Na!
Đại Bồ Tát thật
hành không phược, không thoát
sáu ba la mật, phải biết tất cả pháp đều không phược, không thoát, vì là
vô sở hữu, là ly, là
tịch diệt, là
bất sanh nên không phược, không thoát.
Đây gọi là
đại Bồ Tát không phược, không thoát đại trang nghiêm”.
PHẨM VẤN THỪA
THỨ MƯỜI TÁM
Ngài
Tu Bồ Đề bạch
đức Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Những gì là
đại Bồ Tát Đại thừa? Thế nào sẽ biết là
đại Bồ Tát phát xu Đại thừa? Thừa ấy pháp từ đâu? Thừa ấy đến chỗ nào? Sẽ an trụ chỗ nào? Ai sẽ ngồi nơi thừa ấy để ra?"
Đức Phật nói: "Nầy Tu Bồ Đề!
Sáu ba la mật là
đại Bồ Tát Đại thừa.
Đây là
sáu ba la mật:
Đàn na ba la mật,
Thi la ba la mật,
Sằn đề ba la mật, Tỳ lê gia
ba la mật,
Thiền na ba la mật và
Bát nhã ba la mật.
Thế nào gọi là
Đàn na ba la mật?
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát dùng tâm đúng với
nhứt thiết trí để
bố thí những
sở hữu trong thân ngoài thân,
cùng chung tất cả
chúng sanh hướng về
Vô thượng Bồ đề, vì pháp dụng
vô sở đắc vậy. Đây gọi là
đại Bồ Tát Đàn na ba la mật.
Thế nào gọi là
Thi la ba la mật?
Nâỳ Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát dùng tâm đúng với
nhứt thiết trí, để tự thật hành
thập thiện đạo và cũng dạy người khác thật hành, vì
vô sở đắc vậy. Đây gọi là
Bồ Tát Thi la ba la mật.
Thế nào gọi là
Sằn đề ba la mậ ?
Nâỳ Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát dùng tâm đúng với
nhứt thiết trí, tự đầy đủ nhẫn nhụcvà cũng dạy người khác thật hành
nhẫn nhục, vì
vô sở đắc vậy. Đây gọi là
đại Bồ Tát Sằn đề ba la mật.
Thế nào gọi là Tỳ lê gia
ba la mật?
Nâỳ Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát dùng tâm đúng với
nhứt thiết trí, thật hành năm
ba la mật kia, siêng tu không thôi nghĩ, cũng
an lập chúng sanh nơi năm
ba la mật, vì
vô sở đắc vậy. Đây gọi là
đại Bồ Tát Tỳ lê gia
ba la mật.
Thế nào gọi là
Thiền na ba la mật?
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát dùng tâm đúng với
nhứt thiết trí, tự dùng
phương tiện nhập các thiền chẳng thọ sanh theo thiền và cũng dạy người khác nhập các thiền, vì
vô sở đắc vậy. Đây gọi là
đại Bồ Tát Thiền na ba la mật.
Thế nào gọi là
Bát nhã ba la mật?
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát dùng tâm đúng với
nhứt thiết trí, chẳng
chấp trước tất cả các pháp và
quán pháp tánh vì
vô sở đắc vậy. Cũng dạy người khác chẳng
chấp trước tất cả các pháp và
quán pháp tánh vì
vô sở đắc vậy. Đây gọi là
đại Bồ Tát Bát nhã ba la mật.
Nầy Tu Bồ Đề! Đây là
đại Bồ Tát Đại thừa.
Đại Bồ Tát lại có
Đại thừa. Những là
nội không,
ngoại không,
nội ngoại không,
không không,
đại không,
đệ nhứt nghĩa không,
hữu vi không,
vô vi không,
tất cánh không, vô thỉ không,
tán không,
tánh không,
tự tướng không,
chư pháp không,
bất khả đắc không,
vô pháp không hữu pháp không,
vô pháp hữu pháp không.
Những gì là nội không?
Nội pháp là nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân và ý. Xét về nhãn thời nhãn rỗng không, nhẫn đến xét về ý thời ý rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì
tự tánh như vậy. Đây gọi là
nội không.
Những gì là ngoại không?
Ngoại pháp là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Xét về sắc thời sắc rỗng không, nhẫn đến xét về
pháp thời pháp rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh
tự như vậy. Đây gọi là
ngoại không.
Những gì là
nội ngoại không?
Nội ngoại pháp là
thập nhị nhập :
nội lục nhập tức là sáu căn và ngoại
lục nhập tức là
sáu trần.
Xét về
nội pháp thời
nội pháp rỗng không, xét về
ngoại pháp thời
ngoại pháp rỗng không, vì đều chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh
tự như vậy. Đây gọi là
nội ngoại không.
Những gì là không không?
Không là tất cả pháp rỗng không. Không nầy cũng là rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì
tự tánh như vậy. Đây gọi là
không không.
Những gì là đại không?
Đại là nói
mười phương. Xét về
Đông phương thời
Đông phương rỗng không, nhẫn đến Hạ phương thời Hạ phương rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh
tự như vậy. Đây gọi là
đại không.
Những gì là
đệ nhứt nghĩa không?
Đệ nhứt nghĩa là nói
Niết Bàn. Xét về về
Niết Bàn thời
Niết Bàn rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh
tự như vậy. Đây là
đệ nhứt nghĩa không.
Những gì là
hữu vi không?
Hữu vi pháp là nói
tam giới:
Dục giới,
Sắc giới và
Vô sắc giới. Xét về
Dục giới thời
Dục giới rỗng không.
Sắc giới thời
Sắc giới rỗng không,
Vô sắc giới thời
Vô sắc giới rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh
tự như vậy. Đây gọi là
hữu vi không.
Những gì là
vô vi không?
Vô vi pháp là nói
không tướng sanh,
không tướng trụ,
không tướng diệt. Xét về
vô vi pháp thời
vô vi pháp rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh
tự như vậy. Đây gọi là
vô vi không.
Những gì là
tất cánh không?
Tất cánh là nói các pháp
rốt ráo bất khả đắc, tức là
tất cánh rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh
tự như vậy. Đây gọi là
tất cánh không.
Những gì là vô thỉ không?
Xét về chỗ khởi đầu đến các
pháp thời bất khả đắc, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh
tự như vậy. Đây gọi là vô thỉ không.
Những gì là tán không?
Tán là nói các
pháp không diệt. Không diệt nầy cũng rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh
tự như vậy. Đây gọi là
tán không.
Những gì là tánh không?
Hoặc
hữu vi pháp tánh hoặc
vô vi pháp tánh, tánh nầy chẳng phải
Thanh Văn,
Bích Chi Phật làm ra, chẳng phải Phật làm ra, cũng chẳng phải người khác làm ra. Xét về tánh nầy, thời tánh nầy rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh
tự như vậy. Đây gọi là
tánh không.
Những gì là
tự tướng không?
Tự tướng là nói sắc thời tướng
biến hoại, thọ thời tướng
lãnh thọ, tưởng thời tướng lấy tướng dạng, hành thời tướng tạo tác, thức thời tướng rõ biết.
Tự tướng của những
pháp hữu vi,
pháp vô vi đều rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? ? Vì tánh
tự như vậy. Đây gọi là
tự tướng không.
Những gì là
chư pháp không?
Chư pháp là nói
ngũ ấm, thập nhi nhập,
thập bát giới. Xét về
chư pháp nầy thời
chư pháp nầy rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì
tự tánh như vậy. Đây gọi là
chư pháp không.
Những gì là
bất khả đắc không?
Tìm cầu các pháp
bất khả đắc đây là
bất khả đắc không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh
tự như vậy. Đây gọi là
bất khả đắc không.
Những gì là
vô pháp không?
Nếu
pháp không có thời cũng rỗng không, vì chẳng thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh
tự như vậy. Đây gọi là
vô pháp không.
Những gì là
hữu pháp không?
Hữu pháp là nói trong các pháp hòa hiệp có
tự tánh tướng.
Hữu pháp nầy rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh
tự như vậy. Đây gọi là
hữu pháp không.
Những gì là
vô pháp hữu pháp không?
Vô pháp trong các pháp và
hữu pháp trong các pháp đều rỗng không, vì chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh
tự như vậy. Đây gọi là
vô pháp hữu pháp không.
Nầy Tu Bồ Đề! Lại còn pháp
pháp tướng không,
vô pháp vô pháp tướng không, tự pháp?
tự pháp tướng không, tha pháp tha
pháp tướng không.
Những gì gọi là pháp
pháp tướng không?
Pháp nơi đây là nói
ngũ ấm.
Ngũ ấm rỗng không. Đây gọi là pháp
pháp tướng không.
Những gì gọi là
vô pháp vô pháp tướng không?
Vô pháp nơi đây là nói
vô vi pháp. Đây gọi là
vô pháp vô pháp tướng không.
Những gì gọi là
tự pháp tự pháp tướng không?
Xét về các
pháp thời tự pháp rỗng không. Rỗng không nầy chẳng phải do biết cũng chẳng phải do thấy. Đây gọi là
tự pháp tự pháp tướng không.
Những gì gọi là tha pháp tha
pháp tướng không?
Hoặc Phật
xuất thế hoặc Phật chưa
xuất thế,
pháp trụ,
pháp tướng,
pháp vị,
pháp tánh, như thiệt tế
vượt quá những
pháp không nầy. Đây gọi là tha pháp tha
pháp tướng không.
Đây gọi là
đại Bồ Tát Đại thừa.
Nầy Tu Bồ Đề! Lại có
đại Bồ Tát Đại thừa. Chính là
thủ lăng nghiêm tam muội, bữu ấn
tam muội,
sư tử du hí tam muội,
diệu nguyệt tam muội,
nguyệt tràng tướng tam muội,
xuất chư pháp tam muội,
quán đảnh tam muội,
tất pháp tánh tam muội,
tất tràng tướng tam muội,
kim cang tam muội, nhập
pháp ấn tam muội,
tam muội vương an lập tam muội,
phóng quang tam muội,
lực tấn tam muội,
cao xuất tam muội,
tất nhập biện tài tam muội,
thích danh tự tam muội, quán phương
tam muội,
đà la ni ấn
tam muội, vô cuống
tam muội, nhiếp
chư pháp hải
tam muội, biến phú
hư không tam muội,
kim cang luân tam muội, bửu đoạn
tam muội, năng chiếu
tam muội, bất cầu
tam muội,
vô trụ tam muội,
vô tâm tam muội, tịnh đăng
tam muội,
vô biên minh tam muội, năng tác minh
tam muội,
phổ chiếu minh
tam muội, kiên tịnh chư
tam muội tam muội,
vô cấu minh
tam muội,
hoan hỉ tam muội, điển quang
tam muội,
vô tận tam muội.
oai đức tam muội, ly tận
tam muội,
bất động tam muội,
bất thối tam muội, nhựt đăng
tam muội,
nguyệt tịnh tam muội, tịnh minh
tam muội, năng tác minh
tam muội, tác hành
tam muội, tri tướng
tam muội, như
kim cang tam muội, tâm trụ
tam muội,
phổ minh tam muội,
an lập tam muội, bửu tụ
tam muội,
diệu pháp ấn
tam muội, , pháp đẳng
tam muội, đoạn hỉ
tam muội, đáo pháp đảnh
tam muội, năng tán
tam muội,
phân biệt chư pháp cú
tam muội, tự đẳng tướng
tam muội, ly tự
tam muội, đoạn duyên
tam muội,
bất hoại tam muội, vô chủng tướng
tam muội, vô xứ hành
tam muội, ly mông muội
tam muội, vô khứ
tam muội,
bất biến dị
tam muội, độ duyên
tam muội, tập chư
công đức tam muội, trụ
vô tâm tam muội,
tịnh diệu hoa
tam muội,
giác ý tam muội,
vô lượng biện
tam muội,
vô đẳng đẳng tam muội, độ
chư pháp tam muội,
phân biệt chư pháp tam muội,
tán nghi tam muội, vô xứ
tam muội, nhứt
trang nghiêm tam muội, sanh hành
tam muội, nhứt hành
tam muội, bất nhứt hành
tam muội,
diệu hành tam muội, đạt nhứt thiết hữu để tán
tam tam muội, nhập danh ngữ
tam muội, ly
âm thanh tự ngữ
tam muội, nhiên cự
tam muội, tịnh tướng
tam muội,
phá tướng tam muội, nhứt thiết chủng
diệu túc tam muội, bất hỉ khổ lạc
tam muội,
vô tận tướng
tam muội,
đà la ni tam muội, nhiếp chư
tà chánh tướng
tam muội, diệt tắng ái
tam muội,
nghịch thuận tam muội,
tịnh quang tam muội,
kiên cố tam muội,
mãn nguyệt tịnh quang tam muội,
đại trang nghiêm tam muội, năng chiếu nhứt thiết thế
tam muội,
tam muội đẳng
tam muội, nhiếp nhứt thiết
hữu tránh vô tránh tam muội,
bất lạc nhứt
thiết trụ xứ
tam muội, như
trụ định tam muội, hoại thân suy
tam muội, hoại ngữ như
hư không tam muội, ly trước như
hư không bất nhiễm
tam muội.
Thế nào gọi là
thủ lăng nghiêm tam muội?
Biết chỗ
hành xứ của các
tam muội, đây gọi là
thủ lăng nghiêm tam muội.
Thế nào gọi là bửu ấn tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời có thể ấn các
tam muội, đây gọi là bửu ấn
tam muội.
Thế nào gọi là sử tử du hí tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời có thể du hí trong các
tam muội như
sư tử, đây gọi là
sư tử du hí tam muội.
Thế nào gọi là
diệu nguyệt tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời có thể
soi sáng các
tam muội như mặc nguyệt sáng, đây gọi là
diệu nguyệt tam muội.
Thế nào gọi là nguyệt tràng tướng tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời có thể nắm giữ tướng của các
tam muội, đây gọi là
nguyệt tràng tướng tam muội.
Thế nào gọi là xuất
chư pháp tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời có thể xuất sanh các
tam muội, đây gọi là
xuất chư pháp tam muội.
Thế nào gọi là
quán đảnh tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời có thể xem thấy tột đảnh của các
tam muội, đây gọi là
quán đảnh tam muội.
Thế nào gọi là tất
pháp tánh tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời
quyết định biết
pháp tánh, đây gọi là
tất pháp tánh tam muội.
Thế nào gọi là tất tràng tướng tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời có thể nắm giữ
bảo tràng của các
tam muội.
Thế nào gọi là
kim cang tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời có thể phá các
tam muội, đây gọi là
kim cang tam muội.
Thế nào gọi là nhập
pháp ấn tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời nhập vào các
pháp ấn, đây gọi là nhập
pháp ấn tam muội.
Thế nào gọi là
tam muội vương an lập tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời an trụ
vững vàng trong tất cả
tam muội như đế vương, đây gọi là
tam muội vương an lập tam muội.
Thế nào gọi là
phóng quang tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời có thể
phóng quang chiếu các
tam muội, đây gọi là
phóng quang tam muội.
Thế nào gọi là lực tấn tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời có thể làm
thế lực đối với các
tam muội, đây gọi là
lực tấn tam muội.
Thế nào gọi là cao xuất tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời có thể
tăng trưởng các
tam muội, đây gọi là
cao xuất tam muội.
Thế nào gọi là tất nhập
biện tài tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời có thể biện thuyết các
tam muội, đây gọi là
tất nhập biện tài tam muội.
Thế nào gọi là
thích danh tự tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời có thể
giải thích danh tự của các
tam muội, đây gọi là
thích danh tự tam muội.
Thế nào gọi là quán phương tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời có thể
quán sát phương hướng các
tam muội, đây gọi là quán phương
tam muội.
Thế nào gọi là
đà la ni ấn tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời có thể nắm giữ các
tam muội ấn, đây gọi là
đà la ni ấn
tam muội.
Thế nào gọi là vô cuống tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời không khi dối đối với các
tam muội, đây gọi là vô cuống
tam muội.
Thế nào gọi là nhiếp
chư pháp hải tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời có thể nhiếp lấy các
tam muội như nước
đại hải, đây gọi là nhiếp
chư pháp hải
tam muội.
Thế nào gọi là biến phú
hư không tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời che trùm các
tam muội như
hư không, đây gọi là biến phú
hư không tam muội.
Thế nào gọi là
kim cang luân tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời có thể nắm giữ các
tam muội phần, đây gọi là
kim cang luân tam muội.
Thế nào gọi là bửu đoạn tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời có thể dứt
trừ phiền não cấu của các
tam muội, đây gọi là bửu đoạn
tam muội.
Thế nào gọi là năng chiếu tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời có thể dùng
quang minh chiếu rõ các
tam muội, đây gọ褐là năng chiếu
tam muội.
Thế nào gọi là bất cầu tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời không có pháp để cầu, đây gọi là bất cầu
tam muội.
Thế nào gọi là
vô trụ tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời chẳng thấy tất cả
pháp trụ, đây gọi là
vô trụ tam muội.
Thế nào gọi là
vô tâm tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời tâm và
tâm sở chẳng
hiện hành, đây gọi là
vô tâm tam muội.
Thế nào gọi là tịnh đăng tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời đối với các
tam muội chiếu sáng như đèn sáng, đây gọi là tịnh đăng
tam muội.
Thế nào gọi là
vô biên minh tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời làm ánh sáng
vô biên cho các
tam muội đây gọi là
vô biên minh tam muội.
Thế nào gọi là năng tác minh tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời liền có thể làm sáng cho các
tam muội, đây gọi là năng tác minh
tam muội.
Thế nào gọi là
phổ chiếu minh tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời có thể chiếu các
tam muội môn, đây gọi là
phổ chiếu minh
tam muội.
Thế nào gọi là kiên tịnh chư
tam muội tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời có thể làm cho tướng của các
tam muội bền chắc
trong sạch, đây gọi là kiên tịnh chư
tam muội tam muội.
Thế nào gọi là
vô cấu minh tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời có thể trừ cấu nhơ của các
tam muội, đây gọi là
vô cấu minh
tam muội.
Thế nào gọi là
hoan hỉ tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời
lãnh thọ sự
hoan hỉ của các
tam muội, đây gọi là
hoan hỉ tam muội.
Thế nào gọi là điển quang tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời chiếu suốt các
tam muội như điển quang, đây gọi là điển quanq
tam muội.
Thế nào gọi là
vô tận tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời đối với các
tam muội chẳng thấy
cùng tận, đây gọi là
vô tận tam muội.
Thế nào gọi là
oai đức tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời có
oai đức chiếu rõ đối với các
tam muội, đây gọi là
oai đức tam muội.
Thế nào gọi là ly tận tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời chẳng thấy các
tam muội cùng tận, đây gọi là ly tận
tam muội Thế nào gọi là
bất động tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời làm cho các
tam muội chẳng động, chẳng lay, đây gọi là
bất động tam muội.
Thế nào gọi là
bất thối tam muội?
An trụ torng
tam muội nầy thời có thể chẳng thấy các
tam muội bất thất, đây gọi là
bất thối tam muội.
Thế nào gọi là nhựt đăng
tam muội.
An trụ trong
tam muội nầy thời
phóng quang chiếu các
tam muội môn, đây gọi là nhựt đăng
tam muội.
Thế nào gọi là
nguyệt tịnh tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời có thể trừ sự
tối tăm của các
tam muội, đây gọi là
nguyệt tịnh tam muội.
Thế nào gọi là tịnh minh tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy nơi các
tam muội được
tứ vô ngại trí, đây gọi là tịnh minh
tam muội.
Thế nào gọi là năng tác minh tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời nơi các
tam muội môn có thể làm sáng, đây gọi là năng tác minh
tam muội.
Thế nào gọi là tác hành tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời có thể làm cho các
tam muội có chỗ tạo tác.
Thế nào gọi là tri tướng tam muội?
An trụ trong các
tam muội nầy thời thấy các
tam muội liền biết tướng của các
tam muội, đây gọi là tri tướng
tam muội.
Thế nào gọi là như
kim cang tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời có thể
quán xuyến thấu suốt các pháp, nhưng cũng chẳng thấy có thấu suốt, đây gọi là như
kim cang tam muội.
Thế nào gọi là tâm trụ tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời tâm chẳng động, chẳng chuyển, chẳng não, cũng chẳng nghĩ nhớ có tâm nầy, đây gọi là tâm trụ
tam muội.
Thế nào gọi là
phổ minh tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời thời thấy khắp
quang minh của các
tam muội, đây gọi là
phổ minh am muội.
Thế nào gọi là
an lập tam muội?
An trụ ở trong
tam muội nầy thời ở nơi các
tam muội an lập chẳng động, đây gọi là
an lập tam muội.
Thế nào gọi là bửu tụ tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời thấy khắp các
tam muội như thấy đống
châu báu, đây gọi là bửu tụ
tam muội.
Thế nào gọi là
diệu pháp ấn tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời có thể
ấn khả các
tam muội, vì dùng vô ấn để ấn vậy, đây gọi là
diệu pháp ấn
tam muội.
Thế nào gọi là pháp đẳng tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời
quán sát các
pháp bình đẳng,
không pháp nào chẳng
bình đẳng, đây gọi là pháp đẳng
tam muội.
Thế nào gọi là đoạn hỉ tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời dứt sự hỉ trong tất cả pháp, đây gọi là đoạn hỉ
tam muội.
Thế nào gọi là đáo pháp đảnh tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời diệt các pháp ám, cũng là ở trên các
tam muội, đây gọi là đáo pháp đảnh
tam muội.
Thế nào gọi là năng tán tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời có thể phá tan các pháp, đây gọi là năng tán
tam muội.
Thế nào gọi là
phân biệt chư pháp cú tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy
thời phân biệt các
pháp cú của các
tam muội, đây gọi là
phân biệt chư pháp cú
tam muội.
Thế nào gọi là tự đẳng tướng tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời được tự đẳng của các
tam muội, đây gọi là tự đẳng tướng
tam muội.
Thế nào gọi là ly tự tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời nơi các
tam muội nhẫn đến không thấy một chữ, đây gọi là ly tự
tam muội.
Thế nào gọi là đoạn duyên tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời dứt duyên của các
tam muội, đây gọi là đoạn duyên
tam muội Thế nào gọi là
bất hoại tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời chẳng thấy các pháp biến dị, đây gọi là
bất hoại tam muội.
Thế nào gọi là vô chủng tướng tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời chẳng thấy các pháp có nhiều
thứ loại, đây gọi là vô chủng tướng tam muội?
Thế nào gọi là vô xứ hành tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời chẳng thấy xứ hành của các
tam muội, đây gọi là vô xứ hành ta muội.
Thế nào gọi là ly mông muội tam muội?
An trụ torng
tam muội nầy thời lìa rời sự
tối tăm vi tế của các
tam muội, đây gọi là ly mông muội
tam muội.
Thế nào gọi là vô khứ tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời chẳng thấy tướng đi của tất cả
tam muội, đây gọi là vô khứ
tam muội.
Thế nào gọi là
bất biến dị tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời chẳng thấy tướng biến dị của các
tam muội, đây gọi là
bất biến dị
tam muội.
Thế nào gọi là độ duyên tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời
vượt qua cảnh giới của các
tam muội duyên, đây gọi là dộ duyên
tam muội.
Thế nào gọi là tập chư
công đức tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời chứa nhóm
công đức của các
tam muội, đây gọi là tập chư
công đức tam muội.
Thế nào gọi là trụ
vô tâm tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời đối với các
tam muội tâm
vô sở nhập, đây gọi là trụ
vô tâm tam muội.
Thế nào gọi là
tịnh diệu hoa tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời làm cho các
tam muội tịnh diệu như hoa
xinh đẹp sạnh thơm, đây gọi là
tịnh diệu hoa
tam muội.
Thế nào gọi là
giác ý tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời được
thất giác phần ở trong các
tam muội, đây gọi là
giác ý tam muội.
Thế nào gọi là
vô lượng biện tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời ở trong các pháp được
vô lượng biện, đây gọi là
vô lượng biện
tam muội.
Thế nào gọi là
vô đẳng đẳng tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời được tướng
vô đẳng đẳng nơi các
tam muội, đây gọi là
vô đẳng đẳng tam muội.
Thế nào gọi là độ
chư pháp tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời
vượt qua tất cả
tam giới, đây gọi là độ
chư pháp tam muội.
Thế nào gọi là
phân biệt chư pháp tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy
thời phân biệt thấy các
tam muội và các pháp, đây gọi là
phân biệt chư pháp tam muội.
Thế nào gọi là tán nghi ta muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời được
tiêu tan sự nghi đối với các pháp, đây gọi là
tán nghi tam muội.
Thế nào gọi là
vô trụ xứ tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời chẳng thấy chỗ trụ xứ của các pháp, đây gọi là
vô trụ xứ
tam muội.
Thế nào gọi là nhứt
trang nghiêm tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời trọn chẳng thấy các pháp có hai tướng, đây gọi là nhứt thiết
trang nghiêm tam muội.
Thế nào gọi là sanh hành tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời chẳng thấy các hành
sanh khởi, đây gọi là sanh hành
tam muội.
Thế nào gọi là nhứt hành tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời chẳng thấy các
tam muội thử ngạn,
bỉ ngạn, đây gọi là nhứt hành
tam muội.
Thế nào gọi là bất nhứt hành ta muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời chẳng thấy các
tam muội một tướng, đây gọi là bậc nhứt hành
tam muội.
Thế nào gọi là
diệu hành tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời chẳng thấy các
tam muội hai tướng, đây gọi là
diệu hành tam muội.
Thế nào gọi là đạt nhứt thiết hữu để tán tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời nhập vào tất cả cõi, tất cả
tam muội,
trí huệ thông đạt cùng không chỗ
thông đạt, đây gọi là đạt nhứt thiết hữu để tán
tam muội.
Thế nào gọi là nhập danh ngữ tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời nhập vào danh ngữ của tất cả
tam muội, đây gọi là nhập danh ngữ
tam muội.
Thế nào gọi là ly
âm thanh tự ngữ tam muội?
An trũ trong
tam muội nầy thời chẳng thấy
âm thanh tự ngữ của các
tam muội, đây gọi là ly
âm thanh tự ngữ của các
tam muội.
Thế nào gọi là nhiên cự tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời
oai đức chiếu sánh như ngọn đuốc, đây gọi là nhiên cự
tam muội.
Thế nào gọi là tịnh tướng tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời sạch tướng của các
tam muội, đây gọi là tịnh tướng
tam muội Thế nào gọi là phá tướng tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời chẳng thấy tướng của các
tam muội, đây gọi là
phá tướng tam muội.
Thế nào gọi là nhứt thiết chủng
diệu túc tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời tất cả
tam muội chủng đều đầy đủ, đây gọi là nhứt thiết chủng
diệu túc tam muội.
Thế nào gọi là bất hỉ khổ lạc tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời chẳng thấy các
tam muội khổ lạc, đây gọi là bất hỉ khổ lạc
tam muội.
Thế nào gọi là
vô tận tướng tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời chẳng thấy các
tam muội chung tận, đây gọi là
vô tận tướng
tam muội.
Thế nào gọi là
đà la ni tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời có thể
chấp trì các
tam muội, đây gọi là
đà la ni tam muội.
Thế nào gọi là nhiếp chư
tà chánh tướng tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời nơi các
tam muội chẳng thấy tướng
tà chánh, đây gọi là nhiếp chư
tà chánh tướng
tam muội.
Thế nào gọi là diệt tắng ái tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời không thấy sự ưa ghét của các
tam muội, đây gọi là diệt tắng ái
tam muội.
Thế nào gọi là
nghịch thuận tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời chẳng thấy sự
nghịch thuận của các pháp, của các
tam muội, đây gọi là
nghịch thuận tam muội.
Thế nào gọi là tịnh quang tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời chẳng thấy sự cấu nhơ nơi
quang minh của các
tam muội, đây gọi là
tịnh quang tam muội.
Thế nào gọi là
kiên cố tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời chẳng thấy các
tam muội chẳng
kiên cố, đây gọi là
kiên cố tam muội.
Thế nào gọi là
mãn nguyệt tịnh quang tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời các
tam muội đầy đủ như mặt nguyệt đêm rằm, đây gọi là
mãn nguyệt tịnh quang tam muội.
Thế nào gọi là
đại trang nghiêm tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy
thời đại trang nghiêm thành tựu các
tam muội, đây gọi là
đại trang nghiêm tam muội.
Thế nào gọi là năng chiếu nhứt thiết thế tam muội?
An trụ trog
tam muội nầy thời có thể chiếu các
tam muội và tất cả pháp, đây gọi là năng chiếu nhứt thiết thế
tam muội.
Thế nào gọi là
tam muội đẳng tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời nơi các
tam muội chẳng thấy tướng định, tướng loạn, đây gọi là
tam muội đẳng
tam muội.
Thế nào gọi là nhiếp nhứt thiết
hữu tránh vô tránh tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời có thể làm cho các
tam muội chẳng
phân biệt có kia đây, không kia đây, đây gọi là nhiếp nhứt thiết
hữu tránh vô tránh tam muội.
Thế nào gọi là
bất lạc nhứt
thiết trụ xứ tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời chẳng thấy chỗ y tựa của các
tam muội, đây gọi là
bất lạc nhứt
thiết trụ xứ
tam muội.
Thế nào gọi là như
trụ định tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời chẳng
vượt quá tướng như của các
tam muội, đây gọi là như
trụ định tam muội.
Thế nào gọi là hoại thân suy tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời chẳng thấy
thân tướng, đây gọi là hoại thân suy
tam muội.
?Thế nào gọi là hoại ngữ như
hư không tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời chẳng thấy
ngữ nghiệp của các
tam muội như
hư không, đây gọi là hoại ngữ như
hư không tam muội.
Thế nào gọi là ly trước như
hư không bất nhiễm tam muội?
An trụ trong
tam muội nầy thời thấy các
tam muội như
hư không vô ngại, cũng chẳng nhiễm
tam muội nầy, đây gọi là ly trước như
hư không bất nhiễm
tam muội.
Nầy Tu Bồ Đề! Đây gọi là
đại Bồ Tát Đại thừa”.