KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT
Hán dịch: Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập - Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Viện Phật Học Phổ Hiền Xuất Bản PL. 2530 DL 1986 (Trọn bộ 3 tập)
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn hành P.L 2539 DL. 1995 (Trọn bộ 3 tập)
QUYỂN THỨ SÁU
PHẨM QUẢNG THỪA
THỨ MƯỜI CHÍN
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: "Có
đại Bồ Tát Đại thừa, chính là
tứ niệm xứ.
Thế nào là bốn?
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát, trong nội thân, theo thân
quán sát, cũng không có thân giác, vì
bất khả đắc vậy.
Trong
ngoại thân, theo thân
quán sát, cũng không có thân giác, vì
bất khả đắc vậy.
Trong
nội ngoại thân, theo thân
quán sát, cũng không có thân giác, vì
bất khả đắc vậy.
Đại Bồ Tát quán thân, siêng
tinh tấn nhứt tâm trừ sự tham ưu của
thế gian.
Nội thọ,
nội tâm,
nội pháp, ngoại thọ, ngoại tâm,
ngoại pháp,
nội ngoại thọ,
nội ngoại tâm,
nội ngoại pháp,
đại Bồ Tát theo thọ
tâm pháp quán sát, cũng không có thọ giác,
tâm giác, pháp giác, vì
bất khả đắc vậy, siêng
tinh tấn nhứt tâm trừ sự tham ưu của
thế gian.
Nầy Tu Bồ Đề! Thế nào là
đại Bồ Tát trong nội thân theo thân quán sát?
Lúc
đại Bồ Tát đi thời biết là đi, lúc đứng thời biết là đứng, lúc ngồi thời biết là ngồi, lúc nằm thời biết là nằm.
Thân hành động thế nào thời biết như vậy. Đây là trong nội thân,
đại Bồ Tát theo thân
quán sát, siêng
tinh tấn nhứt tâm trừ sự tham ưu của
thế gian, vì
bất khả đắc vậy.
Đại Bồ Tát lúc đến, lúc đi, lúc nhìn ngó, co duỗi, cúi ngửa, lúc
đắp y, cầm bát, lúc
ăn uống, lúc nằ nghĩ, ngủ, thức, ngồi, đứng, nói, nín, lúc nhập thiền, xuất thiền cũng thường
nhứt tâm. Đây là trong nội thân,
đại Bồ Tát theo thân
quán sát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật, vì
bất khả đắc vậy.
Trong nội thân, lúc theo thân
quán sát,
đại Bồ Tát nhứt tâm niệm, lúc
thở vào biết là
thở vào, lúc
thở ra biết là
thở ra, lúc
thở vào dài thời biết là
thở vào dài, lúc
thở ra dài thời biết là
thở ra dài, lúc
thở vào vắn thời biết là
thở vào vắn, lúc
thở ra vắn thời biết là
thở ra vắn, . Đây là trong nội thân,
đại Bồ Tát theo thân
quán sát, siêng
tinh tấn nhứt tâm trừ sự tham ưu của
thế gian, vì
bất khả đắc vậy.
Đại Bồ Tát quán sát thân tứ đại nghĩ rằng trong
thân thể có
địa đại,
thủy đại,
hỏa đại,
phong đại.
Ví như nhà hành thịt dùng dao bén giết bò chia làm bốn phần rồi hoặc đứng hoặc ngồi
quán sát bốn phần thịt bò nầy.
Cũng vậy
đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật quán sát thân thể bốn đại:
thủy đại,
hỏa đại,
phong đại. Đây là trong nội thân,
đại Bồ Tát theo thân
quán sát, vì
bất khả đắc vậy
Đại Bồ Tát lại
quán sát thân thể từ đảnh đầu đến chân, da mỏng bao bọc nhiều thứ
bất tịnh đầy trong thân. Nghĩ rằng
thân thể có tóc, lông, móng, răng, da mỏng, da dầy, gân, thịt, xương, tủy, tim, gan, phổi, tùy, cật, mật? , tiểu trường, đại trường, bao tử, bàng quang, phân dãi, mồ hôi, cáu ghét, nước mắt, nước mũi, nước miếng, máu, mủ, đàm, nhớt, não óc.
Ví như trong kho của nhà nông chứa lộn lạo đầy những lúa, nếp, mè , đậu, bắp. Người có đôi mắt sáng mở kho liền thấy rõ là lúa, là nếp, là mè , là đậu, là bắp.
Đại Bồ Tát quán sát trong thân từ đầu đến chân thấy rõ từng
chi tiết bất tịnh, siêng
tinh tấn nhứt tâm trừ sự tham ưu của
thế gian, vì
bất khả đắc vậy.
Đại Bồ Tát nếu thấy thân người chết đã
trải qua một ngày, hai ngày đến năm ngày, xanh ứ sình trương mủ nước rỉ chảy, tự nghĩ rằng
thân thể của ta đây rồi cũng sẽ như vậy, tất chẳng
thoát khỏi thế ấy. Đây là
đại Bồ Tát trong nội thân theo thân
quán sát, siêng
tinh tấn nhứt tâm trừ sự tham ưu của
thế gian, vì
bất khả đắc vậy.
Đại Bồ Tát nếu thấy thân người chết vất bỏ đã sáu ngày, bảy ngày, bị chồn, chó,
sài lang, quạ, kên kên, xé ăn, tự nghĩ rằng
thân thể của ta đây rồi cũng sẽ như vậy, tất chẳng
thoát khỏi thế ấy. Đây là
đại Bồ Tát trong nội thân theo thân
quán sát, siêng
tinh tấn nhứt tâm trừ sự tham ưu của
thế gian, vì
bất khả đắc vậy.
Đại Bồ Tát nếu thân người chết vất bỏ bị
cầm thú xé ăn
rã rời hôi thúi
bất tịnh, tự nghĩ rằng
thân thể của ta đây rồi cũng sẽ như vậy, tất chẳng
thoát khỏi thế ấy. Nếu thấy thân người chết vất bỏ,
da thịt đã tan lộ bày gân xương liên tỏa,
đại Bồ Tát tự nghĩ rằng
thân thể của ta đây rồi cũng sẽ như vậy, tất chẳng
thoát khỏi thế ấy. Nếu thân người chết vất bỏ, xương cốt đã
rã rời trên đất,
đại Bồ Tát tự nghĩ rằng
thân thể của ta đây rồi cũng sẽ như vậy, tất chẳng
thoát khỏi thế ấy. Nếu thấy thân người chết vất bỏ, xương cốt
rã rời trên đất, xương chân chỗ nầy, xương đầu chỗ nọ, mỗi lóng, mỗi đốt đều khác chỗ,
đại Bồ Tát tự nghĩ rằng
thân thể của ta rồi cũng như vậy, tất chẳng
thoát khỏi thế ấy. Nếu thấy xương khô bỏ lâu ngày, gió thổi, nắng soi, màu trắng như vỏ ốc,
đại Bồ Tát tự nghĩ rằng
thân thể của ta rồi cũng như vậy, tất chẳng
thoát khỏi thế ấy. Nếu thấy xương khô bỏ trên đất lâu ngày mục rã nát bấy lộn với đất,
đại Bồ Tát tự nghĩ rằng
thân thể của ta rồi cũng như vậy, tất chẳng
thoát khỏi thế ấy. Trong nội thân,
đại Bồ Tát theo thân
quán sát, siêng
tinh tấn nhứt tâm trừ sự tham ưu của
thế gian, vì
bất khả đắc vậy.
Như
quán sát nội thân với
ngoại thân cùng
nội ngoại thân, cũng theo thân
quán sát như vậy.
Cũng phải
theo như trên đây mà
giải thuyết rộng về
thọ niệm xứ,
tâm niệm xứ, và
pháp niệm xứ.
Đây gọi là
đại Bồ Tát Đại thừa, vì
bất khả đắc vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! Lại có
đại Bồ Tát Đại thừa, chính là
tứ chánh cần.
Những gì là bốn?
Đại Bồ Tát đối với những pháp ác
bất thiện chưa pháp sanh, vì làm cho pháp ác chẳng sanh nên muốn có tâm siêng
tinh tấn mà
nhứt tâm hành đạo. Đối với pháp ác
bất thiện đã pháp sanh, vì dứt trừ nên muốn có tâm siêng
tinh tấn mà
nhứt tâm hành đạo. Đối với
pháp thiện chưa phát sanh, vì phát sanh nên muốn có tâm siêng
tinh tấn mà
nhiếp tâm hành đạo. Đối với
pháp thiện đã pháp sanh, vì làm cho còn mãi để
tu tập đến được đầy đủ rộng lớn nên muốn có tâm siêng
tinh tấn mà
nhiếp tâm hành đạo, vì bất kảh đắc vậy. Đây gọi là
đại Bồ Tát Đại thừa.
Nầy Tu Bồ Đề! Lại có
đại Bồ Tát Đại thừa, chính là tứ
như ý phần.
Những gì là bốn?
Đại Bồ Tát dùng sự mong muốn định hạnh
thành tựu mà tu
như ý phần, dùng sự
tinh tấn định hạnh
thành tựu mà tu
như ý phần, dùng sự
tư duy định hạnh
thành tựu mà tu
như ý phần, dùng sự
nhứt tâm định hạnh
thành tựu mà tu
như ý phần. Đây gọi là
đại Bồ Tát Đại thừa, vì
bất khả đắc vậy,
Nầy Tu Bồ Đề! Lại có
đại Bồ Tát Đại thừa, chính là
ngũ căn.
Những gì là năm?
Tín căn,
tinh tấn căn,
niệm căn,
định căn,
huệ căn. Đây là
đại Bồ Tát Đại thừa, vì
bất khả đắc vậy.
Lại có
đại Bồ Tát Đại thừa, chính là
ngũ lực.
Những gì là năm?
Tín lực,
tinh tấn lực,
niệm lực,
định lực, huệ lực, đây là
đại Bồ Tát Đại thừa, vì
bất khả đắc vậy.
Lại có
đại Bồ Tát Đại thừa, chính là
thất giác phần.
Những gì là bảy?
Đại Bồ Tát tu niệm
giác phần,
trạch pháp giác phần,
tinh tấn giác phần, hỉ
giác phần, trừ
giác phần, định
giác phần và xã
giác phần, nương nơi ly, nơi
vô nhiễm hướng đến
Niết Bàn. Đây gọi là
đại Bồ Tát Đại thừa, vì
bất khả đắc vậy.
Lại có
bát thánh đạo phần là
đại Bồ Tát Đại thừa.
Những gì là tám?
Chánh kiến,
chánh tư duy,
chánh ngữ,
chánh nghiệp,
chánh mạng,
chánh tinh tấn,
chánh niệm và
chánh định. Đây gọi là
đại Bồ Tát Đại thừa, vì
bất khả đắc vậy.
Lại có ba môn
tam muội là
đại Bồ Tát Đại thừa.
Những gì là ba?
Không tam muội,
vô tướng tam muội và
vô tác tam muội.
Không tam muội là nói các
pháp tự tướng rỗng không. Đây gọi là
không giải thoát môn.
Vô tướng tam muội là nói diệt hoại các
pháp tướng, không nghĩ, không nhớ. Đây gọi là
vô tướng giải thoát môn.
Vô tác tam muội là nói đối với các
pháp không mong cầu tạo tác. Đây gọi là
vô tác giải thoát môn.
Ba môn nầy là
đại Bồ Tát Đại thừa, vì
bất khả đắc vậy.
Lại có
đại Bồ Tát Đại thừa, chính là
khổ trí,
tập trí,
diệt trí,
đạo trí,
tận trí,
vô sanh trí,
pháp trí, tỉ trí,
thế trí,
tha tâm trí, và như thiệt trí.
Thế nào gọi là khổ trí? Biết khổ chẳng sanh, đây gọi là
khổ trí.
Thế nào gọi là tập trí? Biết tập phải dứt, đây gọi là
tập trí.
Thế nào gọi là diệt trí? Biết khổ dứt diệt, đây gọi là
diệt trí.
Thế nào gọi là đạo trí? Biết
bát thánh đạo phần, đây gọi là
đạo trí.
Thế nào gọi là tận trí? Biết tham, sân, si, diệt tận, đây gọi là
tận trí.
Thế nào gọi là
vô sanh trí? Biết trong các cõi
hữu lậu là
vô sanh, đây gọi là
vô sanh trí.
Thế nào gọi là pháp trí? biết
bổn sự của
ngũ ấm, đây gọi là
pháp trí.
Thế nào gọi là tỉ trí? Biết nhân
vô thường nhẫn đến biết ý xúc
nhơn duyên sanh thọ
vô thường, đây gọi là tỉ trí.
Thế nào gọi là thế trí? Biết
nhơn duyên danh tự, đây gọi là
thế trí.
Thế nào gọi là tha tâm trí? Biết
tâm niệm của những
chúng sanh khác, đây gọi là
tha tâm trí Thế nào gọi là như thiệt trí? Biết nhứt thiết
chủng trí của chư Phật, đây gọi là như thiệt trí.
Mười một trí nầy là
đại Bồ Tát Đại thừa, vì
bất khả đắc vậy.
Lại có
tam căn là
đại Bồ Tát Đại thừa.
Những gì là ba? Vị
tri dục tri căn,
tri căn và
trí giả căn.
Tín căn,
tinh tấn căn,
niệm căn,
định căn và
huệ căn,
ngũ căn của
hành hữu học chưa
đắc quả, đây gọi là vị
tri dục căn.
Ngũ căn của
hành hữu học đã
đắc quả, đây gọi là
tri căn.
Ngũ căn của bậc
vô học, hoặc
A La Hán,
Bích Chi Phật, hoặc chư Phật, đây gọi là
trí giả căn.
Tam căn nầy là
đại Bồ Tát Đại thừa, vì
bất khả đắc vậy.
Lại có
tam tam muội là
đại Bồ Tát Đại thừa. Những gì là ba? Hữu giác hữu quán tám muội, vô giác hữu quán
tam muội và vô giác vô quán
tam muội.
Rời những
dục nhiễm và rời những pháp ác
bất thiện có giác, có quán, rời
dục nhiễm pháp sanh hỉ lạc nhập
sơ thiền, đây gọi là hữu giác hữu quán
tam muội.
Chặng giữa của
sơ thiền và
nhị thiền, đây gọi là vô giác hữu quán
tam muội.
Từ
nhị thiền đến
phi hữu tưởng phi
vô tưởng định, đây gọi là vô giác vô quán
tam muội.
Tam tam muội nầy? Là
đại Bồ Tát Đại thừa, vì
bất khả đắc vậy.
Lại có
thập niệm là
đại Bồ Tát Đại thừa.
Những gì là mười?
Niệm Phật,
niệm Pháp,
niệm Tăng,
niệm giới, niệm xã,
niệm thiên, niệm thiện, niệm
xuất nhập tức,
niệm thân và
niệm tử.
Mười
chánh niệm nầy là
đại Bồ Tát Đại thừa, vì
bất khả đắc vậy.
Lại có
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định,
bát bội xả và
cửu thế đệ định là
đại Bồ Tát Đại thừa, vì
bất khả đắc vậy.
Lại có
đại Bồ Tát Đại thừa, chính là
thập lực.
Những gì là mười? Một là Phật biết như thiệt những tướng thhị xứ, bất thị xứ của tất cả pháp. Hai là Phật biết như thiệt những nghiệp, những
thọ pháp của
chúng sanh khác, biết chỗ tạo nghiệp, biết
nhơn duyên, biết báo của
chúng sanh khác. Ba là Phật biết như thiệt những tướng cấu tịnh sai khác của các thiền
giải thoát, các
tam muội và các định. Bốn là Phật biết như thiệt những tướng
căn tánh thượng hạ của
chúng sanh khác. Năm là Phật như thiệt biết những loại dục giải của
chúng sanh khác. Sáu là Phật như thiệt biết
vô số tánh loại sai khác của
thế gian. Bảy là Phật như thiệt biết chỗ đến của tất cả
đạo hạnh. Tám là Phật như thệit biết
túc mạng của mình và của
chúng sanh khác từ
một đời đến
vô lượng đời trong
vô lượng kiếp có tướng như vậy, có
nhơn duyên như vậy. Chín là
Phật thiên nhãn
thanh tịnh hơn
chư Thiên, như thiệt thấy biết
chúng sanh chết đây sanh kia, hoặc
thiện đạo hoặc
ác đạo. Mười là Phật biết như thiệt các
lậu tận nên
vô lậu tâm giải thoát,
vô lậu huệ giải thoát, trong pháp
hiện tại tự chứng biết nhập vào pháp ấy, nghĩa là chứng biết như thiệt ta đã hết
sanh tử, đã thành
phạm hạnh, từ đời nay chẳng còn lại thấy có
đời sau nữa.
Mười trí lực nầy là
đại Bồ Tát Đại thừa, vì
bất khả đắc vậy.
Lại có
đại Bồ Tát Đại thừa, chính là
tứ vô sở úy.
Thế nào là bốn? Phật nói lời thành thiệt rằng ta là bực nhứt thiết
chánh trí. Đối với những điều
như như thiệt gạn hỏi về các pháp của tất cả
đại chúng, Phật không tự thấy có
mảy may e sợ. Vì thế nên Phật được rất
an ổn, được
vô sở úy an trụ ngôi thánh chúa, ở giữa
đại chúng như
sư tử hống chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả hàng
Sa Môn,
Bà La Môn,
chư Thiên Vương,
Phạm Vương,
Ma Vương, cùng
chúng sanh khác đều không chuyển được. Đây là
vô sở úy thứ nhứt.
Phật nói lời thành thiệt rằng ta là bực tất cả lậu đã dứt diệt hết sạnh. Đối với chỗ gạn hỏi như thiệt về lậu
phiền não dứt diệt đây của tất cả
đại chúng, Phật không tự thấy có
mảy may e sợ. Vì thế nên Phật được rất
an ổn, được
vô sở úy, an trụ ngôi thánh chúa, ở giữa
đại chúng chư
sư tử hống chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả trời, Người cùng
chúng sanh khác không chuyển được. Đây là
vô sở úy thứ hai.
Phật nói lời thành thiệt rằng đây là những pháp
chướng ngại chánh đạo giải thoát. Đối với những lời gạn hỏi như thiệt về pháp chướng đạo đây của tất cả
đại chúng. Phật không tự thấy có
mảy may e sợ. Vì thế nên Phật được rất
an ổn, được
vô sở úy, an trụ bực thánh chúa, ở giữa
đại chúng như
sư tử hống chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả Nhơn, Thiên cùng
chúng sanh khác đều không chuyển được. Đây là
vô sở úy thứ ba.
Phật nói lời thành thiệt rằng những
thánh đạo mà ta đã dạy
quyết định có thể ra khỏi
thế gian, theo đây thật hành thời có thể hết khổ. Đối với những lời gạn hỏi như thiệt về
thánh đạo đây của tất cả
đại chúng. Phật không tự thấy có
mảy may e sợ. Vì thế nên Phật được rất
an ổn, được
vô sở úy, an trụ bực thánh chúa. ở giữa
đại chúng như
sư tử hống chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả Nhơn, Thiên cùng
chúng sanh khác đều không chuyển được. Đây là
vô sở úy thứ tư.
Tứ vô sở úy nầy là
đại Bồ Tát Đại thừa, vì
bất khả đắc vậy.
Lại có
đại Bồ Tát Đại thừa, chính là
tứ vô ngại trí.
Những gì là bốn?
Pháp vô ngại trí,
nghĩa vô ngại trí,
từ vô ngại trí và
lạc thuyết vô ngại trí đây là
đại Bồ Tát Đại thừa, vì
bất khả đắc vậy.
Lại có
đại Bồ Tát Đại thừa, chính là
thập bát bất cộng pháp.
Những gì là mười tám? Một là thân của chư Phật không đổi, hai là khẩu của chư Phật không lỗi, ba là
ý niệm của chư Phật không lỗi, bốn là chư Phật không có
dị tướng, năm là chư Phật không có tâm
bất định, sáu là chư Phật không có tâm chẳng biết rồi mà xả, bảy là nguyện dục không diệt, tám là
tinh tấn không diệt, chín là
chánh niệm không diệt, mười là
huệ không diệt, mười một là
giải thoát không diệt, mười hai là
giải thoát tri kiến không diệt, mười ba là tất cả
thân nghiệp của chư Phật đều theo
nghiệp trí huệ mà
hiện hành, mười bốn là tất cả
khẩu nghiệp đều theo
trí huệ mà
hiện hành, mười lăm là tất cả
ý nghiệp đều theo
trí huệ mà
hiện hành, mười sáu là
trí huệ của chư Phật thấy biết thuở
quá khứ không ngại, không chướng, mười bảy là
trí huệ thấy biết thuở
vị lai không ngại, không chướng, mười tám là
trí huệ thấy biết thuở
hiện tại không ngại, không chướng. Đây là
đại Bồ Tát Đại thừa, vì
bất khả đắc vậy.
Lại có
đại Bồ Tát Đại thừa, chính là tự đẳng
ngữ đẳng chư tự
nhập môn.
Những gì là tự đẳng
ngữ đẳng chư tự nhập môn?
A
tự môn, vì tất cả pháp từ đầu vốn là
bất sanh vậy.
La
tự môn, vì tất cả pháp ly cấy vậy.
Ba
tự môn, vì tất cả
pháp đệ nhứt nghĩa vậy.
Giá
tự môn, vì tất cả pháp trọn
bất khả đắc vậy, vì tất cả pháp
bất diệt,
bất sanh vậy.
Na
tự môn, vì tất cả pháp rời danh
tánh tướng bất đắc, bất thất vậy.
LÃ
tự môn, vì tất cả pháp
thoát khỏi thế gian vậy, cũng là vì ái chi
nhơn duyên dứt diệt vậy.
Đà
tự môn, vì tất cả
pháp thiện tâm phát sanh, cũng là tướng
xả thí vậy.
Bà
tự môn, vì các pháp bà tự rời lìa vậy.
Đồ
tự môn, vì các
pháp đồ tự
thanh tịnh vậy.
Sa
tự môn, vì các
pháp tự tại tánh
thanh tịnh vậy.
Hòa
tự môn, vì nhập vào các pháp, dứt bặt
ngữ ngôn vậy.
Đa
tự môn, vì nhập vào các pháp, như tướng
bất động vậy.
Dạ
tự môn, vì nhập vào các pháp, như thiệt
bất sanh vậy.
Tra
tự môn, vì nhập vào các pháp, chiết phục
bất khả đắc vậy.
Ca
tự môn, vì nhập vào các pháp,
tác giả bất khả đắc vậy.
Ta
tự môn, vì nhập vào các pháp,
thời gian bất khả đắc vậy, vì các
pháp thời gian lay chuyển vậy.
Ma
tự môn, vì nhập vào các pháp,
ngã sở bất khả đắc vậy.
Già
tự môn, vì nhập vào các pháp, khứ giả
bất khả đắc vậy.
Tha
tự môn, vì nhập vào các pháp, xứ sở
bất khả đắc vậy.
Xà
tự môn, vì nhập vào các pháp, sanh
bất khả đắc vậy.
Bả
tự môn, vì nhập vào các pháp, bả tự
bất khả đắc vậy.
Đà
tự môn, vì nhập vào các pháp, tánh
bất khả đắc vậy.
Xa
tự môn, vì nhập vào các pháp, định
bất khả đắc vậy.
Khư
tự môn, vì nhập vào các pháp,
hư không bất khả đắc vậy.
Xoa
tự môn, vì nhập vào các pháp, diệt tận
bất khả đắc vậy.
Đá
tự môn, vì nhập vào các pháp, hữu
bất khả đắc vậy.
Nhã
tự môn, vì nhập vào các pháp, trí
bất khả đắc vậy.
Tha
tự môn, vì nhập vào các pháp, tha tự
bất khả đắc vậy.
Bà
tự môn, vì nhập vào các pháp,
phá hoại bất khả đắc vậy.
Xa
tự môn, vì nhập vào các pháp, dục
bất khả đắc vậy,
ngũ ấm như ảnh cũng
bất khả đắc vậy.
Ma
tự môn, vì nhập vào các pháp, ma tự
bất khả đắc vậy.
Hòa
tự môn, vì nhập vào các pháp, kêu gọi
bất khả đắc vậy.
Ta
tự môn, vì nhập vào các pháp, ta tự
bất khả đắc vậy.
Noa
tự môn, vì nhập vào các pháp, chẳng đến, chẳng đi, chẳng đứng, chẳng ngồi, chẳng nằm vậy.
Phả
tự môn, vì nhập vào các pháp, biên bờ
bất khả đắc vậy.
Ca
tự môn, vì nhập vào các pháp,
tụ họp bất khả đắc vậy.
Sai
tự môn, vì nhập vào các pháp, sai tự
bất khả đắc vậy.
Già
tự môn, vì nhập vào các pháp,
hiện hành bất khả đắc vậy.
Tra
tự môn, vì nhập vào các pháp, cong vậy
bất khả đắc vậy.
Đồ
tự môn, vì nhập vào các pháp, chỗ tột biên bờ nên chẳng diệt, chẳng sanh vậy.
Quá chữ Đồ thời không chữ có thể
tuyên thuyết. Tại sao vậy? Vì không còn có chữ vậy.
Những chữ
vô ngại,
vô danh, cũng diệt, chẳng nói được, chẳng chỉ được, chẳng thấy được, chẳng biên chép được.
Nầy Tu Bồ Đề! Phải biết tất cả
pháp như hư không. Đây gọi là
đà la ni môn chính là nghĩa của chữ A.
Nếu
đại Bồ Tát, nơi những
tự môn ấn, a
tự ấn nầy, hoặc nghe, hoặc thọ, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc trì, hoặc giảng nói cho người khác, thời biết rằng sẽ được hai mươi
công đức.
Những gì là hai mươi? Được nhớ biết dai. Được tâm
kiên cố. Được chỉ thú của kinh. Được
trí huệ. Được
lạc thuyết vô ngại. Dễ được những môn
đà la ni khác. Được
tâm không nghi hối. Được nghe lành chẳng mừng, nghe dữ chẳng giận. Được chẳng cao, chẳng hạ, an
trụ tâm không tăng, không giảm. Được
thiện xảo, biết
lời nói của
chúng sanh. Được khéo
phân biệt ngũ ấm,
thập nhị nhập,
thập bát giới,
thập nhị nhơn duyên,
tứ duyên và
tứ đế. Được khéo
phân biệt những
căn tánh lợi độn của các
chúng sanh. Được khéo biết
tâm niệm của kẻ khác. Được khéo
phân biệt ngày, tháng, năm, mùa. Được khéo
phân biệt thiên nhĩ thông, Được khéo
phân biệt túc mạng thông. Được khéo
phân biệt sanh tử thông. Được có thể khéo
tuyên thuyết thị xứ, phi xứ. Được khéo
biết thân oai nghi qua, lại, ngồi, đứng.
Những
đà la ni môn,
tự môn, a
tự môn nầy gọi là đai
Bồ Tát Đại thừa, vì
bất khả đắc vậy”.
PHẨM PHÁT THÚ
THỨ HAI MƯỜI
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: "Ông hỏi thế nào là
đại Bồ Tát Đại thừa phát thú?
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát lúc thật hành
sáu ba la mật, từ một địa đến một địa, đây gọi là
đại Bồ Tát Đại thừa phát thú”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
đại Bồ Tát từ một địa đến một địa?"
Đức Phật nói: "Đại
Bồ Tát biết tất cả
pháp không có tướng lai khứ, cũng không có pháp hoặc lai khứ, hoặc đến, chẳng đến, vì các
pháp tướng bất diệt vậy.
Đại Bồ Tát đối với các địa chẳng niệm, chẳng
tư duy mà
tu tập trị địa nghiệp, cũng chẳng thấy địa.
Những gì là trị địa nghiệp?
Lúc an trụ bực
sơ địa,
đại Bồ Tát thật hành mười việc.
Một là
thâm tâm kiên cố, vì dụng
vô sở đắc vậy.
Hai là đối với tất cả
chúng sanh tâm bình đẳng, vì
chúng sanh bất khả đắc vậy.
Ba là
bố thí cho người, vì
thọ giả bất khả đắc vậy.
Bốn là thân cận
thiện tri thức, cũng chẳng tự cao vậy.
Năm là
cầu pháp, vì tất cả pháp
bất khả đắc vậy.
Sáu là thường
xuất gia, vì gia
bất khả đắc vậy.
Bảy là mến thích
Phật thân, vì
tướng hảo bất klhả đắc vậy.
Tám là diển nói
giáo pháp xuất thế vì các pháp chẳng
phân biệt bất khả đắc vậy.
Chính là phá
kiêu mạn, vì pháp sanh huệ
bất khả đắc vậy.
Mười là thiệt ngữ, vì những
ngữ ngôn bất khả đắc vậy.
Trên đây là mười sự trị địa nghiệp của
đại Bồ Tát an trụ trong bực
sơ địa tu tập.
Nầy Tu Bồ Đề!
Bồ Tát an trụ trong bực nhị địa
thường niệm tám pháp.
Những gì là tám?
Một là
giới thanh tịnh. Hai là
biết ơn và
báo ơn. Ba an trụ
nhẫn nhục lực. Bốn là thọ
hoan hỉ. Năm là chẳng rời bỏ tất cả
chúng sanh. Sáu là nhập
đại bi tâm. Bảy là tin kính và thưa hỏi nơi thầy. Tám là
cần cầu các môn
ba la mật.
Đây là
đại Bồ Tát an trụ trong bực nhị địa đầy đủ
tám pháp.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát an trụ trong bực
tam địa thật hành năm pháp.
Những gì là năm?
Một là học vấn nhiều không nhàm đủ. Hai là
thanh tịnh pháp thí cũng chẳng tự cao. Ba là
thanh tịnh Phật độ cũng chẳng tự cao. Bốn là nhận chịu
vô lượng sự
cần khổ thế gian mà vẫn chẳng nhàm. Năm là an trụ nơi
tàm quý.
Đây là năm pháp mà
đại Bồ Tát an trụ trong bực
tam địa phải đầy đủ.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát an trụ trong bực tứ địa phải thọ hành chẳng bỏ mười pháp.
Những gì là mười?
Một là chẳng bỏ chỗ ở
A lan nhã. Hai là
thiểu dục. Ba là
tri túc. Bốn là chẳng bỏ
công đức đầu đà. Năm là chẳng bỏ giới. Sáu là tránh ghét các
dục nhiễm. Bảy là nhàm
tâm thế gian,
thuận tâm Niết Bàn. Tám là xả bỏ tất cả
sở hữu. Chín là tâm chẳng
trầm một. Mười là chẳng tiếc tất cả vật.
Đây là mười pháp mà
đại Bồ Tát an trụ trong bực tứ địa chẳng bỏ .
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát an trụ trong bực ngũ địa xa rời mười hai pháp.
Những gì là mười hai?
Một là
xa lìa sự thân cận hành
bạch y. Hai là
xa lìa hàng
Tỳ Kheo Ni. Ba là
xa lìa sự
tham tiếc nhà người khác. Bốn là
xa lìa sự đàm thuyết
vô ích. Năm là
xa lìa sự giận hờn. Sáu là
xa lìa sự tự tôn đại. Bảy là
xa lìa sự khinh miệt người khác. Tám là
xa lìa mười
nghiệp đạo bất thiện. Chín là
xa lìa đại mạn. Mười là
xa lìa tự dụng. Mười một là
xa lìa điên đảo. Mười hai là
xa lìa tham sân si.
Đây là mười hai điều mà
đại Bồ Tát an trụ trong bực ngũ địa
xa lìa.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát an trụ trong bực lục địa nên đầy đủ sáu pháp, chính là
sáu ba la mật.
Bực lục địa lại có sáu pháp chẳng nên làm. Những gì là sáu? Một là chẳng
móng tâm Thanh Văn,
Bích Chi Phật. Hai là chẳng có ý lo ngại khi
bố thí. Ba là bị đòi hỏi
cầu xin, không có lòng
trốn tránh. Bốn là những vật
sở hữu đều đem
bố thí. Năm là sau khi
bố thí xong, không có lòng
hối tiếc. Sáu là chẳng
nghi ngờ pháp
thâm diệu.
Đây là sáu pháp phải đầy đủ và sáu pháp phải
xa lìa của
đại Bồ Tát an trụ trong bực lục địa.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát an trụ trong bực
thất địa phải
xa lìa hai mươi pháp chẳng nên chẳng phải.
Những gì là hai mươi?
Một là chẳng
chấp ngã. Hai là chẳng chấp
chúng sanh. Ba là chẳng
chấp thọ giả. Bốn là chẳng chấp
chúng sanh số nhẫn đến
tri giả,
kiến giả. Năm là chẳng chấp
đoạn kiến. Sáu là chẳng chấp
thường kiến. Bảy là chẳng nên khởi tướng dạng. Tám là chẳng nên khởi
nhơn duyên kiến. Chính là chẳng chấp
danh sắc. Mười là chẳng chấp
ngũ ấm. Mười một là chẳng chấp
thập nhị nhập. Mười hai là chẳng chấp
thập bát giới. Mười ba là chẳng chấp
tam giới. Mười bốn là chẳng
khởi tâm chấp trước. Mười lăm là chẳng khởi chỗ mong cầu. Mười sáu là chẳng khởi chỗ
y chỉ. Mười bảy là chẳng
chấp trước nơi sự thấy là phải nương nơi Phật. Mười tám là chẳng
chấp trước nơi sự thấy là phải nương nơi Pháp. Mười chín là chẳng
chấp trước nơi sự thấy là phải nương nơi Tăng. Hai mươi là chẳng
chấp trước nơi sự thấy là phải nương nơi giới. Đây là hai mươi điều chẳng nên
chấp trước.
Lại có hai mươi pháp mà bực
thánh địa phải đầy đủ.
Những gì là hai mươi?
Một là đầy đủ không. Hai là chứng
vô tướng. Ba là biết
vô tác. Bốn là ba phần
thanh tịnh. Năm là ở trong
chúng sanh đầy đủ trí
từ bi. Sáu là chẳng niệm tưởng tất cả
chúng sanh. Bảy là
bình đẳng xem tất cả pháp, nơi trong đây cũng chẳng
chấp trước. Tám là biết
thiệt tướng của các pháp, cũng chẳng niệm tưởng sự nầy. Chín là
vô sanh pháp nhẫn. Mười là
vô sanh trí. Mười một là
tuyên thuyết các pháp nhứt tướng. Mười hai là phá tướng
phân biệt. Mười ba là chuyển ức tưởng.? Mười bốn là chuyển kiến. Mười lăm là chuyển
phiền não. Mười sáu là đồng huệ đồng đẳng. Mười bảy là
điều ý. Mười tám là tâm
tịch diệt. Mười chín là
vô ngại trí. Hai mươi là chẳng
nhiễm ái.
Trên đây là hai mươi điều chẳng nên
chấp trước và hai mươi điều phải đầy đủ của bực
thất địa đại Bồ Tát.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát an trụ trong
bát địa phải đầy đủ năm pháp.
Những gì là năm?
Một là thuận nhập vào tâm
chúng sanh. Hai là du hí các
thần thông. Ba là thấy các
Phật quốc. Bốn là tự
trang nghiêm quốc độ mình như
Phật quốc đã thấy. Năm là
quán thân Phật như thiệt, tự
trang nghiêm Phật thân.
Lại phải đầy đủ năm điều. Một là biết các
căn tánh thượng hạ . Hai là
thanh tịnh Phật độ. Ba là nhập
như huyễn tam muội. Bốn là thường nhập
tam muội. Năm là
tùy theo thiện căn mà
chúng sanh đáng được để thọ thân.
Trên đây là năm pháp và năm điều mà
đại Bồ Tát bát địa đầy đủ.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát an trụ trong
cửu địa phải đầy đủ mười hai pháp. Một là
nhiếp thọ vô biến
thế giới mà phần mình
hóa độ. Hai là
Bồ Tát được như chỗ nguyện cầu. Ba là biết tiếng nói của các
Thiên long,
Càn thát bà để
thuyết pháp cho họ. Bốn là
thành tựu thai sanh. Năm là
thành tựu nhà? Sáu là
thành tựu chỗ sanh. Bảy là
thành tựu họ. Tám là
thành tựu quyến thuộc. Chín là
thành tựu xuất sanh. Mười là
thành tựu xuất gia. Mười một là
thành tựu bồ đề thọ trang nghiêm. Mười hai là
thành tựu tất cả những
công đức lành.
Trên đây là mười hai pháp mà bậc
cửu địa đại Bồ Tát phải đầy đủ.
Nầy Tu Bồ Đề! Phải biết bậc
thập địa đại Bồ Tát thời như đức Phật”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
thâm tâm nhẫn đến thế nào là thiệt ngữ?"
Đức Phật nói: "Nếu
đại Bồ Tát đúng với tâm
nhứt thiết trí, tích tập tất cả
thiện căn, đây gọi là
thâm tâm trị địa nghiệp. Nếu
sanh khởi tứ vô lượng tâm là từ , bi, hỉ và xả, đây gọi là
tâm bình đẳng ở trong tất cả
chúng sanh. Nếu
bố thí cho tất cả
chúng sanh mà không
phân biệt, đây gọi là tu
bố thí. Nếu thân cận
học hỏi,
cung kính cúng dường các bực có thể
giáo hóa người an trụ trong
nhứt thiết trí, đây gọi là thân cận
thiện tri thức. Nếu
cầu pháp đúng với tâm
nhứt thiết trí, không sa vào hành
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, đây gọi là
cầu pháp. Nếu
đời đời chẳng rời tâm
xuất gia, luôn
xuất gia trong
Phật pháp không ai ngăn trở được, đây gọi là thường
xuất gia trị địa nghiệp. Nếu thấy
thân tướng của Phật, nhẫn đến khi thành
Vô thượng Bồ đề trọn chẳng rời
niệm Phật, đây gọi là
ái lạc Phật thân. Hoặc
Phật hiện tại hoặc Phật đã
nhập diệt, nếu vì
chúng sanh mà
thuyết pháp sơ trung hậu đều thiện, diệu nghĩa hảo ngữ trong sạnh
tinh thuần, hoàn cụ cả
mười hai bộ kinh từ
tu đa la đến
luận nghị, đây gọi là diễn nói
giáo pháp xuất thế trị địa nghiệp. Vì phá
kiêu mạn nên trọn chẳng hạ sanh
nhà hạ tiện, đây gọi là pháp
kiêu mạn trị địa nghiệp. Đúng như lời mà thật hành, đây gọi là thiệt ngữ trị địa nghiệp.
Trên đây là mười sự trị địa nghiệp của
đại Bồ Tát an trụ trong bực
sơ địa tu hành.
Thế nào là
giới thanh tịnh nhẫn đến
cần cầu các
ba la mật?
Nầy Tu Bồ Đề! nếu
đại Bồ Tát chẳng có
tâm niệm xu hướng Thanh Văn,
Bích Chi Phật và những sự
phá giới chướng ngại Phật đạo, đây gọi là
giới thanh tịnh. Nếu thật hành
Bồ Tát hạnh,
cho đến một chút ơn nhỏ còn chẳng quên huống là nhiều, đây gọi là
biết ơn báo ơn. Nếu đối với tất cả
chúng sanh không giận hờn, không làm
não hại, đây gọi là an trụ sức
nhẫn nhục. Lấy sự
thành tựu chúng sanh làm niềm vui, đây gọi là thọ
hoan hỉ. Nghĩ nhớ muốn cứu tất cả
chúng sanh, đây gọi là chẳng bỏ tất cả
chúng sanh. Nếu nghĩ
như vầy: Tôi vì mỗi mỗi
chúng sanh mà chịu
cần khổ trong
địa ngục đến
hằng sa kiếp
chừng nào chúng sanh ấy
thành Phật nhập Niết Bàn, đây là vì tất cả
chúng sanh mười phương mà nhẫn
thọ sự khổ nhọc nên gọi là nhập
đại bi tâm. Nếu đối với bực
sư trưởng xem như Phật, đây gọi là
tin tưởng cung kính học hỏi nơi thầy. Nếu
nhứt tâm siêng cầu các môn
ba la mật mà không cầu sự khác, đây gọi là
cần cầu các
ba la mật.
Trên đây gọi là
tám pháp đầy đủ của
đại Bồ Tát an trụ trong bực nhị địa.
Thế nào là học vấn nhiều không nhàm đủ nhẫn đến an trụ nơi tàm quý?
Nầy Tu Bồ Đề! Hoặc trong
thế giới nầy hay ở
thế giới mười phương có bao nhiêu
chánh pháp của chư Phật
tuyên thuyết thời đều muốn được nghe nhớ
thọ trì cả, đây gọi là học vấn nhiều không nhàm đủ. Có bao nhiêu
pháp thí vẫn không mong cầu,
cho đến còn chẳng cầu
Vô thượng Bồ đề huống là những sự khác, đây gọi là
pháp thí chẳng
cầu danh lợi, cũng gọi là
thanh tịnh pháp thí. Đem tất cả
thiện căn hồi hướng thanh tịnh Phật độ, đây gọi là
tịnh Phật quốc độ. Vì đầy đủ
thiện căn nên có thể
thành tựu chúng sanh, cũng
trang nghiêm Phật độ cho đến đầy đủ
nhứt thiết trí trọn không mỏi nhàm, đây gọi là chịu lấy
vô lượng sự
cần khổ mà chẳng nhàm.
Hổ thẹn nơi tâm
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, đây gọi là an trụ nơi
tàm quý.
Trên đây là
đại Bồ Tát an trụ bực
tam địa đầy đủ năm pháp.
Thế nào là chẳng bỏ chỗ ở
A lan nhã nhẫn đến chẳng tiếc tất cả vật?
Nầy Tu Bồ Đề!
Bồ Tát có thể hơn bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, đây gọi là chẳng bỏ chỗ ở
A lan nhã. Còn không có niệm mong muốn
Vô thượng Bồ đề huống là những sự mong muốn khác, đây gọi là
thiểu dục, được nhứt thiết
chủng trí, đây gọi là
tri túc.
Quán sát các
thâm pháp nhẫn, đây gọi là chẳng bỏ
đầu đà công đức. Chẳng chấp lấy
giới tướng, đây gọi là chẳng bỏ giới. Vì
dục tâm chẳng phát sanh, đây gọi là trách ghét các
dục nhiễm. Vì biết tất cả pháp chẳng tạo tác, đây gọi là nhàm
tâm thế gian mà
thuận tâm Niết Bàn. Chẳng tiếc tất cả
nội pháp,
ngoại pháp, đây gọi là xả bỏ tất cả
sở hữu. Tâm chẳng
sanh khởi nơi hai thứ thứ thức xứ, đây gọi là tâm chẳng
trầm một. Đối với tất cả vật chẳng
chấp trước, chẳng nghĩ nhớ, đây gọi là chẳng tiếc tất cả vật.
Trên đây là mười pháp chẳng bỏ của
đại Bồ Tát an trụ trong bực tứ địa.
Thế nào là
xa lìa gần gũi hàng
bạch y nhẫn đến
xa lìa tham, sân, si?
Nầy Tu Bồ Đề!
Bồ Tát sanh nơi đâu cũng đều
xuất gia, từ một
Phật quốc đến một
Phật quốc thường
xuất gia cạo đầu mặc
cà sa, đây gọi là
xa lìa gần gũi
bạch y. Chẳng
ở chung với
Tỳ Kheo Ni, nhẫn đến chẳng
nghĩ tưởng dầu là khoảng
đàn chỉ , đây gọi là
xa lìa Tỳ Kheo Ni.
Bồ Tát suy nghĩ như vầy: Tôi phải
an lạc chúng sanh, nay họ giúp tôi
an lạc thời đâu nên sanh lòng lẫn tiếc, đây gọi là
xa lìa sự lẫn tiếc nhà người khác. Nếu có chỗ nào
luận đàm có thể phát sanh tâm
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, thời tôi phải
xa lìa, đây gọi là
xa lìa chỗ
luận đàm vô ích, Chẳng để cho yâm giận hờn, tâm
não hại, tâm đấu tranh
xen vào, đây gọi là
xa lìa tâm sân. Chẳng thấy có
nội pháp, đây gọi là
xa lìa sự tôn đại. Chẳng thấy có ngoại phải, đây gọi là
xa lìa sự khi dễ người. Mười
nghiệp đạo bất thiện còn là
chướng ngại bát thánh đạo huống là
Vô thượng Bồ đề, đây gọi là
xa lìa mười
nghiệp đạo bất thiện. Chẳng thấy có pháp gì có thể làm đại mạn, đây gọi là
xa lìa đại mạn. Chẳng thấy có pháp gì có thể tự dùng được, đây gọi là
xa lìa tự dụng. Chỗ
điên đảo bất khả đắc, đây gọi là
xa lìa điên đảo. Chẳng thấy được chỗ tham, sân, si, đây gọi là
xa lìa tham, sân, si.
Trên đây là
đại Bồ Tát an trụ trong bực ngũ địa
xa lìa mười hai pháp.
Thế nào là đầy đủ sáu pháp? An trụ trong
sáu ba la mật có thể vượt đến bờ kia, đây gọi là đầy đủ sáu pháp.
Thế nào là chẳng
móng tâm Thanh Văn,
Bích Chi Phật nhẫn đến chẳng
nghi ngờ pháp thâm diệu?
Nầy Tu Bồ Đề!
Bồ Tát nghĩ rằng tâm
Thanh Văn,
Bích Chi Phật chẳng phải đạo
Vô thượng Bồ đề, đây gọi là chẳng
móng tâm Thanh Văn,
Bích Chi Phật.
Bồ Tát nghĩ rằng
bố thí có lòng lo ngại thời là chẳng phải đạo
Vô thượng Bồ đề, đây gọi là
bố thí chẳng sanh lòng lo sợ.
Bồ Tát nghĩ rằng thấy người
cầu xin mà có tâm
trốn tránh chẳng phải đạo
Vô thượng Bồ đề, đây gọi là chẳng có lòng
trốn tránh khi bị
cầu xin. Lúc
bố thí chẳng nói cái nầy cho được, cái nầy chẳng cho được, đây gọi là những vật
sở hữu đều đem
bố thí. Vì sức
từ bi nên sau khi
bố thí chẳng
ăn năn. Vì sức tín
công đức nên chẳng
nghi ngờ pháp
thâm diệu.
Trên đây là sáu pháp phải đầu đủ và sáu pháp phải
xa lìa của
đại Bồ Tát an trụ bậc lục địa.
Thế nào là chẳng
chấp ngã nhẫn đến chẳng chấp nơi sụ thấy là phải nương nơi giới?
Nầy Tu Bồ Đề! Vì
rốt ráo vô ngã, vì
chúng sanh đến
tri giả,
kiến giả đều
rốt ráo bất khả đắc nên chẳng
chấp trước những pháp ấy. Không có pháp
đoạn diệt vì các pháp
rốt ráo bất sanh nên chẳng chấp
đoạn kiến. Nếu pháp đã chẳng sanh thời cũng chẳng thường nên chẳng chấp
thường kiến. Vì không các
phiền não nên chẳng chấp lấy tướng. Vì
chư kiến đều chẳng thể thấy được nên chẳng khởi
nhơn duyên kiến. Vì
danh sắc,
ngũ ấm,
thập nhị nhập,
thập bát giới,
tam giới,
tâm nguyện và
y chỉ đều là
tánh không nên chẳng
chấp trước. Vì khởi sự thấy là phải nương nơi
Phật thời chẳng thấy Phật nên chẳng khởi sự thấy
y chỉ nơi Phật. Vì Pháp chẳng thể thấy nên chẳng khởi sự thấy
y chỉ Pháp. Vì Tăng tướng
vô vi chẳng thể nương nên chẳng khởi sự thấy
y chỉ nơi Tăng. Vì nơi tội cùng vô tội đều không dính mắc nên chẳng khởi sự thấy
y chỉ nơi giới.
Trên đây là hai mươi pháp chẳng nên
chấp trước của
đại Bồ Tát an trụ trong bực
thất địa.
Thế nào là đầy đủ
không nhẫn đến chẳng nhiễm ái?
Nầy Tu Bồ Đề! Đầy đủ
tự tướng không của các pháp, đây là đầy đủ không. Chẳng tưởng nhớ các tướng, đây là chúng
vô tướng. Chẳng tạo tác trong
tam giới, đây là biết là
vô tác. Đầy đủ mười
nghiệp đạo lành, đây là ba phần
thanh tịnh. Vì được
đại bi nên đầy đủ trí
từ bi. Vì đầy đủ
thanh thanh tịnh Phật độ nên chẳng niệm tưởng tất cả
chúng sanh. Vì chẳng tổn ích đối với tất cả pháp nên
bình đẳng quán sát tất cả pháp. Vì các
pháp thiệt tướng là
vô tri nên
Bồ Tát biết
thiệt tướng của các pháp. Vì các pháp
bất sanh,
bất diệt, bất tác nên
Bồ Tát được
vô sanh pháp nhẫn. Vì biết
danh sắc bất sanh nên được
vô sanh trí. Vì tâm chẳng
hiện hành hai tướng nên tuyên nói các pháp nhứt tướng. Vì tất cả pháp chẳng
phân biệt nên phá tướng
phân biệt. Vì
vô lượng tưởng niệm lớn nhỏ chuyển nên
Bồ Tát chuyển nhớ tưởng. Vì
kiến chấp Thanh Văn,
Bích Chi Phật chuyển nên chuyển kiến. Vì dứt trừ những
phiền não nên chuyển
phiền não. Vì được nhứt thiết
chủng trí nên
định huệ đồng đẳng. Vì
bất động đối với
tam giới nên ý được điều. Vì
chế ngự sáu căn nên tâm
tịch diệt. Vì được
Phật nhãn nên trí
vô ngại. Vì xả bỏ
sáu trần nên chẳng
nhiễm ái.
Trên đây là hai mươi pháp phải đầy đủ của
đại Bồ Tát an trụ trong bậc
thất địa Thế nào là
đại Bồ Tát thuận
nhập tâm chúng sanh nhẫn đến tự
trang nghiêm Phật thân?
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát dùng một tâm biết rõ tâm và tất sở của tất cả
chúng sanh, đây là thuận
nhập tâm chúng sanh. Dùng
thần thông từ một
Phật quốc đến một
Phật quốc, cũng không có tưởng
niệm Phật quốc, đây là du hí các
thần thông. Từ ở cõi mình mà thấy
vô lượng Phật quốc, cũng không có tưởng
Phật quốc, đây là xem thấy các
Phật quốc. Trụ ngôi
Chuyển Luân Thánh Vương đi khắp
Đại Thiên thế giới để tự
trang nghiêm nước của mình, đây là tự
trang nghiêm nước mình như
Phật quốc đã được thấy. Vì như thiệt
quán pháp thân nên là như thiệt
quán Phật thân.
Trên đây là
đại Bồ Tát an trụ trong bực
bát thánh địa đầy đủ năm pháp.
Thế nào là biết các
căn tánh thượng hạ nhẫn đến thế nào là
tùy theo thiện căn để thọ thân?
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát an trụ trong Phật
thập lực biết những
căn tánh thượng hạ của tất cả
chúng sanh. Vì
tịnh chúng sanh nên
Phật độ tịnh. Trụ trong
như huyễn tam muội thời có thể
thành tựu tất cả sự, cũng chẳng phát sanh
tâm tướng. Vì được
báo sanh tam muội nên thường nhập
tam muội. Vì
thành tựu chúng sanh nên
tùy theo thiện căn mà
chúng sanh đáng được thọ thân hầu
giáo hóa họ.
Trên đây là năm điều mà
đại Bồ Tát trụ bực
bát địa được đầy đủ.
Thế nào là
đại Bồ Tát nhiếp thọ vô biên thế giới mà phần mình
hóa độ nhẫn đến
công đức thành tựu đầy đủ?
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát hóa độ chúng sanh trong
vô biên thế giới đúng như chỗ đáng được độ của
Phật pháp, đây là
nhiếp thọ vô biên thế giới mà phần mình
hóa độ. Được đầy đủ
sáu ba la mật, đây la được như chỗ nguyện cầu. Do từ
vô ngại biện lực nên biết tiếng nói của
chư Thiên Long,
Càn thát bà. Vì
đời đời được
hóa sanh nên
thai sanh được
thành tựu. Vì thường sanh trong nhà
vọng tộc nên nhà được
thành tựu. Vì sanh nơi dòng
Sát Đế Lợi hoặc
Bà La Môn nên chỗ sanh
thành tựu. Như họ của
Bồ Tát quá khứ sanh mà sanh trong đó nên họ được
thành tựu. Vì thuần dùng hàng
đại Bồ Tát làm
quyến thuộc nên
quyến thuộc được
thành tựu. Vì lúc sanh ra
quang minh của
Bồ Tát chiếu khắp
vô lượng vô biên thế giới cũng chẳng chấp lấy tướng
quang minh nên xuất sanh được
thành tựu. Vì khi
xuất gia có
vô lượng chư Thiên theo hầu hạ và
quyết định đưa
chúng sanh đến quả
Tam thừa nên
xuất gia thành tựu.
Cây bồ đề dùng
hoàng kim làm gốc,
bảy báu làm thân, nhánh, lá chiếu sáng khắp
vô lượng vô biên thế giới mười phương, đây là
trang nghiêm Phật thọ thành tựu.
Chúng sanh được
thanh tịnh,
Phật độ cũng
thanh tịnh, đây là tất cả
công đức lành
thành tựu đầy đủ.
Trên đây là mười hai pháp của bực
cửu địa đại Bồ Tát thành tựu đầy đủ.
Thế nào là
đại Bồ Tát an trụ trong bực
thập địa phải biết như Phật?
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát đầy đủ
sáu ba la mật,
tứ niệm xứ nhẫn đến đầy đủ mười
tám pháp bất cộng và nhứt thiết
chủng trí dứt tất cả
phiền não và
tập khí, thời gọi là
đại Bồ Tát an trụ trong bực
thập địa phải biết là chư Phật.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát an trụ trong bực
thập địa nầy
dùng sức phương tiện để thật hành
sáu ba la mật,
tứ niệm xứ nhẫn đến thật hành mười
tám pháp bất cộng,
vượt qua bực
càn huệ địa, bực
tánh địa, bực bát nhơn địa, bực
kiến địa, bực
bạc địa, bực
ly dục địa, bực
dĩ tác địa, bực
Bích Chi Phật địa, bực
Bồ Tát địa.
vượt qua chín bực trên mà an trụ nơi
Phật địa, đây là
Bồ Tát thập địa.
Đây gọi là
đại Bồ Tát Đại thừa phát thú”.
PHẨM XUẤT ĐÁO
THỨ HAI MƯƠI MỐT
"Nầy Tu Bồ Đề! Ông hỏi
Đại thừa nầy từ chỗ nào phát xuất và đến an trụ chỗ nào?
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại thừa nầy phát xuất từ trong
tam giới đến an trụ trong
nhứt thiết trí, vì là pháp
bất nhị vậy.
Tại sao vậy?
Đại thừa và
nhứt thiết trí là hai pháp chẳng hiệp, chẳng tan, chẳng sắc, không hình, không đối là nhứt tướng, chính là
vô tướng.
Nếu có người muốn cho thiệt tế phát xuất thời là người muốn cho pháp
vô tướng phát xuất.
Nếu có người muốn cho
pháp như,
pháp tánh, bất tư nghì tánh phát xuất thời là người muốn cho pháp
vô tướng phát xuất.
Nếu có người muốn cho
sắc không, thọ, tưởng, hành, thức không phát xuất thời là người muốn cho pháp
vô tướng phát xuất.
Tại sao vậy?
Nầy Tu Bồ Đề!
Tướng không của sắc, thọ, tưởng, hành, thức chẳng ra từ
tam giới cũng chẳng an trụ
nhứt thiết trí, vì sắc
sắc tướng rỗng không, thọ, tưởng, hành, thức thức tướng rỗng không vậy.
Nếu có người muốn cho nhãn không phát xuất thời là người muốn cho pháp
vô tướng phát xuất.
Nếu có người muốn cho nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý không phát xuất thời là người muốn cho pháp
vô tướng phát xuất.
Nếu có người muốn cho
sắc không, thanh
không nhẫn đến ý xúc,
nhơn duyên, sanh thọ không phát xuất thời là người muốn cho pháp
vô tướng phát xuất.
Tại sao vậy?
Nầy Tu Bồ Đề! Nhãn
không nhẫn đến ý xúc,
nhơn duyên, sanh thọ không chẳng ra từ
tam giới cũng chẳng an trụ
nhứt thiết trí, vì nhãn nhãn tướng rỗng
không nhẫn đến ý xúc,
nhơn duyên, sanh thọ, ý xúc,
nhơn duyên, sanh thọ tướng rỗng không vậy.
Nếu có người muốn cho mộng, ảo, diệm, hưởng, ảnh và hóa phát xuất thời là người muốn cho pháp
vô tướng phát xuất.
Tại sao vậy?
Nầy Tu Bồ Đề!
Mộng tướng nhẫn đến
hóa tướng chẳng ra từ
tam giới cũng chẳng an trụ trong
nhứt thiết trí, vì mộng
mộng tướng rỗng
không nhẫn đến hóa
hóa tướng rỗng không vậy
Nếu có người muốn cho
Đàn na ba la mật phát xuất thời là người muốn cho pháp
vô tướng phát xuất.
Nếu có người muốn cho
Thi la ba la mật,
Sằn đề ba la mật, Tỳ lê gia
ba la mật,
Thiền na ba la mật,
Bát nhã ba la mật phát xuất thời là người muốn cho pháp
vô tướng phát xuất.
Tại sao vậy?
Nầy Tu Bồ Đề!
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật chẳng ra từ
tam giới cũng chẳng an trụ trong
nhứt thiết trí, vì
Đàn na Đàn na tướng rỗng
không nhẫn đến
Bát nhã Bát nhã tướng rỗng không vậy.
Nếu có ngươi muốn
nội không nhẫn đến
vô pháp hữu pháp không phát xuất thời là người muốn cho pháp
vô tướng phát xuất.
Tại sao vậy?
Nầy Tu Bồ Đề!
Nội không tướng đến
vô pháp hữu pháp không tướng chẳng ra từ
tam giới cũng chẳng an trụ trong
nhứt thiết trí, vì
nội không nội không tánh rỗng
không nhẫn đến
vô pháp hữu pháp không vô pháp hữu pháp không tánhrỗng không vậy.
Nếu có người muốn cho
tứ niệm xứ đến
thập bát bất cộng pháp phát xuất thời là người muốn cho pháp vô tướnng phát xuất.
Tại sao vậy?
Nầy Tu Bồ Đề!
Tứ niệm xứ tánh đến
thập bát bất cộng pháp tánh chẳng ra từ
tam giới cũng chẳng an trụ trong
nhứt thiết trí, vì
tứ niệm xứ tứ niệm xứ tánh rỗng
không nhẫn đến
bất cộng pháp bất cộng pháp tánh rỗng không vậy.
Nếu có người muốn cho
A La hán phát xuất thời là người muốn cho pháp
vô tướng phát xuất.
Nếu có người muốn cho
Bích Chi Phật phát xuất thời là muốn cho pháp
vô tướng phát xuất.
Nếu có người muốn cho
Như Lai,
Ứng Cúng,
Chánh Đẳng Giác phát xuất thời là người muốn cho pháp
vô tướng phát xuất.
Tại sao vậy?
Nầy Tu Bồ Đề!
A La Hán tánh,
Bích Chi Phật tánh và
Phật tánh chẳng ra từ
tam giới cũng chẳng an trụ trong
nhứt thiết trí, vì
A La Hán A La Hán tánh rỗng không,
Bích Chi Phật Bích Chi Phật tánh rỗng không,
Phật Phật tánh rỗng không vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! Do
nhơn duyên trên đây nên
Đại thừa nầy phát xuất từ trong
tam giới đến an trụ trong
nhứt thiết trí, vì
bất động vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! Ông hỏi
Đại thừa nầy đến an trụ chỗ nào?
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại thừa nầy không chỗ an trụ, vì tất cả
pháp không có tướng an trụ vậy.
Đại thừa nầy nếu có an trụ thời là chẳng phải an trụ.
Nầy Tu Bồ Đề!
Ví như pháp tánh bất sanh,
bất diệt, bất cấu,
bất tịnh, vô khởi,
vô tác, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ vì
pháp tánh pháp tánh tướng rỗng không vậy, nhẫn đến vì
vô tác vô tác tánh rỗng không vậy.
Như pháp tánh, các pháp khác cũng như vậy, chẳng phải trụ, chẳng phả chẳng trụ.
Đại thừa nầy cũng như vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ.
Nầy Tu Bồ Đề! Do
nhơn duyên như thế nên
Đại thừa nầy không chỗ an trụ, vì là pháp bất trụ, là pháp
bất cộng vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! Ông hỏi ai ngồi
Đại thừa nầy để phát xuất?
Nầy Tu Bồ Đề! Không có ai ngồi
Đại thừa nầy để phát xuất. Tại sao vậy? Vì
Đại thừa nầy cùng người phát xuất và
pháp bị sử dụng cùng
thời gian phát xuất đều
vô sở hữu cả.
Nếu tất cả pháp đều
vô sở hữu thời dùng pháp gì để phát xuất?
Tại sao vậy?
Ngã
bất khả đắc nhẫn đến
tri giả,
kiến giả bất khả đắc, vì
rốt ráo thanh tịnh vậy.
Bát khả tư nghì tánh
bất khả đắc, vì
rốt ráo thanh tịnh vậy.
Ngũ ấm,
thập nhị nhập,
thập bát giới bất khả đắc, vì
rốt ráo thanh tịnh vậy.
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật bất khả đắc, vì
rốt ráo thanh tịnh vậy.
Nội không đến
vô pháp hữu pháp không bất khả đắc, vì
rốt ráo thanh tịnh vậy.
Tứ niệm xứ đến mười
tám pháp bất cộng bất khả đắc, vì
rốt ráo thanh tịnh vậy.
Tu Đà Hoàn đến
Bồ Tát, chư Phật bật
khả đắc, vì
rốt ráo thanh tịnh vậy.
Tu Đà Hoàn quả đến nhứt thiết
chủng trí bất khả đắc, vì
rốt ráo thanh tịnh vậy.
Bất sanh,
bất diệt, bất cấu,
bất tịnh, vô khởi,
vô tác bất khả đắc, vì
rốt ráo thanh tịnh vậy.
Quá khứ thế,
vị lai thế,
hiện tại thế, sanh, trụ, diệt
bất khả đắc, vì
rốt ráo thanh tịnh vậy.
Tăng, giảm
bất khả đắc, vì
rốt ráo thanh tịnh vậy.
Vì những pháp gì
bất khả đắc nên là bất khả đắc?
Nầy Tu Bồ Đề! Vì
pháp tánh bất khả đắc nên là
bất khả đắc.
Vì như thiệt tế,
bất khả tư nghì tánh,
pháp tướng,
pháp vị bất khả đắc nên là
bất khả đắc.
Vì
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật bất khả đắc nên là
bất khả đắc.
Vì
nội không đến
vô pháp hữu pháp không bất khả đắc nên là
bất khả đắc.
Vì
tứ niệm xứ đến
bất cộng pháp bất khả đắc nên là
bất khả đắc.
Vì
Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm,
A La Hán,
Bích Chi Phật, chư Phật
bất khả đắc nên là
bất khả đắc.
Vì
Tu Đà Hoàn quả,
Tư Đà Hàm quả,
A Na Hàm quả,
A La Hán quả,
Bích Chi Phật đạo,
Phật đạo bất khả đắc nên là
bất khả đắc.
Vì
bất sanh,
bất diệt đến vô khởi,
vô tác bất khả đắc nên là
bất khả đắc.
Lại vì
sơ địa đến
thập địa bất khả đắc nên là
bất khả đắc, vì
rốt ráo vậy.
Thế nào là
sơ địa đến thập địa? Chính là
càn huệ địa,
tánh địa, bát nhơn địa,
kiến địa,
bạc địa,
ly dục địa,
dĩ tác địa,
Bích Chi Phật địa,
Bồ Tát địa và
Phật địa.
Trong
nội không đến
vô pháp hữu pháp không chẳng có thể được
sơ địa đến
thập địa.
Tại sao vậy? Vì
sơ địa chẳng phải được chẳng phải chẳng được, nhẫn đến
thập địa chẳng phải được chẳng phải chẳng được, vì
rốt ráo thanh tịnh vậy.
Trong
nội không đến
vô pháp hữu pháp không,
thành tựu chúng sanh bất khả đắc,
tịnh Phật quốc độ bất khả đắc, vì
rốt ráo thanh tịnh vậy.
Trong
nội không đến
vô pháp hữu pháp không,
ngũ nhãn bất khả đắc, vì
rốt ráo thanh tịnh vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! vì thế nên
đại Bồ Tát do nơi tất cả pháp
bất khả đắc mà ngồi
Đại thừa nầy từ
tam giới phát xuất an trụ trong nhứt thiết trí”.