KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT
Hán dịch: Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập - Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Viện Phật Học Phổ Hiền Xuất Bản PL. 2530 DL 1986 (Trọn bộ 3 tập)
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn hành P.L 2539 DL. 1995 (Trọn bộ 3 tập)
QUYỂN THỨ HAI MƯƠI LĂM
PHẨM TAM THỨ ĐỆ HÀNH
THỨ BẢY MƯƠI LĂM
Lúc Ngài
Tu Bồ Đề bạch
đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu có
pháp tướng hãy còn chẳng được
thuận nhẫn, huống là
đắc đạo.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu
pháp không tướng thì sẽ được
thuận nhẫn chăng? Thì sẽ được các bực này chăng? Hoặc
Càn Huệ địa, hoặc
Tánh địa, hoặc Bát Nhơn địa, hoặc
Kiến địa, hoặc
Bạc địa, hoặc
Ly Dục địa, hoặc
Bồ Tát địa, hoặc
Bích Chi Phật địa, hoặc
Bồ Tát địa, hoặc
Phật địa, hoặc
tu đạo, do
tu đạo này sẽ dứt được
phiền não chăng? Vì những
phiền não ấy nên chẳng
vượt qua được bực
Thanh Văn, bực
Bích Chi Phật để nhập
Bồ Tát vị. Nếu chẳng nhập bực
Bồ Tát vị thì chẳng được nhứt thiết
chủng trí. Nếu chẳng được nhứt thiết
chủng trí thì chẳng dứt được tất cả
tập khí phiền não.
Bạch đức Thế Tôn!
Nếu không có
pháp tướng thì những
đạo pháp ấy chẳng phát sanh. Nếu chẳng phát sanh những
đạo pháp ấy thì chẳng thể được nhứt thiết chủng trí”.
Đức Phật bảo ngài
Tu Bồ Đề: “Đúng như vậy. Nếu người không có pháp thì có
thuận nhẫn cho đến dứt tất cả
tập khí phiền não”.
- Bạch đức Thế Tôn! Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
Đại Bồ Tát có
pháp tướng chăng? Đó là tướng sắc đến tướng thức, tướng nhãn đến tướng ý, tướng sắc đến tướng pháp, tướng
nhãn giới đến tướng
ý thức giới, tướng
tứ niệm xứ đến tướng nhứt thiết
chủng trí, tướng sắc, tướng sắc đoạn đến tướng thức, tướng thức đoạn, tướng
thập nhị xứ, tướng
thập nhị xứ đoạn, tướng
thập bát giới, tướng
thập bát giới đoạn, tướng
thập nhị nhơn duyên, tướng
thập nhị nhơn duyên đoạn, tướng
tham dục, tướng
tham dục đoạn, tướng sân, tướng sân đoạn, tướng si, tướng si đoạn, tướng
tứ đế, tướng
tứ đế đoạn, nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí, tướng đoạn tất cả
tập khí phiền não.
- Không. Này Tu Bồ Đề! Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
Đại Bồ Tát không có tướng pháp và tướng
phi pháp, chính đây là
thuận nhẫn.
Nếu không có tướng pháp và tướng
phi pháp thì là
tu đạo, là
đạo quả.
Này Tu Bồ Đề! Nơi
Đại Bồ Tát, có pháp là
Bồ Tát đạo,
không pháp là
Bồ Tát quả. Vì như vậy nên phải biết tất cả pháp đều không có tánh.
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu tất cả
pháp không có tánh, thì làm sao
đức Phật do vì biết tất cả
pháp không tánh mà được
thành Phật, có sức
tự tại nơi tất cả pháp?
- Này Tu Bồ Đề! Đúng như vậy. Tất cả
pháp không có tánh.
Ngày trước, lúc ta
hành đạo Bồ Tát, ta tu
sáu ba la mật, lìa các
ái dục, lìa các pháp ác
bất thiện, có giác, có quán, lìa
dục ái, sanh hỉ lạc, nhập
sơ thiền, nhẫn đến nhập
tứ thiền. Nơi các thiền ấy cùng những chi thiền, ta chẳng nắm lấy tướng của nó, ta chẳng nghĩ là có các thiền ấy, ta chẳng hưởng thọ
thiền vị, cũng chẳng thấy được thiền, ta hành
bốn thiền mà vẫn
thanh tịnh không
nhiễm trước. Nơi các thiền ấy ta chẳng nhận lấy
quả báo. Y trụ nơi
bốn thiền, ta
phát khởi năm
thần thông:
thiên nhãn thông,
thiên nhĩ thông,
túc mạng thông,
tha tâm thông và
thần túc thông. Nơi các
thần thông ấy ta chẳng nắm lấy tướng, chẳng nghĩ là có
thần thông ấy, chẳng hưởng thọ
thần thông vị, chẳng thấy được
thần thông, nơi năm
thần thông ấy ta chẳng
phân biệt.
Này Tu Bồ Đề! Khi ấy ta dùng một niệm
tương ứng huệ được
Vô Thượng Chánh Giác, đó là
khổ thánh đế,
tập thánh đế,
diệt thánh đế, đạo
thánh đế,
thành tựu mười trí lực, bốn
vô úy, bốn trí
vô ngại, mười
tám pháp bất cộng,
đại từ đại bi, được thành bực Phật, biết rõ ba
tụ chúng sanh:
chánh định tụ,
tà định tụ và
bất định tụ.
- Bạch đức Thế Tôn! Ở trong các
pháp không có tánh, làm sao
đức Thế Tôn phát khởi bốn thiền, năm thần thông?
Chúng sanh cũng không có, sao lại
phân biệt làm ba tụ?
Này Tu Bồ Đề! Nếu các pháp dục ác
bất thiện có tánh tự, tánh tha thì lúc làm hạnh
Bồ Tát trước kia, ta không thể quán các pháp dục ác
bất thiện là không có tánh để nhập
sơ thiền.
Bởi các pháp dục ác
bất thiện không có tánh tự, tánh, tha, đều là không có tánh, nên lúc làm hạnh
Bồ Tát trước kia, ta rời lìa các pháp dục ác
bất thiện, nhập
sơ thiền nhẫn đến nhập
tứ thiền.
Này Tu Bồ Đề! Nếu các
thần thông có tánh tự, tánh tha thì không thể biết được các
thần thông là không có tánh để chứng
Vô Thượng Bồ Đề.
Bởi các
thần thông không có tánh tự, tánh tha đều là không có tánh. Vì thế nên chư Phật ở nơi các
thần thông biết là không có tánh mà được
Vô Thượng Bồ Đề.
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu
Đại Bồ Tát biết các
pháp không có tánh, nhơn
tứ thiền và
ngũ thần thông mà được
Vô Thượng Bồ Đề, thì hàng
tân học Bồ Tát ở trong các
pháp không có tánh, sao lại
thứ đệ hành,
thứ đệ học,
thứ đệ đạo, rồi do
thứ đệ hành,
thứ đệ học và
thứ đệ đạo mà được
Vô Thượng Bồ Đề?
- Này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát lúc
ban sơ hoặc từ chư Phật mà được nghe, hoặc từ nơi sự
cúng dường nhiều chư Phật, chư
Bồ Tát mà được nghe, hoặc từ chư
A La Hán, chư
A Na Hàm, chư
Tư Đà Hàm, chư
Tu Đà Hoàn mà được nghe, rằng vì được
vô sở hữu nên là Phật, vì được
vô sở hữu nên là
A La Hán, là
A Na Hàm, là
Tư Đà Hàm, là
Tu Đà Hoàn. Rằng tất cả
Hiền Thánh đều vì được
vô sở hữu mà có
danh hiệu. Tất cả
pháp hữu vi tạo tác đều không có tánh, nhẫn đến không có
mảy may như chừng lông tơ.
Bồ Tát có được nghe như vậy rồi nghĩ rằng nếu tất cả pháp đều không có tánh, vì được tánh
vô sở hữu nên là Phật, vì được
vô sở hữu tánh nên là
A La Hán, là
A Na Hàm, là
Tư Đà Hàm, là
Tu Đà Hoàn.
Tôi sẽ được
Vô Thượng Bồ Đề nếu tôi chẳng được tất cả
pháp thường, không có tánh. Tại sao tôi không
phát tâm được
Vô Thượng Bồ Đề!
Tôi được
Vô Thượng Bồ Đề rồi, tất cả
chúng sanh đi trong
hữu tướng, tôi sẽ làm cho họ an trụ trong
vô sở hữu.
Này Tu Bồ Đề! Sau khi
suy nghĩ như vậy rồi,
Bồ Tát phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, để độ tất cả
chúng sanh, chỗ làm
thứ đệ hành,
thứ đệ học và
thứ đệ đạo của
Bồ Tát đó đúng như chỗ làm của
quá khứ chư
Bồ Tát được
Vô Thượng Bồ Đề.
Hàng
tân học Bồ Tát đó nên học sáu môn
ba la mật:
Bố thí ba la mật,
Trì giới ba la mật,
Nhẫn nhục ba la mật,
Tinh tiến ba la mật,
Thiền định ba la mật và
Bát nhã ba la mật.
Bồ Tát đó lúc hành
Bố thí ba la mật: tự
bố thí, cũng dạy người
bố thí, khen
công đức bố thí và
vui mừng ca ngợi người làm việc
bố thí.
Do
nhơn duyên bố thí ấy, mà
Bồ Tát được
giàu có lớn.
Bồ Tát này rời xa lòng bỏn sẻn, đem đồ uống ăn,
y phục, đồ nằm, phòng nhà, đèn đuốc,
hương hoa,
chuỗi ngọc, những
vật dụng sanh sống đều
cung cấp cho tất cả
chúng sanh.
Bồ Tát này hành
bố thí,
trì giới như vậy nên sanh trong Nhơn, Thiên được bực tôn quý lớn. Do
bố thí,
trì giới như vậy nên được những
thiền định. Do
bố thí,
trì giới,
thiền định như vậy nên được những
trí huệ, những
giải thoát, những
giải thoát tri kiến, vượt hơn bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật mà vào bực
Bồ Tát. Được vào bực
Bồ Tát rồi được
tịnh Phật quốc độ. Được
tịnh Phật quốc độ rồi được
thành tựu chúng sanh. Được
thành tựu chúng sanh rồi được nhứt thiết
chủng trí. Được nhứt thiết
chủng trí rồi
chuyển pháp luân, đem pháp
tam thừa độ
chúng sanh thoát khỏi sanh tử.
Này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát đem sự
bố thí ấy mà
thứ đệ hành,
thứ đệ học,
thứ đệ đạo đều là
bất khả đắc cả. Tại sao? Vì tất cả
pháp không có
tự tánh vậy.
Lại này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát từ lúc
ban sơ phát tâm đến nay, tự
trì giới, cũng dạy người
trì giới, khen
công đức trì giới,
vui mừng ca ngợi người
trì giới. Do
nhơn duyên trì giới nên sanh trong Trời, Người được rất tôn quý, thấy người nghèo cùng
ban cho của cải, thấy người chẳng
trì giới dạy họ
trì giới, thấy người
loạn tâm dạy họ
thiền định, thấy người
si mê dạy họ
trí huệ, thấy người
không giải thoát dạy họ
giải thoát, thấy người
không giải thoát
tri kiến dạy họ
giải thoát tri kiến. Do sự
trì giới,
thiền định,
trí huệ,
giải thoát,
giải thoát tri kiến nên vượt hơn bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật mà vào bực
Bồ Tát. Vào bực
Bồ Tát rồi được
tịnh Phật quốc độ. Được
tịnh Phật quốc độ rồi
thành tựu chúng sanh.
Thành tựu chúng sanh rồi được nhứt thiết
chủng trí. Được nhứt thiết
chủng trí rồi
chuyển pháp luân, đem pháp
ba thừa độ
chúng sanh thoát khỏi sanh tử.
Này Tu Bồ Đề! Dùng
trì giới ấy,
Bồ Tát thứ đệ hành,
thứ đệ học,
thứ đệ đạo như vậy. Sự đó đều
bất khả đắc. Tại sao? Vì tất cả
pháp không có
tự tánh vậy.
Lại này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát từ lúc
ban sơ phát tâm đến nay,
tự hành nhẫn nhục, cũng dạy người
nhẫn nhục, khen
công đức nhẫn nhục,
vui mừng ca ngợi người
nhẫn nhục. Lúc hành
nhẫn nhục ba la mật như vậy,
Bồ Tát bố thí cho
chúng sanh được đầy đủ, dạy họ
trì giới, dạy họ
thiền định, dạy họ
trí huệ, dạy họ
giải thoát, dạy họ
giải thoát tri kiến. Do
nhơn duyên bố thí,
trì giới,
thiền định,
trí huệ như vậy nên vượt hơn bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật mà vào bực
Bồ Tát. Được vào bực
Bồ Tát rồi được
tịnh Phật quốc độ. Được
tịnh Phật quốc độ rồi
thành tựu chúng sanh.
Thành tựu chúng sanh rồi được nhứt thiết
chủng trí. Được nhứt thiết
chủng trí rồi
chuyển pháp luân, đem pháp
ba thừa độ
chúng sanh thoát khỏi sanh tử.
Này Tu Bồ Đề! Dùng
nhẫn nhục ba la mật,
Bồ Tát thứ đệ hành,
thứ đệ học,
thứ đệ đạo như vậy. Sự đó đều
bất khả đắc. Tại sao? Vì tất cả
pháp không có
tự tánh vậy.
Lại này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát từ lúc
ban sơ phát tâm đến nay,
tự hành Tinh tiến ba la mật, cũng dạy người
tinh tiến, khen
công đức tinh tiến,
vui mừng ca ngợi người
tinh tiến. Lúc hành
tinh tiến ba la mật như vậy,
Bồ Tát bố thí cho
chúng sanh được đầy đủ, dạy họ
trì giới,
thiền định,
trí huệ,
giải thoát,
giải thoát tri kiến. Do
nhơn duyên đó nên vượt hơn bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật mà vào bực
Bồ Tát. Vào bực
Bồ Tát rồi được
tịnh Phật quốc độ.
Tịnh Phật quốc độ rồi
thành tựu chúng sanh.
Thành tựu chúng sanh rồi được nhứt thiết
chủng trí. Được nhứt thiết
chủng trí rồi
chuyển pháp luân, đem pháp
ba thừa giáo hóa chúng sanh thoát khỏi sanh tử.
Này Tu Bồ Đề! Dùng
tinh tiến ba la mật,
Bồ Tát thứ đệ hành,
thứ đệ học,
thứ đệ đạo như vậy. Sự đó đều
bất khả đắc. Tại sao? Vì tất cả
pháp không có
tự tánh vậy.
Lại này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát từ lúc
ban sơ phát tâm, tự nhập thiền, tự nhập
vô lượng tâm, nhập
vô sắc định, cũng dạy người nhập
thiền định, khen
công đức nhập
thiền định,
vui mừng ca ngợi người nhập
thiền định. Trụ những
thiền định,
Bồ Tát bố thí cho
chúng sanh được đầy đủ, dạy cho họ
trì giới,
thiền định,
trí huệ,
giải thoát,
giải thoát tri kiến. Do
nhơn duyên đó nên vượt hơn bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật mà vào bực
Bồ Tát. Vào bực
Bồ Tát rồi được
tịnh Phật quốc độ.
Tịnh Phật quốc độ rồi
thành tựu chúng sanh.
Thành tựu chúng sanh rồi được nhứt thiết
chủng trí. Được nhứt thiết
chủng trí rồi
chuyển pháp luân, đem pháp
ba thừa độ
chúng sanh thoát khỏi sanh tử.
Này Tu Bồ Đề! Dùng
thiền ba la mật,
Bồ Tát thứ đệ hành,
thứ đệ học,
thứ đệ đạo như vậy. Sự đó đều
bất khả đắc. Tại sao? Vì tất cả
pháp không có
tự tánh vậy.
Lại này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát từ lúc
ban sơ phát tâm đến nay,
tự hành Bát nhã ba la mật,
bố thí cho
chúng sanh được đầy đủ, dạy họ
trì giới,
thiền định,
trí huệ,
giải thoát,
giải thoát tri kiến. Lúc
hành Bát nhã
ba la mật như vậy,
Bồ Tát tự hành sáu ba la mật, cũng dạy người hành
sáu ba la mật, khen
công đức người hành
sáu ba la mật,
vui mừng ca ngợi người hành
sáu ba la mật.
Bồ Tát do
nhơn duyên bố thí ba la mật,
Trì giới ba la mật,
Nhẫn nhục ba la mật,
Tinh tiến ba la mật,
Thiền định ba la mật,
Bát nhã ba la mật như vậy và sức
phương tiện nên vượt hơn bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật mà vào bực
Bồ Tát. Vào bực
Bồ Tát rồi được
tịnh Phật quốc độ.
Tịnh Phật quốc độ rồi
thành tựu chúng sanh.
Thành tựu chúng sanh rồi được nhứt thiết
chủng trí. Được nhứt thiết
chủng trí rồi
chuyển pháp luân, đem pháp
ba thừa độ
chúng sanh thoát khỏi sanh tử.
Này Tu Bồ Đề! Dùng
sáu ba la mật,
Bồ Tát thứ đệ hành,
thứ đệ học,
thứ đệ đạo như vậy. Sự đó đều
bất khả đắc. Tại sao? Vì tất cả pháp đều không có
tự tánh vậy.
Đây gọi là
Bồ Tát ban sơ phát tâm thứ đệ hành,
thứ đệ học,
thứ đệ đạo.
Lại này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát từ lúc
ban sơ phát tâm đến nay, do tâm
tương ứng nhứt thiết
chủng trí, tin hiểu các
pháp không có tánh mà tu sáu niệm. Đó là
niệm Phật,
niệm Pháp,
niệm Tăng,
niệm giới,
niệm xả và
niệm Thiên.
Thế nào là
Bồ Tát tu niệm Phật?
Này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát niệm Phật chẳng lấy sắc để niệm, chẳng lấy thọ, tưởng, hành, thức để niệm. Tại sao? Vì
sắc không tự tánh, thọ, tưởng, hành, thức không
tự tánh. Nếu
pháp không có
tự tánh, đó là
vô sở hữu. Tại sao? Vì không nhớ đó là
niệm Phật.
Lại này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát niệm Phật chẳng lấy ba mươi hai tướng để niệm, cũng chẳng lấy thân
kim sắc, chẳng lấy vầng trượng quang, chẳng lấy
tám mươi tùy hình hảo để niệm. Tại sao? Vì thân Phật đó không có
tự tánh. Nếu
pháp không có tánh, đó là
vô sở hữu. Tại sao? Vì không nhớ đó là
niệm Phật.
Lại này Tu Bồ Đề! Chẳng nên lấy những giới niệm để
niệm Phật. Chẳng nên lấy những định, những huệ, những
giải thoát, những
giải thoát tri kiến để
niệm Phật. Tại sao? Vì những giới v.v … ấy không có
tự tánh, đó là
vô sở hữu. Tại sao? Vì không nhớ đó là
niệm Phật.
Lại này Tu Bồ Đề! Chẳng nên lấy
mười trí lực, bốn
vô sở úy,
bốn vô ngại trí, mười
tám pháp bất cộng,
đại từ đại bi để
niệm Phật. Tại sao? Vì không
tự tánh. Nếu
pháp không có
tự tánh, đó là
vô sở hữu. Tại sao? Vì không nhớ đó là
niệm Phật.
Lại này Tu Bồ Đề! Chẳng nên lấy mười hai
nhơn duyên để
niệm Phật. Tại sao? Vì pháp
nhơn duyên không có
tự tánh. Nếu
pháp không có
tự tánh, đó là
vô sở hữu. Tại sao? Vì không nhớ đó là
niệm Phật.
Này Tu Bồ Đề! Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
Bồ Tát phải nên
niệm Phật như vậy.
Đây là
Bồ Tát ban sơ phát tâm thứ đệ hành,
thứ đệ học,
thứ đệ đạo.
Bồ Tát đó an trụ trong
thứ đệ hành,
thứ đệ học,
thứ đệ đạo hay đầy đủ
tứ niệm xứ,
tứ chánh cần,
tứ như ý túc,
ngũ căn,
ngũ lực,
thất giác phần,
bát thánh đạo phần,
tu hành không,
vô tướng,
vô tác tam muội nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí, vì các
pháp không có tánh vậy.
Bồ Tát đó biết các
pháp không có tánh, trong ấy không có tánh có,
không tánh không.
Thế nào là
Bồ Tát tu niệm Pháp?
Này Tu Bồ Đề! Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
Bồ Tát chẳng
niệm pháp thiện, chẳng
niệm pháp bất thiện, chẳng
niệm pháp ký, chẳng
niệm pháp vô ký, chẳng
niệm pháp thế gian, chẳng
niệm pháp xuất thế gian, chẳng
niệm pháp tịnh, chẳng
niệm pháp bất tịnh, chẳng
niệm pháp thánh, chẳng
niệm pháp phàm, chẳng
niệm pháp hữu lậu, chẳng
niệm pháp vô lậu, chẳng
niệm pháp thuộc
Dục giới, thuộc
Sắc giới, thuộc
Vô sắc giới, chẳng
niệm pháp hữu vi,
pháp vô vi. Tại sao? Vì các pháp ấy không có
tự tánh. Nếu
pháp không có
tự tánh, đó là
vô sở hữu. Tại sao? Vì không nhớ đó là
niệm pháp. Vì học trong
pháp không có tánh nên sẽ được đầy đủ
tứ niệm xứ nhẫn đến sẽ được nhứt thiết
chủng trí. Lúc
Bồ Tát này được
Vô Thượng Chánh Giác, được các
pháp không có tánh. Trong không có tánh ấy: chẳng phải tướng có, chẳng phải
tướng không.
Bồ Tát phải nên tu
niệm Pháp như vậy. Ở trong pháp ấy, nhẫn đến không có chút niệm, huống là
niệm Pháp.
Thế nào là
Bồ Tát tu niệm Tăng?
Này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát niệm Tăng, vì
pháp vô vi nên
phân biệt có chúng
đệ tử Phật. Trong đó nhẫn đến không có chút niệm, huống là
niệm Tăng.
Bồ Tát phải nên
niệm Tăng như vậy.
Thế nào là
Bồ Tát tu niệm giới?
Này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát từ
ban sơ đến nay phải niệm
thánh giới:
giới không khuyết,
giới không hở,
giới không tì,
giới không dục,
giới không vướng,
giới tự tại, giới của bực trí khen,
giới cụ túc, giới theo
chánh định. Phải
niệm giới đó không có
tự tánh, nhẫn đến không có chút niệm, huống là
niệm giới.
Thế nào là
Bồ Tát tu niệm xả?
Này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát từ
ban sơ đến nay phải nên
niệm xả: hoặc niệm tự xả, hoặc niệm tha xả, hoặc xả tài, hoặc xả pháp, hoặc xả
phiền não, vì quán sự xả ấy không có được, nhẫn đến không có chút niệm, huống là
niệm xả.
Thế nào là
Bồ Tát tu niệm Thiên?
Này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát nghĩ rằng
chư Thiên cõi Trời Tứ Thiên Vương có tín, giới, thí, văn, huệ. Ở tại đây chết sanh về
cõi Trời ấy. Tôi cũng có tín, giới, thí, văn, huệ đó. Nhẫn đến
Trời Tha Hóa, Trời
Tự Tại có những tín, giới, thí, văn, huệ. Ở đây chết sanh về
cõi Trời ấy. Tôi cũng có tín, giới, thí, văn, huệ đó.
Bồ Tát phải nên niệm trong các
cõi Trời không có
tự tánh, còn không có chút niệm, huống là
niệm Thiên.
Bồ Tát hành sáu niệm như
vậy thì gọi là
thứ đệ hành,
thứ đệ học,
thứ đệ đạo.
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu tất cả
pháp không có tánh, những là niệm
sắc không có tánh thọ, tưởng, hành, thức không có tánh, nhãn đến ý, sắc đến pháp đều không có tánh ,
nhãn giới đến
ý thức giới không có tánh,
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật,
nội không đến
vô pháp hữu pháp không đều không có tánh,
tứ niệm xứ đến nhứt thiết
chủng trí đều không có tánh.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu tất cả
pháp không có tánh thời không đạo, không trí, không quả?
- Này Tu Bồ Đề! Ngươi thấy sắc tánh đó thiệt có chăng? Nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí tánh đó thiệt có chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Không thấy có.
- Này Tu Bồ Đề! Ngươi chẳng thấy các
pháp thiệt có, sao lại hỏi như vậy?
- Bạch đức Thế Tôn! Nơi đây tôi không dám có nghi, mà chỉ vì
đời sau những
Tỳ Kheo cầu
Thanh Văn,
Bích Chi Phật đạo,
Bồ Tát đạo sẽ bảo rằng: Nếu tất cả
pháp không có tánh thì ai cấu, ai tịnh, ai
triền phược, ai giải thoát? Vì chẳng
hiểu biết, họ có thể
phá giới,
phá kiến, phá
oai nghi, phá tịnh mạng. Vì phá như vậy, họ sẽ đọa vào ba
ác đạo.
Bạch đức Thế Tôn! Tôi sợ
đời sau sẽ có sự tệ hại như vậy nên tôi hỏi
đức Phật.
Bạch đức Thế Tôn! Ở trong
pháp không có tánh, tôi tin hiểu, không
nghi ngờ, không ăn năn”.
PHẨM NHỨT NIỆM
THỨ BẢY MƯƠI SÁU
Ngài
Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu tất cả
pháp không có tánh, thì
Bồ Tát vì những
lợi ích gì mà vì
chúng sanh phát tâm Vô Thượng Bồ Đề?”.
Đức Phật dạy: “Này Tu Bồ Đề! Vì tất cả
pháp không có tánh nên
Bồ Tát vì
chúng sanh cầu
Vô Thượng Bồ Đề.
Tại sao? Vì những ai có được có chấp thì khó
được giải thoát.
Này Tu Bồ Đề! Ngươi có được tướng thì không có đạo, không có quả, không có
Vô Thượng Bồ Đề”.
- Bạch đức Thế Tôn! Người không được tướng thì có đạo, có quả, có
Vô Thượng Bồ Đề chăng?
- Này Tu Bồ Đề! Không có được tức là đạo, tức là quả, tức là
Vô Thượng Bồ Đề, vì
pháp tánh chẳng
hoại diệt vậy.
Nếu
pháp không có được mà muốn được đạo, muốn được quả, muốn được
Vô Thượng Bồ Đề, đó là muốn
hoại pháp tánh.
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu
pháp không có được tức là đạo, tức là quả, tức là
Vô Thượng Bồ Đề, sao lại có
Bồ Tát bực
sơ địa đến bực
thập địa, sao lại có pháp
vô sanh nhẫn, sao lại có báo đắc
thần thông, sao lại có báo đắc
bố thí,
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tiến,
thiền định,
trí huệ, an trụ trong những báo đắc ấy có thể
tịnh Phật quốc độ,
thành tựu chúng sanh và
cúng dường chư Phật những
y phục, uống ăn, hoa hương,
chuỗi ngọc, nhà phòng, giường niệm, đèn đuốc, những
vật dụng cần để sống, nhẫn đến được
Vô Thượng Bồ Đề chẳng dứt mất
phước đức đó,
cho đến sau khi
nhập diệt,
Xá Lợi và
đệ tử được cúng dường?
- Này Tu Bồ Đề! Do vì các
pháp không có tướng nên được bực
Bồ Tát sơ địa đến
thập địa, có báo đắc
ngũ thần thông,
sáu ba la mật,
tịnh Phật quốc độ,
thành tựu chúng sanh, cũng do
nhơn duyên thiện căn mà có thể
lợi ích chúng sanh, nhẫn đến sau khi
nhập diệt,
Xá Lợi và
đệ tử được
cúng dường.
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu các
pháp không có tướng thì
sáu ba la mật, năm
thần thông có gì sai biệt?
- Này Tu Bồ Đề! Nơi
pháp không có tướng,
bố thí,
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tiến,
thiền định,
trí huệ, các
thần thông không có
sai biệt. Do
chúng sanh chấp có bố thí đến các
thần thông nên
phân biệt mà nói thôi.
- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào nơi
pháp không có tướng,
bố thí đến các
thần thông không có sai biệt?
- Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát lúc
hành Bát nhã
ba la mật, người thí, kẻ thọ đều không có được mà hành
bố thí, không được giới mà
trì giới, không được nhẫn mà hành
nhẫn nhục, không được
tinh tiến mà hành
tinh tiến, không được thiền mà hành thiền, không được
trí huệ mà hành
trí huệ, không được
thần thông mà hành
thần thông, không được
tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo mà hành
tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo, không được
ba tam muội mà hành
ba tam muội, chẳng được
chúng sanh mà
thành tựu chúng sanh, không được
tịnh Phật quốc độ mà
tịnh Phật quốc độ, không được các pháp Phật mà được
Vô Thượng Bồ Đề.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát phải nên
hành Bát nhã
ba la mật không có được như vậy. Lúc đại Bồ Tàt
hành Bát nhã
ba la mật không có được này, thì ma hay
thiên ma không
phá hoại được.
- Bạch đức Thế Tôn! Lúc
đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật, thế nào
trong một niệm đầy đủ
sáu ba la mật,
bốn thiền,
bốn tâm vô lượng, bốn
định vô sắc,
bốn niệm xứ đến tám phần
thánh đạo,
ba môn giải thoát,
mười trí lực, bốn
vô úy, bốn trí
vô ngại, mười
tám pháp bất cộng,
đại từ đại bi, ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hình hảo?
- Này Tu Bồ Đề! Khi hành
bố thí,
Bồ Tát chẳng xa rời
Bát nhã ba la mật, khi
tu trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tiến,
thiền định,
trí huệ chẳng xa rời
Bát nhã ba la mật, nhẫn đến
tám mươi tùy hình hảo chẳng xa rời
Bát nhã ba la mật.
- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào
Đại Bồ Tát vì chẳng xa rời
Bát nhã ba la mật nên
trong một niệm đầy đủ hành
sáu ba la mật nhẫn đến tám mươi tùy hình hảo?
- Này Tu Bồ Đề! Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
Bồ Tát có hành
bố thí chẳng xa rời
Bát nhã ba la mật, chẳng thấy có hai tướng, lúc
trì giới cũng chẳng thấy có hai tướng, nhẫn đến
tám mươi tùy hình hảo cũng chẳng thấy có hai tướng.
- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào
Đại Bồ Tát lúc
bố thí nhẫn đến lúc tu
tám mươi tùy hình hảo chẳng thấy có hai tướng?
- Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát lúc
hành Bát nhã
ba la mật muốn đầy đủ
bố thí ba la mật, trong
bố thí ba la mật nhiếp hết các
ba la mật và
tứ niệm xứ đến
tám mươi tùy hình hảo.
- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào
Đại Bồ Tát lúc
bố thí nhiếp hết các pháp vô lậu?
- Này Tu Bồ Đề! Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
Đại Bồ Tát an
trụ tâm vô lậu mà
bố thí. Trong tâm
vô lậu chẳng thấy tướng ai thí, ai thọ và
vật thí. Do
tâm vô tướng, tâm
vô lậu này dứt trừ tâm
ái nhiễm, tâm
xan tham mà hành
bố thí. Bấy giờ chẳng thấy
bố thí nhẫn đến chẳng thấy pháp
Vô Thượng Bồ Đề.
Bồ Tát này dùng
tâm vô tướng, tâm
vô lậu mà
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tiến,
thiền định,
trí huệ, chẳng thấy là giới, là
nhẫn nhục, là
tinh tiến, nhẫn đến chẳng thấy pháp
Vô Thượng Bồ Đề.
Bồ Tát này dùng
tâm vô tướng, tâm
vô lậu tu
tứ niệm xứ, chẳng thấy là
tứ niệm xứ nhẫn đến chẳng thấy
tám mươi tùy hình hảo.
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu các pháp
vô tướng,
vô tác, thế nào đầy đủ
bố thí ba la mật nhẫn đến đầy đủ tám mươi tùy hình hảo?
- Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật, dùng
tâm vô tướng, tâm
vô lậu mà hành
bố thí: người cần ăn cho ăn, nhẫn đến
cần dùng đến thứ gì đều
cung cấp cho tất cả, hoặc vật ngoài thân, vật trong thân, hoặc cắt xẻ
thân thể, hoặc quốc thành thê tử đều
bố thí cho
chúng sanh.
Nếu có người đến bảo: Cần chi
bố thí như vậy, không có
lợi ích gì.
Bồ Tát hành Bát nhã ba la mật này nghĩ rằng dầu người này đến trách tôi
bố thí nhưng vẫn không
hối hận, tôi phải siêng
bố thí, chẳng nên chẳng
ban cho,
bố thí xong
cùng chung tất cả
chúng sanh hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề. Cũng chẳng thấy có những tướng người thí, người thọ,
vật thí, người
hồi hướng, pháp
hồi hướng, chỗ
hồi hướng là
Vô Thượng Bồ Đề. Đều không thấy có những tướng đó. Tại sao? Vì tất cả pháp do
nội không nên không, do
ngoại không nên không, do
nội ngoại không nên không, do
không không,
hữu vi không,
vô vi không,
tất cánh không, vô thỉ không,
tán không, nhứt thiết
pháp không,
tự tướng không nên không. Lúc quán như vậy nghĩ rằng: Ai hồi hướng?
Hồi hướng chỗ nào? Dùng pháp gì để hồi hướng? Đây gọi là chánh
hồi hướng.
Bấy giờ
Bồ Tát hay
thành tựu chúng sanh, hay
tịnh Phật quốc độ, hay đầy đủ
sáu ba la mật,
ba mươi bảy phẩm trợ đạo,
ba tam muội nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng.
Bồ Tát này đầy đủ
Bố thí ba la mật mà chẳng hưởng thọ
quả báo thế gian.
Thí như
Trời Tha Hóa Tự Tại tùy ý cần dùng thứ gì đều liền được cả. Cũng vậy,
Bồ Tát tâm nguyện những gì liền được
như ý.
Do
quả báo bố thí đó,
đại Bồ Tát hay
cúng dường chư Phật, cũng hay ban đầy đủ tất cả
chúng sanh Trời, Người,
A tu la.
Bồ Tát này dùng
bố thí ba la mật nhiếp lấy
chúng sanh.
Dùng sức phương tiện đem pháp
tam thừa độ
chúng sanh khỏi
sanh tử.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát ở trong những pháp
vô tướng, vô đắc,
vô tác mà đầy đủ
Bố thí ba la mật như vậy.
Này Tu Bồ Đề! Thế nào là
Đại Bồ Tát ở trong pháp
vô tướng, vô đắc,
vô tác mà đầy đủ
Trì giới ba la mật?
Lúc
hành trì giới ba la mật,
Đại Bồ Tát trì các thứ giới. Đó là thánh
vô lậu giới nhập
bát thánh đạo phần,
giới tự nhiên, giới báo đắc, giới thọ đắc, giới tâm sanh, tất cả những giới đây đều chẳng thiếu, chẳng phá, chẳng tạp, chẳng trược, chẳng chấp. Là
giới tự tại, là giới của người trí
ca ngợi. Dùng giới này mà không chỗ nắm lấy hoặc sắc hoặc thọ, tưởng, hành, thức, hoặc ba mươi hai tướng, hoặc
tám mươi tùy hình hảo, hoặc dòng lớn
Sát Đế Lợi,
Bà La Môn,
Cư SĨ, hoặc Trời Tứ Vương,
Trời Đao Lợi, Trời
Dạ Ma,
Trời Đâu Suất,
Trời Hóa Lạc,
Trời Tha Hóa Tự Tại, Trời Cõi Sắc,
Trời Vô Sắc, hoặc quả
Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm,
A La Hán,
Bích Chi Phật, hoặc
Chuyển Luân Thánh Vương. Chỉ vì tất cả
chúng sanh mà cùng họ
hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề. Bởi
vô tướng, vô đắc,
vô nhị mà
hồi hướng là pháp
thế tục, chẳng phải
đệ nhứt thiệt nghĩa.
Bồ Tát này đầy đủ
Trì giới ba la mật,
dùng sức phương tiện khởi
tứ thiền, vì không
tham mê nơi thiền nên được năm
thần thông. Nhơn
tứ thiền mà được
thiên nhãn.
Bồ Tát này có hai
thiên nhãn: tu đắc và báo đắc.
Được
thiên nhãn rồi,
Bồ Tát này thấy phương đông chư
Phật hiện tại nhẫn đến được
Vô Thượng Bồ Đề, chín phương kia cũng đều thấy như vậy. Những sự đã thấy không sai, không quên.
Bồ Tát này dùng
thiên nhãn thanh tịnh hơn hẳn hai thường, nghe
chư Phật mười phương thuyết pháp. Chỗ được nghe không sai, không quên, hay
lợi ích mình và người.
Dùng
tha tâm trí,
Bồ Tát này biết tâm của
chư Phật mười phương và biết tâm của tất cả
chúng sanh, cũng hay làm
lợi ích tất cả
chúng sanh.
Dùng
túc mạng trí,
Bồ Tát này biết những nghiệp nhơn
quá khứ, vì nghiệp
nhơn duyên chẳng mất nên
chúng sanh đó sanh nơi nào ở đây đều biết rõ.
Dùng
lậu tận trí,
Bồ Tát này làm cho
chúng sanh được những quả
Tu Đà Hoàn đến
A La Hán,
Bích Chi Phật. Chỗ nào nơi nào cũng đều có thể làm cho
chúng sanh vào trong pháp lành.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát ở trong các pháp
vô tướng, vô đắc,
vô tác mà đầy đủ
Thi la ba la mật”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
Đại Bồ Tát ở trong các pháp
vô tướng, vô đắc,
vô tác mà có thể đầy đủ
nhẫn nhục ba la mật?”.
- Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát từ lúc mới
phát tâm đến nay, mãi đến lúc ngồi
đạo tràng, trong
thời gian đó có bị bất luận
chúng sanh nào đến đánh đập chém giết,
Bồ Tát này chẳng sanh lòng giận dù chỉ là một niệm.
Bồ Tát là phải tu hai thứ nhẫn.
Một là chẳng sanh lòng giận thù đối với bất luận
chúng sanh nào đến
mắng chửi, đánh đập, chém giết.
Hai là tất cả pháp
vô sanh.
Bồ Tát sanh pháp nhẫn, nếu lúc bị người đến
mắng chửi, đánh đập,
Bồ Tát phải
suy nghĩ như vầy: Mắng ta là ai? Ai chê, ai đánh, ai đập? Ai nhận chịu?
Bồ Tát phải
suy gẫm thiệt tánh của các pháp, đó là
rốt ráo không,
không pháp, không
chúng sanh. Các pháp còn là
bất khả đắc huống gì
chúng sanh mà có. Lúc
quán sát như vậy,
Bồ Tát chẳng thấy người mắng, chẳng thấy người chém giết. Lúc
quán sát như vậy,
Bồ Tát này liền được
vô sanh pháp nhẫn.
Sao gọi là
vô sanh pháp nhẫn? Vì biết các
pháp tướng thường chẳng sanh, các
phiền não từ nào đến giờ cũng thường chẳng sanh.
An trụ trong hai thứ nhẫn này,
Đại Bồ Tát có thể đầy đủ
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định, đầy đủ
tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo,
ba môn giải thoát,
mười trí lực, bốn
vô úy, bốn trí
vô ngại, mười
tám pháp bất cộng,
đại từ đại bi.
Bồ Tát này an trụ pháp thánh
vô lậu xuất thế, chẳng cùng đồng với hàng
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, đầy đủ
thánh thần thông.
An trụ trong
thánh thần thông,
Bồ Tát này dùng
thiên nhãn thấy chư Phật phương đông, liền được
niệm Phật tam muội nhẫn đến
Vô Thượng Bồ Đề, chín mươi phương kia cũng vậy.
Dùng
thiên nhĩ,
Bồ Tát này
nghe pháp của
chư Phật mười phương diễn nói, rồi đem chỗ đã được nghe dạy lại
chúng sanh.
Bồ Tát này cũng biết tâm chư Phật, biết
tâm niệm của tất cả
chúng sanh. Biết tâm của tất cả
chúng sanh rồi theo tâm của họ mà
thuyết pháp.
Dùng
túc mạng trí,
Bồ Tát này biết căn lành đời trước của tất cả
chúng sanh rồi vì
chúng sanh mà
thuyết pháp cho họ
vui mừng.
Dùng
lậu tận thần thông,
Bồ Tát này
giáo hóa chúng sanh cho họ được
thánh quả tam thừa.
Đại Bồ Tát này thật
hành Bát nhã
ba la mật dùng sức phương tiện thành tựu chúng sanh, đầy đủ nhứt thiết
chủng trí, được
Vô Thượng Bồ Đề,
chuyển pháp luân.
Này Tu Bồ Đề! Ở trong pháp
vô tướng, vô đắc,
vô tác đầy đủ
Nhẫn nhục ba la mật như vậy.
- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào ở trong pháp
vô tướng, vô đắc,
vô tác,
Đại Bồ Tát có thể đầy đủ
Tinh tiến ba la mật?
- Này Tu Bồ Đề! Lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật,
Đại Bồ Tát thành tựu thân
tinh tiến, tâm
tinh tiến, nhập
sơ thiền đến
tứ thiền, được các thứ
thần thông, hay phân một thân làm nhiều thân, nhẫn đến tay rờ mó
mặt trời,
mặt trăng.
Vì
thành tựu thân
tinh tiến,
Bồ Tát này bay đến
vô lượng trăm ngàn muôn
thế giới cúng dường chư Phật đủ tất cả
vật dụng cần thiết,
cho đến lúc được
Vô Thượng Bồ Đề,
phước đức quả báo vẫn chẳng dứt hết.
Lúc
Bồ Tát này được
Vô Thượng Bồ Đề, tất cả Trời và Người ở
thế gian đến
ân cần cúng dường y phục,
thức ăn, đồ uống,
cho đến sau khi
nhập Niết bàn,
Xá Lợi và
đệ tử được
cúng dường, cũng do sức
thần thông đến chỗ
đức Phật để nghe, để
lãnh giáo pháp,
cho đến lúc được
Vô Thượng Bồ Đề trọn chẳng trái, chẳng mất.
Bồ Tát này lúc tu nhứt thiết
chủng trí,
thanh tịnh Phật độ,
thành tựu chúng sanh.
Này Tu Bồ Đề! Thật
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát thành tựu thân
tinh tiến hay đầy đủ
Tinh tiến ba la mật như vậy.
Này Tu Bồ Đề! Thế nào là
Bồ Tát thành tựu tâm
tinh tiến hay đầy đủ
tinh tiến ba la mật?
Đại Bồ Tát tâm
tinh tiến, dùng tâm
tinh tiến thánh
vô lậu này vào tám phần
thánh đạo, chẳng cho
nghiệp bất thiện của thân hay khẩu được vào, cũng chẳng nắm lấy các
pháp tướng là
thường hay vô thường, là khổ hay vui, là ngã hay
vô ngã, là
hữu vi hay
vô vi, là cõi Dục, cõi Sắc hay cõi
Vô Sắc, là tánh
hữu lậu hay tánh
vô lậu, là
sơ thiền nhẫn đến hay là
tứ thiền, là từ, là bi hay là hỉ, là xả, là
hư không vô biên xứ nhẫn đến hay là
phi tưởng phi phi tưởng xứ, là
tứ niệm xứ, là
tứ chánh cần, là
tứ như ý túc, là
ngũ căn, là
ngũ lực, là
thất giác phần, là
bát thánh đạo phần, là không,
vô tướng,
vô tác, là
mười trí lực nhẫn đến hay là mười
tám pháp bất cộng.
Bồ Tát này chẳng nắm lấy tướng là
thường hay vô thường, là khổ hay vui, là ngã hay
vô ngã, là quả
Tu Đà Hoàn, là quảTư Đà Hàm, là quả
A Na Hàm, là quả
A La Hán, là đạo
Bích Chi Phật, là đạo
Bồ Tát, là
Vô Thượng Bồ Đề, là vị
Tu Đà Hoàn, là vị
Tư Đà Hàm, là vị
A Na Hàm, là vị
A La Hán, là vị
Bích Chi Phật, là vị
Bồ Tát, là vị Phật.
Bồ Tát này chẳng nắm lấy tướng do
chúng sanh này dứt
kiết sử ba cõi nên được quả
Tu Đà hoàn, vì
chúng sanh này
tam độc mỏng nên được quả
Tư Đà Hàm, vì
chúng sanh này dứt
kiết tập cõi Dục nên được quả
A Na Hàm, vì
chúng sanh này dứt
kiết tập cõi trên nên được quả
A La Hán, vì
chúng sanh này dùng đạo
Bích Chi Phật, vì
chúng sanh này
hành đạo chủng trí nên gọi là
Bồ Tát.
Cũng chẳng nắm lấy những
pháp tướng này. Tại sao? Vì chẳng nên đem tánh nắm lấy tướng, do vì là
tánh không.
Dùng tâm
tinh tiến này,
Bồ Tát làm
lợi ích rộng lớn cho
chúng sanh, cũng chẳng thấy có
chúng sanh ấy.
Đây là
Bồ Tát đầy đủ
Tinh tiến ba la mật mà đầy đủ các pháp,
thanh tịnh Phật độ,
thành tựu chúng sanh, do vì
bất khả đắc vậy.
Vì
thành tựu thân
tinh tiến và tâm
tinh tiến,
Bồ Tát này nhiếp lấy tất cả pháp lành, và vì cũng chẳng nắm lấy những pháp lành này,
Bồ Tát đi từ một
cõi Phật đến một
cõi Phật làm
lợi ích chúng sanh, hiện những
thần thông tùy ý vô ngại: hoặc mưa hoa, mưa hương, hoặc trỗi các thứ
kỹ nhạc, hoặc động địa, hoặc phóng ánh sáng, hoặc
hiện thế giới
bảy báu trang nghiêm, hoặc hiện nhiều thứ
thân hình, hoặc phóng ánh sáng
đại trí huệ, làm cho
chúng sanh biết
thánh đạo, làm cho
chúng sanh rời xa
sát sanh đến
tà kiến, hoặc dùng việc
bố thí để
lợi ích chúng sanh, hoặc dùng
trì giới hoặc dùng
thân thể chia xẻ, hoặc đem
vợ con, quốc thành, hoặc đem chính thân mình để
cấp cho,
tùy phương các
tiện lợi làm
lợi ích chúng sanh.
Này Tu Bồ Đề!
Hành Bát nhã
ba la mật ớ trong các pháp
vô tướng, vô đắc,
vô tác,
Đại Bồ Tát dùng thân và tâm
tinh tiến, hay đầy đủ
Tinh tiến ba la mật.
- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào ở các pháp
vô tướng, vô đắc,
vô tác,
Đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật hay đầy đủ
Thiền ba la mật?
- Này Tu Bồ Đề! Trừ những
thiền định của Phật,
Đại Bồ Tát đều có thể đầy đủ tất cả những
thiền định.
Bồ Tát này rời lìa các
dục nhiễm, các pháp
bất thiện, các pháp ác, do lìa dục mà hỉ lạc, có giác, có quán, nhập
sơ thiền nhẫn đến nhập
tứ thiền.
Bồ Tát này dùng
tâm từ bi
hỉ xả trùm khắp mười phương tất cả
thế gian.
Bồ Tát này qua khỏi tất cả
sắc tướng, dứt tướng có
đối đãi, vì chẳng nghĩ nhớ tướng biệt dị mà nhập
vô biên hư không xứ, nhẫn đến nhập
phi tưởng phi phi tưởng xứ.
An trụ trong
Thiền ba la mật,
Bồ Tát này thuận và nghịch nhập
bát bội xả,
cửu thứ đệ định,
nhập không tam muội,
vô tướng tam muội,
vô tác tam muội, hoặc có lúc nhập điện quang
tam muội, hoặc có lúc
nhập thánh chánh
tam muội, hoặc có lúc nhập như
kim cang tam muội.
An trụ trong
Thiền ba la mật,
Bồ Tát này tu
ba mươi bảy phẩm trợ đạo, dùng
đạo chủng trí nhập tất cả
thiền định,
vượt qua Càn Huệ địa,
Tánh địa, Bát nhơn địa,
Kiến địa,
Bạc địa,
Ly Dục địa,
Dĩ Biện địa và
Bích Chi Phật địa mà vào
Bồ Tát vị, khi đã nhập
Bồ Tát vị rồi đầy đủ
Phật địa, đi trong các địa ấy nhẫn đến lúc được
Vô Thượng Bồ Đề, chẳng bao giờ ở giữa đường nắm lấy
đạo quả.
An trụ trong
Thiền ba la mật,
Bồ Tát này từ một nước Phật đến một nước
Phật cúng dường chư Phật, ở chỗ chư Phật gieo trồng căn lành
thanh tịnh cõi Phật, từ một nước Phật đến một nước Phật làm
lợi ích chúng sanh, hoặc dùng
bố thí nhiếp lấy
chúng sanh, hoặc dùng
trì giới, hoặc dùng
tam muội, hoặc dùng
trí huệ, hoặc dùng
giải thoát, hoặc dùng
tri kiến giải thoát nhiếp lấy
chúng sanh,
giáo hóa chúng sanh khiến họ được những pháp lành của quả
Tu Đà Hoàn đến đạo
Bích Chi Phật, đều có thể dạy cho
chúng sanh đắc đạo.
An trụ trong
Thiền ba la mật,
Đại Bồ Tát này hay phát sanh tất cả môn
đà la ni, được bốn trí
vô ngại, được những
thần thông báo đắc.
Bồ Tát này
vĩnh viễn chẳng vào
bào thai người mẹ,
vĩnh viễn chẳng thọ
ngũ dục, luôn
vô sanh bất sanh, dầu có sanh cũng chẳng bị phát sanh làm
ô nhiễm. Tại sao? Vì
Bồ Tát này thấy tất cả
pháp như huyễn ảo mà làm
lợi ích chúng sanh, cũng không thấy có
chúng sanh và tất cả pháp để được
giáo hóa chúng sanh khiến họ được chỗ
vô sở đắc vì là pháp
thế tục, chẳng phải thiệt nghĩa đệ nhất.
An trụ
Thiền ba la mật,
Bồ Tát này hành tất cả
thiền định,
giải thoát,
tam muội, nhẫn đến
Vô Thượng Bồ Đề trọn chẳng rời lìa
Thiền ba la mật.
Lúc
hành đạo chủng trí như vậy,
Bồ Tát này được nhứt thiết
chủng trí, dứt tất cả
tập khí phiền não. Dứt xong,
tự lợi ích cho mình
đồng thời cũng
lợi ích cho người. Đã
tự lợi và
lợi tha rồi làm
phước điền cho tất cả Trời, Người,
A tu la trong đời.
Này Tu Bồ Đề! Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
Đại Bồ Tát hay đầy đủ
Thiền ba la mật vô tướng như vậy.
- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là an trụ trong pháp
vô tướng,
vô tác, vô đắc lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
Đại Bồ Tát tu tập đầy đủ
Bát nhã ba la mật?
- Này Tu Bồ Đề! Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
Đại Bồ Tát đối với các pháp chẳng thấy tướng
quyết định thiệt.
Bồ Tát này thấy sắc
bất định chẳng phải
thiệt tướng, nhẫn đến thấy thức
bất định chẳng phải
thiệt tướng, chẳng thất sắc
sanh nhẫn đến chẳng thấy thức sanh.
Nếu chẳng thấy sắc
sanh nhẫn đến chẳng thấy thức sanh thì với tất cả
pháp hữu lậu hay
vô lậu đều chẳng thấy chỗ đến, chỗ đi, cũng chẳng thấy chỗ tập học. Lúc
quán sát như vậy,
Bồ Tát chẳng thấy có sắc tánh nhẫn đến thức tánh, cũng chẳng thấy có tánh
pháp hữu lậu và tánh pháp
vô lậu.
Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật tin hiểu tất cả
pháp không có tướng. Tin hiểu như vậy rồi
Bồ Tát hành nội không nhẫn đến hành
vô pháp hữu pháp không, với các pháp từ sắc đến
Vô Thượng Bồ Đề không nắm lấy.
Hành Bát nhã
ba la mật vô sở hữu,
Bồ Tát này hay đầy đủ đạo
Bồ Tát, đó là
sáu ba la mật nhẫn đến
ba mươi bảy phẩm trợ đạo,
mười trí lực, bốn
vô úy, bốn trí
vô ngại, mười
tám pháp bất cộng, ba mươi hai tướng,
tám mươi tùy hình hảo.
Bồ Tát này an trụ trong không
tịnh Phật đạo, đó là
sáu ba la mật,
ba mươi bảy pháp trợ đạo,
thần thông báo đắc, dùng những pháp này làm
lợi ích cho
chúng sanh: nên dùng
bố thí để nhiếp thì dạy họ
bố thí; nên dùng
trì giới để nhiếp thì dạy họ
trì giới, nên dùng
thiền định,
trí huệ,
giải thoát,
giải thoát tri kiến để nhiếp thì dạy họ
thiền định,
trí huệ,
giải thoát và
tri kiến giải thoát; nên dùng các
đạo pháp để dạy thì dạy họ được quả
Tu Đà Hoàn, quả
Tư Đà Hàm, quả
A Na Hàm, quả
A La Hán và đạo
Bích Chi Phật; nên dùng
Phật đạo để
giáo hóa thì dạy họ được đạo
Bồ Tát đầy đủ
Phật đạo.
Tùy theo chỗ nên để
giáo hóa chúng sanh, cho họ đều được sự
lợi ích đáng được.
Lúc hiện những thứ
thần thông lực như vậy,
Bồ Tát đi qua
vô lượng hằng sa cõi nước độ
chúng sanh ra khỏi
sanh tử,
cung cấp những đồ
cần dùng cho
chúng sanh được đầy đủ, từ một
cõi Phật đến một
cõi Phật, thấy cõi nước
thanh tịnh vi diệu để tự
trang nghiêm cõi nước mình.
Như trong cung
Trời Tha Hóa Tự Tại, những đồ
cần dùng tùy ý hiện đến, cũng như những
tịnh độ rời lìa cầu dục,
Bồ Tát trang nghiêm cõi mình như vậy.
Do
phước báo này,
Bồ Tát được
Đàn na ba la mật,
Giới ba la mật,
Nhẫn ba la mật, Tiến
ba la mật,
Thiền ba la mật,
Bát nhã ba la mật, năm
thần thông báo đắc,
hành đạo Bồ Tát,
đạo chủng trí,
thành tựu tất cả
công đức sẽ được
Vô Thượng Bồ Đề.
Lúc bấy giờ,
Bồ Tát này chẳng thọ sắc nhẫn đến chẳng thọ thức, chẳng thọ tất cả pháp lành hay chẳng lành,
thế gian hay
xuất thế,
hữu lậu hay
vô lậu,
hữu vi hay
vô vi, tất cả
pháp như vậy đều chẳng thọ.
Lúc
Bồ Tát này được
Vô Thượng Bồ Đề, tất cả đồ vật
cần dùng sanh sống trong nước đếu không có chủ. Tại sao? Vì
Bồ Tát này hành chẳng thọ tất cả pháp, bởi đều
bất khả đắc.
Này Tu Bồ Đề! Ở trong pháp
vô tướng,
Đại Bồ Tát hay đầy đủ
Bát nhã ba la mật”.