KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT
Hán dịch: Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập - Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Viện Phật Học Phổ Hiền Xuất Bản PL. 2530 DL 1986 (Trọn bộ 3 tập)
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn hành P.L 2539 DL. 1995 (Trọn bộ 3 tập)
QUYỂN THỨ HAI MƯƠI BỐN
PHẨM ĐẠO THỌ
THỨ BẢY MƯƠI MỐT
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “ Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật này rất sâu.
Chư đại Bồ Tát chẳng thấy có
chúng sanh mà vì
chúng sanh cầu
Vô Thượng Bồ Đề, đây là rất khó. Như người muốn trồng cây giữa
hư không thì rất khó.
Bạch đức Thế Tôn! Cũng vậy,
đại Bồ Tát vì
chúng sanh mà cầu
Vô Thượng Bồ Đề,
chúng sanh cũng bất khả đắc”.
Đức Phật phán dạy: “Đúng như vậy. Này Tu Bồ Đề! Chỗ làm của
chư đại Bồ Tát rất khó: vì
chúng sinh mà cầu
Vô Thượng Bồ Đề,
cứu độ những
chúng sanh điên đảo chấp ngô,
chấp ngã.
Này Tu Bồ Đề! Như người trồng cây chẳng biết gốc, thân, cành, lá, bông, trái mà
yêu quí vun bón xới tưới, cây lớn dần hoa, lá, trái, hột đều
thành tựu mà được hưởng thọ.
Cũng vậy,
chư đại Bồ Tát vì
chúng sanh cầu
Vô Thượng Bồ Đề, lần lần hành
sáu ba la mật, được nhứt thiết
chủng trí,
thành tựu Phật thọ, đem hoa, lá, trái, hột
lợi ích chúng sanh.
Này Tu Bồ Đề! Thế nào là lá cây
lợi ích chúng sanh?
Chúng sanh nhờ nơi
đại Bồ Tát mà được lìa khỏi ba
ác đạo, đó là
lợi ích.
Thế nào là
hoa lợi ích chúng sanh?
Nhờ nơi
đại Bồ Tát mà
chúng sanh được sanh làm người dòng sang quý, được sanh
cõi Trời Tứ Thiên Vương nhẫn đến
cõi Trời Phi
Phi Tưởng, đó là
hoa lợi ích.
Thế nào là quả
lợi ích chúng sanh?
Đại Bồ Tát đó được nhứt thiết
chủng trí làm cho
chúng sanh được quả
Tu Đà Hoàn nhẫn đến quả Phật,
chúng sanh này lần lần dùng pháp
ba thừa nhập nơi
vô dư Đại Niết Bàn, đó là quả
lợi ích chúng sanh.
Đại Bồ Tát đó chẳng thấy có thiệt
chúng sanh mà độ
chúng sanh khiến lìa
chấp ngã điên đảo.
Đại Bồ Tát nghĩ rằng: Trong tất cả
pháp không có
chúng sanh, ta vì
chúng sanh mà cầu nhứt thiết
chủng trí,
chúng sanh đó thiệt bất khả đắc”.
- Bạch đức Thế Tôn! Phải biết rằng
Bồ Tát đó như là Phật.
Tại sao vậy?
Vì
do nơi Bồ Tát đó mà dứt tất cả mầm giống
Địa ngục,
Súc sanh,
Ngạ quỷ, dứt tất cả mầm giống các nạn, bần cùng hạ tiện, dứt tất cả mầm giống cõi Dục, cõi Sắc, cõi
Vô sắc.
- Đúng như vậy. Này Tu Bồ Đề! Phải biết rằng
Bồ Tát đó như là Phật.
Này Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát chẳng
phát tâm cầu
Vô Thượng Bồ Đề thì
thế gian không có chư Phật
quá khứ,
vị lai,
hiện tại,
thế gian cũng không có
Bích Chi Phật,
A La Hán,
A Na Hàm,
Tư Đà Hàm,
Tu Đà Hoàn. Cũng không lúc nào dứt ba
ác đạo và
ba cõi.
Này Tu Bồ Đề! Đúng như lời người nói,
đại Bồ Tát đó như là Phật.
Tại sao vậy? Vì do như mà gọi là
Như Lai. Vì do như mà gọi là
Bích Chi Phật,
A La Hán và tất cả
Hiền Thánh. Vì do như mà gọi là sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Vì do như mà gọi là tất cả
pháp nhẫn đến tánh
hữu vi, tánh
vô vi. Những như đó đều như thiệt không sai khác, vì thế mà gọi là như.
Chư đại Bồ Tát học như đó được nhứt thiết
chủng trí, được gọi là
Như Lai.
Do
nhân duyên đó, do
hành tướng đó mà nói rằng phải biết
đại Bồ Tát như là Phật. Vì là tướng như.
Này Tu Bồ Đề! Thế nên
đại Bồ Tát phải học như
Bát nhã ba la mật.
Bồ Tát học như
Bát nhã ba la mật thì có thể học tất cả
pháp như. Học tất cả
pháp như thì được đầy đủ tất cả
pháp như. Được đầy đủ tất cả
pháp như rồi thì trụ tất cả
pháp như được
tự tại. Trụ tất cả
pháp như, được
tự tại rồi thì khéo biết căn của tất cả
chúng sanh. Khéo biết căn của tất cả
chúng sanh rồi thì khéo biết căn
cụ túc của tất cả
chúng sanh và khéo biết nghiệp
nhơn duyên của tất cả
chúng sanh.
Biết nghiệp
nhơn duyên của tất cả
chúng sanh rồi thì được
nguyện trí đầy đủ.
Được
nguyện trí đầy đủ rồi thì
tam thế huệ
thanh tịnh.
Tam thế huệ
thanh tịnh rồi thì
lợi ích tất cả
chúng sanh.
Lợi ích tất cả
chúng sanh rồi thì
thanh tịnh Phật quốc độ.
Thanh tịnh Phật quốc độ rồi thì được nhứt thiết
chủng trí.
Được nhứt thiết
chủng trí rồi thì
chuyển pháp luân.
Chuyển pháp luân rồi thì
an lập chúng sanh nơi
ba thừa khiến nhập
vô dư y Niết Bàn.
Như vậy, này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát muốn được tất cả
công đức lợi mình lợi người thì phải
phát tâm Vô Thượng Bồ Đề.
- Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát có thể
hành Bát nhã
ba la mật sâu xa đúng như lời, tất cả
thế gian, Trời, Người,
A tu la phải nên
đảnh lễ.
- Này Tu Bồ Đề! Đúng như vậy.
Đại Bồ Tát có thể
hành Bát nhã
ba la mật sâu xa đúng như lời, tất cả
thế gian, Trời, Người,
A tu la phải nên
đảnh lễ.
- Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát mới
phát tâm vì
chúng sanh mà cầu
Vô Thượng Bồ Đề được bao nhiêu phước đức?
- Này Tu Bồ Đề! Nếu
chúng sanh trong Tiểu Thiên
quốc độ đều
phát tâm Thanh Văn,
Bích Chi Phật, theo ý ngươi thế nào, phước của họ có nhiều chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều
vô lượng.
- Này Tu Bồ Đề! Phước của họ sánh với phước của
Bồ Tát mới
phát tâm chẳng bằng phần trăm, phần ngàn, phần muôn ức, nhẫn đến toán số
thí dụ cũng vẫn không bằng được.
Tại sao? Vì
phát tâm Thanh Văn,
Bích Chi Phật đều do
Bồ Tát mà ra. Còn
Bồ Tát trọn không do
Thanh Văn,
Bích Chi Phật mà ra.
Đến
Trung Thiên nhị thiên quốc độ và
Đại Thiên tam thiên quốc độ so sánh cũng như vậy.
Và để
chúng sanh trong
Đại Thiên tam thiên quốc độ phát tâm Thanh Văn,
Bích Chi Phật lại. Cứ như
chúng sanh trong
Đại Thiên tam thiên quốc độ đều trụ bực
Càn Huệ địa, bực
Tánh địa, bực Bát Nhơn địa, bực
Kiến địa, bực
Bạc địa, bực
Ly dục địa, bực Dĩ
Biên địa, bực
Bích Chi Phật địa, tất cả
phước đức đó nếu muốn đem sánh với
Bồ Tát mới
phát tâm thì vẫn chẳng bằng phần trăm, phần ngàn, phần muôn ức, nhẫn đến toán số
thí dụ đều chẳng bằng được.
Này Tu Bồ Đề!
Chư đại Bồ Tát mới
phát tâm trong
Đại Thiên quốc độ chẳng bằng
Bồ Tát nhập
pháp vị.
Chư đại Bồ Tát nhập
pháp vị trong
Đại Thiên quốc độ chẳng bằng
Bồ Tát hướng
Phật đạo. Chư
Bồ Tát hướng
Phật đạo trong
Đại Thiên quốc độ chẳng bằng
công đức của Phật, một phần trăm, phần ngàn, phần muôn ức, nhẫn đến toán số
thí dụ đều chẳng bằng được.
- Bạch đức Thế Tôn!
Bồ Tát mới
phát tâm nên niệm nhớ những pháp gì?
- Này Tu Bồ Đề! Nên niệm nhớ nhứt thiết
chủng trí.
- Bạch đức Thế Tôn! Những gì là nhứt thiết chủng trí? Những duyên gì,
tăng thượng gì, hành loại gì,
tướng mạo gì của nhứt thiết chủng trí?
- Này Tu Bồ Đề! Nhứt thiết
chủng trí không chỗ có, không niệm, không sanh, không
hiển thị.
Như
Tu Bồ Đề hỏi những duyên, những
tăng thượng, những hành, những tướng của nhứt thiết
chủng trí.
Này Tu Bồ Đề! Nhứt thiết
chủng trí không có pháp,
duyên niệm làm
tăng thượng,
tịch diệt làm hành,
vô tướng làm hướng. Đó gọi là duyên,
tăng thượng, hành và tướng của nhứt thiết
chủng trí.
- Bạch đức Thế Tôn! Chỉ có nhứt thiết
chủng trí không pháp, hay là sắc, thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến
hữu vi tướng,
vô vi tướng cũng không pháp?
- Này Tu Bồ Đề! Sắc nhẫn đến
hữu vi tướng,
vô vi tướng cũng
không pháp.
- Bạch đức Thế Tôn! Do
nhơn duyên gì mà nhứt thiết
chủng trí không pháp, sắc đến
hữu vi tướng,
vô vi tướng không pháp?
- Này Tu Bồ Đề! Vì nhứt thiết
chủng trí tự tánh không, nếu
pháp tự tánh không thì gọi là
không pháp. Sắc nhẫn đến
hữu vi tướng,
vô vi tướng cũng như vậy.
- Bạch đức Thế Tôn! Do
nhân duyên gì mà các
pháp tự tánh không?
- Này Tu Bồ Đề! Các pháp hòa hiệp
nhơn duyên sanh, trong
pháp không tự tánh,
nếu không tự tánh thì gọi là
không pháp.
Vì thế nên
đại Bồ Tát phải biết tất cả
pháp không tánh. Tại sao vậy? Vì tất cả
pháp tánh không vậy.
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu tất cả
pháp không tánh,
Bồ Tát mới
phát tâm dùng sức phương tiện gì để có thể hành
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật,
tịnh Phật quốc độ,
thành tựu chúng sanh, để có thể hành
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định,
nội không đến
vô pháp hữu pháp không,
tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo,
tam tam muội,
bát bội xả,
cửu thứ đệ định, Phật
thập lực,
tứ vô sở úy,
tứ vô ngại trí, mười
tám pháp bất cộng,
đại từ đại bi, nhứt thiết
chủng trí,
tịnh Phật quốc độ,
thành tựu chúng sanh?
- Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát có thể học các
pháp không tánh, cũng có thể
tịnh Phật quốc độ,
thành tựu chúng sanh, biết
quốc độ và
chúng sanh cũng
không tánh, đó chính là sức
phương tiện.
- Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát đó hành
sáu ba la mật tu học Phật đạo, nhẫn đến hành nhứt thiết
chủng trí tu học Phật đạo, cũng biết
Phật đạo không tánh.
Đại Bồ Tát này hành
sáu ba la mật tu học Phật đạo, nhẫn đến chưa
thành tựu Phật
thập lực,
tứ vô sở úy,
tứ vô ngại trí, mười
tám pháp bất cộng,
đại từ đại bi, nhứt thiết
chủng trí, đó là
tu học Phật đạo, khi đã đầy đủ
Phật đạo nhơn duyên rồi, dùng một niệm
tương ứng huệ được nhứt thiết
chủng trí,
đồng thời tất cả
phiền não tập khí dứt hẳn, vì chẳng sanh vậy.
Bấy giờ dùng
Phật nhãn nhìn xem
Đại Thiên quốc độ,
pháp không còn là
bất khả đắc, huống là pháp có.
Như vậy, này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát phải
hành không tánh
Bát nhã ba la mật.
Này Tu Bồ Đề! Đây gọi là sức
phương tiện của
đại Bồ Tát,
pháp không còn là
bất khả đắc, huống lá pháp có.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát này lúc
bố thí:
bố thí, người thọ và
Bồ Tát tâm,
pháp không còn chẳng biết được, huống là pháp có. Nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí: người được, pháp được và chỗ được,
pháp không còn chẳng biết được, huống là pháp có.
Tại sao? Vì tất cả
pháp bổn tánh như vậy. Chẳng phải do Phật làm, chẳng phải do
Thanh Văn,
Bích Chi Phật hay người khác làm. Vì tất cả
pháp không có
tác giả.
- Bạch đức Thế Tôn! Các
pháp tánh các pháp ly chăng?
- Đúng như vậy. Này Tu Bồ Đề! Các
pháp tánh các pháp ly.
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu các
pháp tánh các pháp ly, thì làm sao pháp ly lại biết được pháp ly, hoặc là có hoặc là không?
Tại sao? Vì
pháp không chẳng biết được
pháp không, pháp có chẳng biết được pháp có,
pháp không chẳng biết được pháp có, pháp có chẳng biết được
pháp không.
Bạch đức Thế Tôn! Như
vậy thì tất cả các
pháp không có tướng, tại sao
đại Bồ Tát lại
phân biệt pháp đó là có hay không?
- Này Tu Bồ Đề!
Do nơi thế tục đế mà
đại Bồ Tát vì
chúng sanh nói hoặc có hoặc không, chớ chẳng phải là
đệ nhứt nghĩa đế.
- Bạch đức Thế Tôn!
Thế tục đế cùng
đệ nhứt nghĩa đế khác nhau chăng?
- Này Tu Bồ Đề!
Thế đế cùng
đệ nhứt nghĩa đế không khác. Tại sao? Vì
thế đế như tức là
đệ nhứt nghĩa như. Bởi
chúng sanh chẳng thấy, chẳng biết như này nên
đại Bồ Tát dùng
thế đế dạy
chúng sanh mà nói hoặc có hoặc không.
Lại này Tu Bồ Đề! Vì
chúng sanh đối trong
năm ấm có chấp lấy tướng mà chẳng biết là
vô sở hữu. Vì dạy
chúng sanh đó mà
đại Bồ Tát nói hoặc có hoặc không, khiến
chúng sanh biết
vô sở hữu.
Như vậy, này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát phải nên
hành Bát nhã
ba la mật như vậy”.
PHẨM BỒ TÁT HẠNH
THỨ BẢY MƯƠI HAI
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “ Bạch đức Thế Tôn!
Đức Thế Tôn nói
Bồ Tát hạnh. Những gì là
Bồ Tát hạnh?”.
Đức Phật phán dạy: “Này Tu Bồ Đề!
Bồ Tát hạnh là vì
Vô Thượng Bồ Đề mà thật hành, đây gọi là
Bồ Tát hạnh”.
- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
đại Bồ Tát vì
Vô Thượng Bồ Đề mà thật hành, đây gọi là
Bồ Tát hạnh”.
- Này Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát hành
sắc không, hành, thọ, tưởng, hành, thức không, hành nhãn không đến ý, hành
sắc không đến pháp, hành
nhãn giới không đến
ý thức giới, hành
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật, hành
nội không,
ngoại không,
nội ngoại không,
không không,
đại không,
đệ nhứt nghĩa không,
hữu vi không,
vô vi không,
tất cánh không, vô thỉ không,
tán không,
chư pháp không,
tánh không,
tự tướng không,
vô pháp không,
hữu pháp không,
vô pháp hữu pháp không, hành
sơ thiền đến
tứ thiền, hành
từ bi hỷ xả, hành
hư không vô biên xứ đến
phi tưởng phi phi tưởng xứ, hành
tứ niệm xứ,
tứ chánh cần,
tứ như ý túc,
ngũ căn,
ngũ lực,
thất giác phần,
bát thánh đạo phần,
hành không tam muội,
vô tác tam muội,
hành bát bội xả, hành
cửu thứ đệ định,
hành Phật thập lực,
tứ vô sở úy,
tứ vô ngại trí, hành mười
tám pháp bất cộng, hành
đại từ đại bi, hành
tịnh Phật quốc độ, hành
thành tựu chúng sanh, hành các thứ
biện tài, hành
văn tự,
hành không văn tự, hành các môn
đà la ni, hành tánh
hữu vi, hành tánh
vô vi, tất cả hành đều như
Vô Thượng Bồ Đề duy nhứt, chẳng hành có hai sai khác.
Như vậy, này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật gọi là
Vô Thượng Bồ Đề hạnh, đây là
Bồ Tát hạnh.
- Bạch đức Thế Tôn!
Đức Thế Tôn nói Phật. Có nghĩa gì mà gọi là Phật?
- Này Tu Bồ Đề! Biết thiệt nghĩa của các pháp nên gọi là Phật.
Được
thiệt tướng của các pháp nên gọi là Phật.
Thông đại thiệt nghĩa nên gọi là Phật.
Biết tất cả các pháp đúng như thiệt nên gọi là Phật.
- Bạch đức Thế Tôn! Có nghĩa gì mà gọi là Bồ Đề?
- Này Tu Bồ Đề!
Nghĩa không là nghĩa
Bồ Đề. Nghĩa như, nghĩa
pháp tánh, nghĩa thiệt tế là nghĩa
Bồ Đề.
Lại này Tu Bồ Đề!
Danh tướng ngôn thuyết là nghĩa
Bồ Đề.
Này Tu Bồ Đề! Thiệt nghĩa của
Bồ Đề chẳng hoại được, chẳng
phân biệt được, đó là nghĩa
Bồ Đề.
Lại này Tu Bồ Đề!
Thiệt tướng của các pháp chẳng
hư dối, chẳng dị biệt là nghĩa
Bồ Đề. Vì thế nên gọi là
Bồ Đề.
Lại này Tu Bồ Đề!
Bồ Đề đó là
sở hữu của chư Phật nên gọi là
Bồ Đề.
Lại này Tu Bồ Đề! Chư Phật
Chánh Biến Tri nên gọi là
Bồ Đề.
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu
đại Bồ Tát vì
Bồ Đề đó mà hành
sáu ba la mật nhẫn đến hành nhứt thiết
chủng trí, đối với các pháp, gọi là đắc, là thất, là tăng, là giảm, là sanh, là diệt, là cấu, là tịnh?
- Này Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát vì
Bồ Đề mà hành
sáu ba la mật nhẫn đến hành nhứt thiết
chủng trí, đối với các
pháp không được, không mất, không thêm, không bớt, không sanh, không diệt, không nhơ, không sạch.
Tại sao vậy? Vì
đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật, chẳng vì được, mất, thêm, bớt, sanh, diệt, nhơ, sạch mà phát xuất.
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu
đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật chẳng vì được, mất, thêm, bớt, sanh, diệt, nhơ, sạch mà phát xuất, thì
đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật làm sao có thể lấy được
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật, làm sao hành
nội không đến
vô pháp hữu pháp không, làm sao hành
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định, làm sao hành
tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo, làm sao
hành không,
vô tướng,
vô tác giải thoát môn, làm sao
hành Phật thập lực,
tứ vô sở úy,
tứ vô ngại trí, mười
tám pháp bất cộng,
đại từ đại bi, làm sao hành
Bồ Tát thập địa, làm sao hơn bực
Thanh Văn, bực
Bích Chi Phật, nhập trong
Bồ Tát vị?
- Này Tu Bồ Đề! Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát vì chẳng lấy hai pháp mà hành
sáu ba la mật nhẫn đến vì chẳng lấy hai pháp mà hành nhứt thiết
chủng trí.
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu
đại Bồ Tát vì chẳng lấy hai pháp mà hành
sáu ba la mật, nhẫn đến vì chẳng lấy hai pháp mà hành nhứt thiết
chủng trí, thì
Bồ Tát từ lúc mới
phát tâm đến
tối hậu tâm làm sao thêm lớn căn lành?
- Này Tu Bồ Đề! Nếu lấy hai pháp mà hành thì căn lành chẳng thêm lớn được.
Tại sao? Vì tất cả
phàm phu đều nương hai pháp mà chẳng thêm lớn được căn lành.
Đại Bồ Tát chẳng lấy hai pháp mà hành nên từ
sơ tâm đến
hậu tâm, căn lành được thêm lớn. Vì thế nên tất cả
thế gian, Trời, Người,
A tu la đều không thể phục, không thể hoại được căn lành của
đại Bồ Tát để làm cho sa vào bực
Thanh Văn, bực
Bích Chi Phật và các pháp ác
bất thiện, đều không
thể chế ngự
đại Bồ Tát khiến chẳng thể hành
sáu ba la mật để thêm lớn căn lành.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát phải như
vậy mà hành Bát nhã
ba la mật.
- Bạch đức Thế Tôn! Có phải
đại Bồ Tát vì căn lành mà
hành Bát nhã
ba la mật?
- Này Tu Bồ Đề! Không phải vì căn lành, cũng chẳng phải chẳng vì căn lành, và cũng chẳng phải vì chẳng phải căn lành mà
đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật.
Tại sao vậy?
Này Tu Bồ Đề! Theo pháp
đại Bồ Tát, chưa
cúng dường chư Phật, chưa đầy đủ căn lành, chưa được chơn thiệt
tri thức, thì chẳng có thể được nhứt thiết
chủng trí.
- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
đại Bồ Tát cúng dường chư Phật, đầy đủ căn lành, được chơn
thiện tri thức có thể được nhứt thiết chủng trí?
- Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát từ lúc mới
phát tâm cúng dường chư Phật,
mười hai bộ kinh của chư Phật tuyên nói:
tu đa la nhẫn đến
luận nghị,
đại Bồ Tát đó nghe,
thọ trì, tụng thuộc,
suy gẫm, thấu rõ. Vì thấu rõ nên được
đà la ni. Vì được
đà la ni nên
phát khởi vô ngại trí. Vì
phát khởi vô ngại trí nên sanh về đâu, nhẫn đến khi được
nhứt thiết trí trọn chẳng quên mất.
Đại Bồ Tát cũng ở chỗ chư Phật trồng căn lành. Do
thiện căn đó
hộ trì mà trọn chẳng sa vào
ác đạo các nạn. Do nhờ
thiện căn đó mà được
thâm tâm thanh tịnh. Vì được
thâm tâm thanh tịnh nên có thể
tịnh Phật quốc độ,
thành tựu chúng sanh. Nhờ
thiện căn đó
gia hộ nên luôn chẳng xa rời
thiện tri thức, đó là chư Phật,
chư đại Bồ Tát và chư
Thanh Văn hay
tán thánh Phật Pháp Tăng.
Như vậy, này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát phải
cúng dường chư Phật, trồng căn lành, gần gũi chơn
thiện tri thức”.
PHẨM CHỦNG THIỆN CĂN
THỨ BẢY MƯƠI BA
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch Thế Tôn! Nếu
đại Bồ Tát chẳng
cúng dường chư Phật, chẳng đầy đủ căn lành, chẳng được chơn
thiện tri thức, sẽ được nhứt thiết
chủng trí chăng?”.
Đức Phật phán dạy: “Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát cúng dường chư Phật, trồng căn lành, được chơn
thiện tri thức còn khó được nhứt thiết
chủng trí, huống là không
cúng dường Phật, chẳng trồng căn lành, chẳng được chơn
thiện tri thức”.
- Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát cúng dường chư Phật, trồng căn lành, được chơn
thiện tri thức tại sao lại khó được nhứt thiết chủng trí?
- Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát đó xa rời sức
phương tiện, chẳng theo chư Phật nghe sức
phương tiện, chỗ trồng căn lành chẳng đầy đủ, chẳng thường theo sự chỉ dạy của chơn
thiện tri thức.
- Bạch đức Thế Tôn! Những gì là sức
phương tiện mà
đại Bồ Tát hành theo đó để được nhứt thiết chủng trí?
- Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát từ lúc mới
phát tâm hành
Đàn na ba la mật, đúng theo tâm
nhứt thiết trí mà
bố thí cho Phật hoặc
Bích Chi Phật hoặc
Thanh Văn, hoặc cho Nhơn hay
Phi Nhơn.
Đại Bồ Tát đó
lúc ấy chẳng sanh tưởng niệm
bố thí, chẳng sanh tưởng niệm người
lãnh thọ. Tại sao? Vì quán tất cả
pháp tự tướng không, không sanh,
không tướng, nhứt định, không chỗ chuyển mà nhập vào
thiệt tướng các pháp, đó là tướng
vô tác, vô khởi của tất cả pháp.
Đại Bồ Tát đó
dùng sức phương tiện này làm cho
thiện căn thêm lớn. Vì
thiện căn thêm lớn mà hành
Đàn na ba la mật,
tịnh Phật quốc độ,
thành tựu chúng sanh,
bố thí chẳng hưởng thọ
quả báo thế gian.
Đại Bồ Tát đó chỉ vì muốn
cứu độ tất cả
chúng sanh mà hành
Đàn na ba la mật.
Lại này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát từ lúc mới
phát tâm hành
Thi la ba la mật, đúng theo tâm nhứt thiết
chủng trí mà
trì giới, chẳng sa vào trong
dâm nộ si, cũng chẳng sa vào trong sự
phiền trược của
phiền não, và những pháp phá đạo
bất thiện như
xan tham,
phá giới,
sân khuể,
giải đãi, loạn ý,
ngu si, mạn, đại mạn, mạn mạn,
ngã mạn,
tăng thượng mạn, bất như mạn,
tà mạn, hoặc có tâm
Thanh Văn, hoặc có tâm
Bích Chi Phật.
Tại sao vậy? Vì đại
Bố Tát đó quán tất cả
pháp tự tướng không, không sanh,
không tướng nhứt định, không chỗ chuyển mà nhập vàp
thiệt tướng các pháp, đó là tướng
vô tác, vô khởi của các pháp. Vì
đại Bồ Tát đó
thành tựu sức
phương tiện này nên căn lành
Thi la ba la mật tịnh Phật quốc độ,
thành tựu chúng sanh,
trì giới chẳng tưởng thọ
quả báo thế gian, chỉ vì muốn
cứu độ tất cả
chúng sanh mà hành
Thi la ba la mật.
Lại này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát từ lúc mới
phát tâm hành
Sằn đề ba la mật, đúng theo tâm
nhứt thiết trí, vì sức
phương tiện thành tựu nên hành
kiến đế đạo và
tư duy đạo, nhưng chẳng lấy quả
Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm,
A La Hán. Tại sao? Vì
đại Bồ Tát đó biết các
pháp tự tướng không, không sanh,
không tướng nhứt định, không chỗ chuyển.
Đại Bồ Tát đó dầu hành các pháp
trợ đạo mà hơn bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật. Đây gọi là
đại Bồ Tát vô sanh pháp nhẫn.
Lại này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát từ lúc mới
phát tâm hành Tỳ lê gia
ba la mật, nhập
sơ thiền đến
tứ thiền, nhập
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định. Dầu xuất nhập các thiền mà chẳng thọ
quả báo. Tại sao? Vì
đại Bồ Tát đó
thành tựu sức
phương tiện, biết các
thiền định tự tướng không, không sanh,
không tướng nhứt định, không chỗ chuyển,
tịnh Phật quốc độ,
thành tựu chúng sanh,
tinh tấn mà chẳng hưởng thọ
quả báo thế gian. Chỉ vì muốn
cứu độ tất cả
chúng sanh mà hành
Tinh tấn ba la mật.
Lại này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát từ lúc mới
phát tâm hành
Thiền na ba la mật, đúng tâm
nhứt thiết trí nhập
bát bội xả,
cửu thứ đệ định, cũng chẳng
chứng quả Tu Đà Hoàn đến quả
A La Hán. Tại sao vậy? Vì
đại Bồ Tát đó biết các
pháp tự tướng không, không sanh,
không tướng nhứt định, không chỗ chuyển.
Lại này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát từ lúc mới
phát tâm hành Bát nhã
ba la mật, học Phật
thập lực, bốn
vô sở úy,
bốn vô ngại trí, mười
tám pháp bất cộng,
đại từ đại bi, nhẫn đến chưa được nhứt thiết
chủng trí, chưa
tịnh Phật độ, chưa
thành tựu chúnh sanh, trong
thời gian chặng giữa đó phải học như vậy. Tại sao? Vì
đại Bồ Tát đó biết các
pháp tự tướng không, không sanh,
không tướng nhứt định, không chỗ chuyển.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát phải
hành Bát nhã
ba la mật chẳng hưởng thọ
quả báo như vậy”.
PHẨM BIẾN HỌC
THỨ BẢY MƯƠI BỐN
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát đó
thành tựu đại trí huệ hành pháp rất sâu đó mà cũng chẳng hưởng thọ quả báo”.
Đức Phật phán dạy: “Đúng như vậy. Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát thành tựu đại trí huệ hành Bát nhã
ba la mật sâu xa đó cũng chẳng thọ lấy
quả báo. Tại sao vậy? Vì
Đại Bồ Tát đó ở trong các
pháp tánh bất động”.
- Bạch đức Thế Tôn! Trong các pháp, tánh gì bất động?
- Này Tu Bồ Đề! Trong tánh vô sỡ hữu
bất động. Trong tánh sắc
bất động. Trong tánh thọ, tưởng, hành, thức
bất động. Trong tánh
Đàn na ba la mật bất động. Trong tánh
Thi la ba la mật đến tánh
Bát nhã ba la mật bất động. Trong tánh
tứ thiền, tánh
tứ vô lượng tâm, tánh
vô sắc định bất động. Trong tánh
tứ niệm xứ đến tánh
bát thánh đạo phần bất động. Trong tánh
tam tam muội, tánh
đại từ đại bi bất động.
Tại sao vậy? Vì các
pháp tánh đó chính là
vô sở hữu. Vì pháp
vô sở hữu chẳng có thể được pháp
sở hữu.
- Bạch đức Thế Tôn! Pháp
sở hữu có thể được pháp
sở hữu chăng?
- Này Tu Bồ Đề! Không.
- Bạch đức Thế Tôn! Pháp
sở hữu có thể được pháp
vô sở hữu chăng?
- Này Tu Bồ Đề! Không.
- Bạch đức Thế Tôn! Pháp
vô sở hữu có được pháp
vô sở hữu chăng?
- Này Tu Bồ Đề! Không.
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu pháp
vô sở hữu chẳng có thể được pháp
sở hữu, pháp
sở hữu chẳng có thể được pháp
sở hữu, pháp
sở hữu chẳng có thể được pháp
vô sở hữu, pháp
sở hữu chẳng có thể được pháp
vô sở hữu, pháp
vô sở hữu chẳng có thể được pháp
vô sở hữu,
phải chăng đức Thế Tôn chẳng được đạo?
- Này Tu Bồ Đề! Có được, chẳng do bốn câu đó.
- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là có được?
- Này Tu Bồ Đề! Chẳng phải
sở hữu, chẳng phải không
sở hữu, không các
hí luận, đó gọi là được đạo.
- Bạch đức Thế Tôn! Những gì là
Đại Bồ Tát hí luận?
- Này Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát quan niệm sắc hoặc là thường hoặc là
vô thường, đó là
hí luận.
Quan niệm thọ, tưởng, hành, thức là thường hoặc
vô thường, đó là
hí luận.
Quan niệm sắc là khổ hoặc lạc, đó là
hí luận.
Quan niệm thọ, tưởng, hành, thức là khổ hoặc lạc, đó là
hí luận.
Quan niệm sắc là ngã, là
vô ngã, đó là
hí luận.
Quan niệm thọ, tưởng, hành, thức là ngã, là
vô ngã, đó là
hí luận.
Quan niệm sắc là
tịch diệt hoặc chẳng
tịch diệt, đó là
hí luận.
Quan niệm thọ, tưởng, hành, thức
tịch diệt hoặc chẳng
tịch diệt, đó là
hí luận.
Quan niệm khổ thánh đế phải thấy,
tập thánh đế phải dứt,
diệt thánh đế phải chứng, đạo
thánh đế phải tu, đó là
hí luận.
Quan niệm phải tu
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định, đó là
hí luận.
Quan niệm phải tu
tứ niệm xứ,
tứ chánh cần,
tứ như ý túc,
ngũ căn,
ngũ lực,
thất giác chi,
bát thánh đạo phần, đó là
hí luận.
Quan niệm phải tu
không giải thoát môn,
vô tướng giải thoát môn,
vô tác giải thoát môn, đó là
hí luận.
Quan niệm phải tu
bát bội xả,
cửu thứ đệ định, đó là
hí luận.
Quan niệm tôi phải hơn quả
Tu Đà Hoàn, quả
Tư Đà Hàm, quả
A Na Hàm, quả
A La Hán, đạo
Bích Chi Phật, đó là
hí luận. Tôi phải
trọn vẹn Bồ Tát thập địa, đó là
hí luận. Tôi phải nhập
Bồ Tát vị, đó là
hí luận. Tôi phải
tịnh Phật quốc độ, đó là
hí luận. Tôi phải
thành tựu chúng sanh, đó là
hí luận. Tôi phải phát
sanh Phật thập lực,
tứ vô sở úy,
tứ vô ngại trí, mười
tám pháp bất cộng, đó là
hí luận. Tôi sẽ được nhứt thiết
chủng trí, đó là
hí luận. Tôi sẽ dứt
tập khí tất cả
phiền não, đó là
hí luận.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát đó lúc
hành Bát nhã
ba la mật, vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí chẳng
hí luận được nên chẳng
hí luận.
Tại sao vậy? Tánh chẳng
hí luận tánh,
vô tánh chẳng
hí luận vô tánh. Rời ngoài tánh và
vô tánh không còn pháp gì có thể được để gọi là kẻ
hí luận, là pháp
hí luận và chỗ
hí luận.
Thế nên, này Tu Bồ Đề! Sắc nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí không
hí luận.
Như vậy, này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát phải hành vô
hí luận Bát nhã ba la mật.
- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là sắc chẳng
hí luận được, nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí chẳng
hí luận được?
- Này Tu Bồ Đề! Sắc
tánh không, nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí tánh không.
Nếu
pháp tánh không tức là không
hí luận. Vì thế nên sắc nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí chẳng
hí luận được.
Này Tu Bồ Đề! Nếu
Đại Bồ Tát hay hành vô
hí luận Bát nhã ba la mật như
vậy thì liền được nhập
Bồ Tát vị.
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu
pháp không có tánh,
Bồ Tát hành đạo gì mà nhập
Bồ Tát vị? Dùng
Thanh Văn đạo, dùng Bích Chi đạohay dùng Phật đạo?
- Này Tu Bồ Đề! Chẳng dùng
Thanh Văn đạo, chẳng dùng
Bích Chi Phật đạo, chẳng dùng
Phật đạo mà được vào
Bồ Tát vị.
Đại Bồ Tát học khắp các đạo mà được vào
Bồ Tát vị.
Này Tu Bồ Đề! Như Bát Nhơn trước học các đạo rồi sau mới vào chánh vị, chưa được quả mà trước sanh đạo của quả.
Cũng vậy,
Bồ Tát trước học khắp các đạo rồi sau mới nhập
Bồ Tát vị, chưa được nhứt thiết
chủng trí mà trước
sanh khởi kim cang tam muội. Bấy giờ dùng một niệm
tương ứng huệ được nhứt thiết
chủng trí.
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu
Đại Bồ Tát học khắp các đạo nhập
Bồ Tát vị,
vậy thì Bát Nhơn hướng
Tu Đà hoàn được
Tu Đà Hoàn, hướng
Tư Đà Hàm được
Tư Đà Hàm, hướng
Đại Bồ Tát Na Hàm được
A Na Hàm, hướng
A La Hán được
A La Hán,
Bích Chi Phật đạo,
Phật đạo. Các đạo như vậy đều riêng khác.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu
Đại Bồ Tát học khắp các đạo rồi sau nhập
Bồ Tát vị,
Bồ Tát này nếu sanh
bát đạo lẽ ra phải làm Bát Nhơn, nếu sanh
kiến đạo lẽ ra phải làm
Tu Đà hoàn, nếu sanh
tư duy đạo lẽ ra phải làm
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm, là
A La Hán, nếu sanh
Bích Chi Phật đạo lẽ ra phải làm
Bích Chi Phật.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu
Đại Bồ Tát mà làm Bát Nhơn rồi sau nhập
Bồ Tát vị thì không bao giờ có. Chẳng nhập
Bồ Tát vị mà được nhứt thiết
chủng trí cũng không bao giờ có. Nếu
Đại Bồ Tát mà làm
Tu Đà Hoàn nhẫn đến làm
Bích Chi Phật rồi sau nhập
Bồ Tát vị cũng không bao giờ có. Chẳng nhập
Bồ Tát vị mà được nhứt thiết
chủng trí cũng không bao giờ có.
Bạch đức Thế Tôn! Tôi phải nên biết thế nào về
Đại Bồ Tát khắp học các đạo được nhập
Bồ Tát vị?
- Đúng như vậy. Này Tu Bồ Đề! Nếu
Đại Bồ Tát mà làm Bát Nhơn, được quả
Tu Đà Hoàn nhẫn đến được quả
A La Hán, được quả
Bích Chi Phật đạo rồi sau nhập
Bồ Tát vị, không bao giờ có. Chẳng nhập
Bồ Tát vị mà được nhứt thiết
chủng trí cũng không bao giờ có.
Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát từ lúc mới
phát tâm hành
sáu ba la mật, dùng
trí quán tâm địa. Những gì là tám? Đó là
Càn Huệ địa,
Tánh địa, Bát Nhơn địa,
Kiến địa,
Bạc địa,
Ly Dục địa,
Dĩ Biện địa và
Bích Chi Phật địa, dùng
đạo chủng trí nhập
Bồ Tát vị. Sau khi đã nhập
Bồ Tát vị, dùng nhứt thiết
chủng trí dứt tất cả
tập khí phiền não.
Này Tu Bồ Đề! Hoặc là trí, hoặc là đoạn của bực Bát nhơn, của bực
Tu Đà Hoàn, nhẫn đến hoặc là
trí hoặc là đoạn của
A La Hán, của
Bích Chi Phật đều là
vô sanh pháp nhẫn của
Bồ Tát đó.
Bồ Tát đó
học đạo Thanh Văn, đạo
Bích Chi Phật như vậy, dùng
đạo chủng trí nhập
Bồ Tát vị. Nhập
Bồ Tát vị rồi dùng nhứt thiết
chủng trí dứt tất cả
tập khí phiền não được
Phật đạo.
Như vậy, Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát hoặc khắp các đạo đầy đủ thì được
Vô Thượng Bồ Đề. Được
Vô Thượng Bồ Đề rồi thì
lợi ích tất cả
chúng sanh.
- Bạch đức Thế Tôn! Đạo của
đức Thế Tôn tuyên nói:
Thanh Văn đạo,
Bích Chi Phật đạo và
Phật đạo. Những gì là
đạo chủng trí của Bồ Tát?
- Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát phải
sanh khởi tất cả đạo chủng tịnh trí.
Những gì đạo chủng tịnh trí?
Như
tướng mạo các pháp, những pháp có thể
hiển thị được,
Bồ Tát phải chánh tri. Đã chánh tri rồi vì người khác mà
diễn thuyết khai thị, làm cho
chúng sanh được hiểu.
Đại Bồ Tát này phải hiểu tất cả
âm thanh ngữ ngôn. Dùng
âm thanh đó mà
thuyết pháp khắp cùng
Đại Thiên thế giới dường như
tiếng vang.
Vì thế nên, Này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát trước phải học đầy đủ tất cả đạo.
Đạo trí đầy đủ rồi
phân biệt biết
thâm tâm của
chúng sanh. Đó là
chúng sanh Địa ngục đạo,
Súc sanh đạo,
Ngạ quỷ đạo,
Địa ngục,
Súc sanh,
Ngạ quỷ nhơn,
Địa ngục,
Súc sanh,
Ngạ quỷ quả,
Bồ Tát phải biết, phải ngăn.
Long thần,
A tu la,
Bát bộ đạo nhơn và quả,
Bồ Tát phải biết, phải ngăn. Nhơn,
Thiên đạo nhơn và quả,
Bồ Tát phải biết.
Tứ niệm xứ đến
Bát thánh đạo phần nhơn và quả,
Bồ Tát phải biết. Không,
vô tướng,
vô tác giải thoát môn, Phật
thập lực,
tứ vô sở úy,
tứ vô ngại trí, mười
tám pháp bất cộng,
đại từ đại bi nhơn và quả,
Bồ Tát phải biết.
Bồ Tát dùng đạo này làm cho
chúng sanh nhập quả
Tu Đà Hoàn đến quả
A La Hán,
nhập đạo Bích Chi Phật và đạo
Vô Thượng Bồ Đề.
Này Tu Bồ Đề! Đó gọi là
tịnh đạo chủng trí của
đại Bồ Tát.
Bồ Tát học đạo chủng trí này rồi vào tướng
thâm tâm của
chúng sanh. Vào xong,
tùy theo tâm của
chúng sanh mà
thuyết pháp đúng chỗ,
lời nói chẳng luống.
Tại sao vậy? Vì
đại Bồ Tát đó khéo biết căn tướng của
chúng sanh, khéo biết tâm và
tâm sở của tất cả
chúng sanh,
sống chết đi về đâu.
Này Tu Bồ Đề! Phải
hành Bát nhã
ba la mật như vậy.
Tại sao? Vì tất cả
pháp hành, tất cả pháp
trợ đạo đều vào trong
Bát nhã ba la mật mà
chư Đại Bồ Tát, chư
Thanh Văn, chư
Bích Chi Phật phải hành.
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu
tứ niệm xứ đến
Vô Thượng Bồ Đề, tất cả pháp đó đều chẳng hiệp, chẳng tan,
không sắc, không hình, không đối, là nhứt tướng, đó là
vô tướng, thì những pháp
trợ đạo đó thế nào lại có thể lấy được
Vô Thượng Bồ Đề?
Bạch đức Thế Tôn! Pháp nhứt tướng chẳng hiệp, chẳng tan,
không sắc, không hình, không đối, đó là pháp
vô tướng, không chỗ lấy, không chỗ bỏ, như
hư không, không lấy không bỏ.
- Này Tu Bồ Đề! Đúng như vậy. Các
pháp tự tướng không, không chỗ lấy, không chỗ bỏ.
Này Tu Bồ Đề! Có những
chúng sanh chẳng biết các
pháp tự tướng không. Vì những
chúng sanh đó mà
hiển thị pháp
trợ đạo làm cho họ đến
Vô Thượng Bồ Đề.
Lại này Tu Bồ Đề! Bao nhiêu những pháp: sắc, thọ, tưởng, hành, thức,
lục độ, mười tám không,
bốn thiền,
bốn tâm vô lượng, bốn
định vô sắc,
bốn niệm xứ đến
tám thánh đạo phần,
ba môn giải thoát, tám bội xả,
chính định thứ đệ, Phật
thập lực, bốn
vô úy, bốn trí
vô ngại, mười
tám pháp bất cộng,
đại từ đại bi, nhứt thiết
chủng trí, trong những
thánh pháp này đều không hiệp, không hình,
không sắc, không đối, là nhứt tướng, đó là
vô tướng.
Vì dùng pháp
thế tục tuyên nói cho
chúng sanh được hiểu, chớ chẳng phải dùng
đệ nhứt nghĩa.
Này Tu Bồ Đề! Ở trong tất cả pháp này,
Đại Bồ Tát phải dùng trí thấy biết mà học. Học xong,
phân biệt các pháp nên dùng hay chẳng nên dùng.
- Bạch đức Thế Tôn! Những pháp gì
Bồ Tát phân biệt rồi nên dùng hay chẳng nên dùng?
- Này Tu Bồ Đề! Pháp
Thanh Văn,
pháp Bích Chi Phật,
Bồ Tát phân biệt biết nhưng chẳng nên dùng.
Nhứt thiết
chủng trí,
Bồ Tát phân biệt biết và nên dùng.
Như vậy, này Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát ở trong những
thánh pháp đó, phải học
Bát nhã ba la mật.
- Bạch đức Thế Tôn! Do cớ gì mà gọi
thánh pháp và những gì là thánh pháp?
- Này Tu Bồ Đề! Chư
Thanh Văn, chư
Bích Chi Phật,
chư Đại Bồ Tát và chư Phật nơi tham, sân, si, mạn, nghi,
ác kiến chẳng hiệp, chẳng tan, nơi sắc nhiễm,
vô sắc nhiễm, điệu cử,
tán loạn,
vô minh chẳng hiệp, chẳng tan, nơi
sơ thiền đến
tứ thiền chẳng hiệp, chẳng tan, nơi
từ bi hỉ xả đến phi
phi tưởng xứ chẳng hiệp, chẳng tan, nơi
tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo phần chẳng hiệp, chẳng tan, nơi
nội không đến
đại bi,
hữu vi,
vô vi tánh chẳng hiệp, chẳng tan.
Tại sao vậy? Vì tất cả pháp đó đều
không sắc, không hình, không đối, nhứt tướng, đó là
vô tướng.
Pháp
vô sắc với pháp
vô sắc không hiệp, không tan. Pháp vô hình với pháp vô hình chẳng hiệp, chẳng tan. Pháp
vô đối với pháp
vô đối chẳng hiệp, chẳng tan. Pháp nhứt tướng với pháp nhứt tướng chẳng hiệp, chẳng tan. Pháp
vô tướng với pháp
vô tướng chẳng hiệp, chẳng tan.
Này Tu Bồ Đề!
Bát nhã ba la mật vô sắc, vô hình,
vô đối, nhứt tướng, đó là
vô tướng này,
chư đại Bồ Tát phải học. Học xong, chẳng được các
pháp tướng.
- Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát chẳng học tướng sắc, tướng thọ, tưởng, hành, thức chăng?
Chẳng học tướng nhãn đến tướng ý, chẳng học tướng sắc đến tướng pháp, chẳng học tướng
địa chủng đến tướng thức chủng ư?
Chẳng học tướng
Đàn na ba la mật đến tướng
Bát nhã ba la mật ư?
Chẳng học tướng
nội không đến tướng
vô pháp hữu pháp không ư?
Chẳng học tướng
tứ thiền, tướng
tứ vô lượng tâm, tướng
tứ vô sắc định ư?
Chẳng học tướng
tứ niệm xứ đến tướng
bát thánh đạo phần ư?
Chẳng học
tướng không, tướng
vô tướng, tướng
vô tác ư?
Chẳng học tướng
bát bội xả, tướng
cửu thứ đệ định ư?
Chẳng học tướng
thập lực đến
tướng đại từ
đại bi ư?
Chẳng học tướng
tứ đế, tướng
thuận nghịch mười hai
nhơn duyên ư?
Chẳng học tướng
hữu vi tánh,
vô vi tánh ư?
Bạch đức Thế Tôn! Nếu chẳng học các
pháp tướng thì
Đại Bồ Tát làm sao lại học các
pháp tướng để vượt hơn bực
Thanh Văn, bực Bích Chi Phật?
Nếu chẳng vượt hơn bực
Thanh Văn, bực
Bích Chi Phật thì làm sao nhập
Bồ Tát vị?
Nếu chẳng nhập
Bồ Tát vị thì làm sao sẽ được nhứt thiết chủng trí?
Nếu chẳng được nhứt thiết
chủng trí làm sao sẽ chuyển pháp luân?
Nếu chẳng
chuyển pháp luân thì làm sao dùng
ba thừa độ
chúng sanh thoát sanh tử?
- Này Tu Bồ Đề! Nếu các
pháp thiệt có tướng,
Bồ Tát nên học tướng đó.
Này Tu Bồ Đề! Bởi tất cả
pháp thiệt không tướng,
không sắc, không hình, không đối, là nhứt tướng, đó là
vô tướng. Vì thế nên
Đại Bồ Tát chẳng học tướng, chẳng học
vô tướng. Tại sao? Vì có Phật hay không Phật, các pháp vẫn nhứt tướng, vẫn tánh
thường trụ.
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu các pháp chẳng phải có tướng, chẳng phải
không tướng, thì
đại Bồ Tát làm sao tu
Bát nhã ba la mật? Nếu chẳng tu
Bát nhã ba la mật thì chẳng vượt hơn bực
Thanh Văn, bực
Bích Chi Phật. Nếu chẳng vượt hơn bực
Thanh Văn, bực
Bích Chi Phật thì chẳng nhập
Bồ Tát vị. Nếu chẳng nhập
Bồ Tát vị thì chẳng được
vô sanh pháp nhẫn. Nếu chẳng được
vô sanh pháp nhẫn thì không thể được các thứ
thần thông của
Bồ Tát. Nếu chẳng được
Bồ Tát thần thông thì không thể
tịnh Phật quốc độ,
thành tựu chúng sanh. Nếu chẳng
tịnh Phật quốc độ,
thành tựu chúng sanh thì không thể được nhứt thiết
chủng trí. Nếu chẳng được nhứt thiết
chủng trí thì không thể
chuyển pháp luân. Nếu chẳng
chuyển pháp luân thì không thể làm cho
chúng sanh được các quả:
Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm,
A La Hán, đạo
Bích Chi Phật và
Vô Thượng Bồ Đề. Cũng chẳng thể làm cho
chúng sanh được phước
bố thí,
trì giới, phước
tu thiền định.
- Này Tu Bồ Đề! Đúng như vậy. Các pháp
vô tướng: Chẳng phải nhứt tướng,
dị tướng. Nếu tu
vô tướng là tu
Bát nhã ba la mật.
- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào tu
vô tướng là tu
Bát nhã ba la mật?
- Này Tu Bồ Đề! Tu các pháp hư hoại là tu
Bát nhã ba la mật.
- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là tu các pháp hư hoại là tu
Bát nhã ba la mật?
- Này Tu Bồ Đề! Tu sắc hoại, thọ, tưởng, hành, thức hoại là tu
Bát nhã ba la mật.
Tu nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý hoại, tu sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp hoại, tu
bất định quán hoại là tu
Bát nhã ba la mật.
Tu
sơ thiền,
nhị thiền,
tam thiền,
tứ thiền hoại là tu
Bát nhã ba la mật.
Tu từ, bi, hỉ, xả hoại là tu
Bát nhã ba la mật.
Tu
không vô biên xứ,
thức vô biên xứ,
vô sở hữu xứ,
phi hữu tưởng phi
vô tưởng xứ hoại là tu
Bát nhã ba la mật.
Tu
niệm Phật,
niệm Pháp,
niệm Tăng,
niệm giới,
niệm xả,
niệm Thiên,
A na bát ba hoại là tu
Bát nhã ba la mật.
Tu tướng
vô thường, tướng khổ, tướng
vô ngã,
tướng không, tướng tập, tướng nhơn, tướng sanh, tướng duyên, tướng bế, tướng diệt, tướng diệu, tướng xuất, tướng đạo, tướng chánh, tướng tích, tướng ly đều hoại là tu
Bát nhã ba la mật.
Tu nhập nhị
nhơn duyên hoại, tu tướng ngã nhơn,
chúng sanh,
thọ giả, nhẫn đến tướng
tri giả,
kiến giả hoại là tu
Bát nhã ba la mật.
Tu tướng thường, lạc, ngã, tịnh hoại là tu
Bát nhã ba la mật.
Tu
tứ niệm xứ nhẫn đến tu
bát thánh đạo phần hoại là tu
Bát nhã ba la mật.
Tu
không tam muội,
vô tướng tam muội,
vô tác tam muội hoại là tu
Bát nhã ba la mật.
Tu hữu giác hữu quán
tam muội, vô giác hữu quán
tam muội, vô giác vô quán
tam muội hoại là tu
Bát nhã ba la mật.
Tu
khổ thánh đế,
tập thánh đế,
diệt thánh đế, đạo
thánh đế hoại là tu
Bát nhã ba la mật.
Tu
khổ trí,
tập trí,
diệt trí,
đạo trí hoại là tu
Bát nhã ba la mật.
Tu
tận trí,
vô sanh trí hoại là tu
Bát nhã ba la mật.
Tu pháp trí, tỉ trí,
thế trí,
tha tâm trí hoại là tu
Bát nhã ba la mật.
Tu
sáu ba la mật hoại là tu
Bát nhã ba la mật.
Tu
nội không hoại nhẫn đến
vô pháp hữu pháp không hoại là tu
Bát nhã ba la mật.
Tu Phật thập lực nhẫn đến
bất cộng pháp hoại là tu
Bát nhã ba la mật.
Tu quả
Tu Đà Hoàn nhẫn đến quả
A La Hán, đạo
Bích Chi Phật hoại là tu
Bát nhã ba la mật.
Tu
nhứt thiết trí hoại là tu
Bát nhã ba la mật.
Tu dứt hẳn
tập khí tất cả
phiền não hoại là tu
Bát nhã ba la mật.
- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào gọi là tu sắc hoại nhẫn đến tu dứt hẳn
tập khí tất cả
phiền não hoại là tu
Bát nhã ba la mật?
Này Tu Bồ Đề! Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
Đại Bồ Tát chẳng
quan niệm có
sắc pháp, có thọ, tưởng, hành, thức pháp, nhẫn đến chẳng
quan niệm có dứt hẳn
tập khí tất cả
phiền não pháp, đó là tu
Bát nhã ba la mật.
Tại sao vậy?
Vì người
quan niệm có pháp là chẳng tu
Bát nhã ba la mật. Người
quan niệm có pháp là chẳng tu
Đàn na ba la mật đến chẳng tu
Bát nhã ba la mật.
Này Tu Bồ Đề! Vì người đó
chấp trước nơi pháp, chẳng hành
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật.
Người
chấp trước như vậy, không có
giải thoát, không có đạo, không có
Niết Bàn.
Tu
bát bội xả,
cửu thứ đệ định hoại là tu
Bát nhã ba la mật.
Người có
quan niệm có pháp, chẳng tu
tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo phần, chẳng tu
không tam muội đến nhứt thiết
chủng trí. Vì người đó
chấp trước pháp vậy.
- Bạch đức Thế Tôn! Những gì là có pháp? Những gì là không pháp?
- Này Tu Bồ Đề! Hai là có pháp, không hai là
không pháp.
- Bạch đức Thế Tôn! Những gì là hai?
- Này Tu Bồ Đề!
Sắc tướng đến thức tướng là hai. Nhãn tướng đến ý tướng là hai.
Sắc tướng đến
pháp tướng là hai.
Đàn na ba la mật tướng đến Phật tướng là hai.
Vô Thượng Bồ Đề tướng đến
vô vi tánh là hai.
- Này Tu Bồ Đề! Tất cả tướng là hai cả. Tất cả hai đều là có pháp.
Vừa có pháp liền có
sanh tử.
Vừa có
sanh tử liền chẳng rời được những sanh, già, bịnh, chết, buồn
khổ não.
Này Tu Bồ Đề! Vì thế nên phải biết tướng hai có pháp thì không có
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật, không có đạo, không có quả, nhẫn đến không có
thuận nhẫn, huống là thấy
sắc tướng nhẫn đến thấy nhứt thiết
chủng trí tướng.
Nếu không tu tập đạo hành làm sao được quả
Tu Đà hoàn đến quả
A La Hán, đạo
Bích Chi Phật,
Vô Thượng Bồ Đề và dứt hẳn
tập khí tất cả phiền não!”.