KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT
Hán dịch: Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập - Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Viện Phật Học Phổ Hiền Xuất Bản PL. 2530 DL 1986 (Trọn bộ 3 tập)
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn hành P.L 2539 DL. 1995 (Trọn bộ 3 tập)
QUYỂN THỨ MƯỜI HAI
PHẨM TƯƠNG TỢ
THỨ BA MƯƠI TÁM
(Phần dưới)
Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Những gì là tương tợ
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Có
Thiện nam,
thiện nữ nói
sở hữu đắc
Bát nhã ba la mật, đây là tương tợ
Bát nhã ba la mật”.
Thiên Đế thưa: “Thế nào là
thiện nam,
thiện nữ nói
hữu sở đắc Bát nhã ba la mật, đây là tương tợ
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Thiện nam,
thiện nữ nói rằng sắc
vô thường, thọ, tưởng, hành, thức
vô thường, thật hành vậy là thật
hành Bát nhã
ba la mật. Người
tu hành cầu sắc
vô thường,
cầu thọ, tưởng, hành, thức
vô thường. Đây là thật hành tương tợ
Bát nhã ba la mật.
Nói nhãn
vô thường đến ý
vô thường, nói sắc
vô thường đến pháp
vô thường, nói
nhãn giới,
sắc giới,
nhãn thức giới vô thường đến
ý thức giới,
pháp giới,
ý thức giới
vô thường, nói
địa chủng vô thường đến thức chủng
vô thường, nói nhãn xúc
vô thường đến ý xúc
vô thường, nói nhãn xúc
nhơn duyên sanh thọ
vô thường đến ý xúc,
nhơn duyên sanh thọ
vô thường.
Như nói về
vô thường, nói khổ, nói
vô ngã cũng như vậy.
Lúc
hành giả thật hành
Đàn na ba la mật, vì sắc đến ý xúc,
nhơn duyên, sanh thọ
vô thường, khổ,
vô ngã, có thể thật hành như vậy là thật
hành Bát nhã
ba la mật.
Như lúc thật hành
Đàn na ba la mật, lúc thật hành Thi là
ba la mật đến
Bát nhã ba la mật, lúc thật hành
tứ thiền đến
tứ vô sắc định, lúc thật hành
tứ niệm xứ đến
nhứt thiết trí, cũng vì nói
vô thường, khổ,
vô ngã, có thể thật hành như vậy là thật
hành Bát nhã
ba la mật.
Nầy Kiều Thi Ca! Như trên đó gọi là tương tợ
Bát nhã ba la mật.
Lại nầy Kiều Thi Ca! Thuở
vị lai,
thiện nam,
thiện nữ nói tương tợ
Bát nhã ba la mật rằng các người
tu hành Bát nhã ba la mật. Lúc
tu hành Bát nhã ba la mật, các người sẽ được
Sơ địa đến
Thập địa. Với
Thiền na đến
Đàn na ba la mật cũng nói như vậy.
Nghe lời giải thuyết như trên,
hành giả tương tợ
hữu sở đắc, dùng
tổng tướng tu
Bát nhã ba la mật nầy. Đây gọi là tương tợ
Bát nhã ba la mật.
Lại nầy Kiều Thi Ca!
Thiện nam,
thiện nữ muốn nói
Bát nhã ba la mật, bảo rằng các người
tu hành Bát nhã ba la mật rồi sẽ hơn hàng
Thanh văn,
Bích Chi Phật. Đây gọi là nói tương tợ
Bát nhã ba la mật.
Lại nầy Kiều Thi Ca!
Thiện nam,
thiện nữ vì cầu
Phật đạo, nên
giải thuyết rằng các người
tu hành Bát nhã ba la mật xong, sẽ nhập
Bồ Tát vị, được
vô sanh pháp nhẫn. Đã được
vô sanh pháp nhẫn bèn trụ
Bồ Tát thần thông, từ một
Phật quốc đến một
Phật quốc,
cúng dường,
cung kính,
tôn trọng,
tán thán chư Phật. Đây là
giải thuyết tương tợ
Bát nhã ba la mật.
Lại nầy Kiều Thi Ca! Vì cầu
Phật đạo,
thiện nam,
thiện nữ giải thuyết rằng các người học
Bát nhã ba la mật nầy,
thọ trì,
đọc tụng, chánh
ức niệm, thời sẽ được
vô lượng vô biên vô số công đức. Đây gọi là nói tương tợ
Bát nhã ba la mật.
Lại nầy Kiều Thi Ca! Vì cầu
Phật đạo,
thiện nam,
thiện nữ nói rằng như
quá khứ,
vị lai,
hiện tại chư Phật, tất cả
công đức thiện căn từ
sơ phát tâm đến
thành Phật, đều
hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Đây là
giải thuyết tương tợ
Bát nhã ba la mật”.
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Thiện nam,
thiện nữ vì cầu
Phật đạo, thế nào là chẳng nói tương tợ
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Nếu vì cầu
Phật đạo,
thiện nam,
thiện nữ giải thuyết Bát nhã ba la mật như vầy: Nầy
thiện nam tử! Nhà ngươi
tu hành Bát nhã ba la mật chớ quán sắc
vô thường.
Tại sao vậy? Vì sắc sác tánh rỗng không. Sắc tánh ấy chẳng phải pháp. Nếu chẳng phải pháp, thời gọi là
Bát nhã ba la mật.
Trong
Bát nhã ba la mật, sắc chẳng phải thường, chẳng phải
vô thường.
Tại sao vậy? Vì trong
Bát nhã ba la mật, sắc còn
bất khả đắc, huống là thường với
vô thường.
Giải thuyết thọ, tưởng, hành và thức cũng như vậy.
Giải thuyết như vậy thời gọi là chẳng nói tương tợ
Bát nhã ba la mật.
Lại nầy Kiều Thi Ca! Vì cầu
Phật đạo,
thiện nam,
thiện nữ nói rằng: Nhà ngươi
tu hành Bát nhã ba la mật, đối với các pháp chớ có đi qua cũng chớ có đi lại.
Tại sao vậy?
Vì trong
Bát nhã ba la mật, không có pháp gì qua được, đứng được. Bởi tất cả
pháp tự tánh rỗng không.
Tự tánh rỗng không là chẳng phải pháp. Nếu chẳng phải
pháp thời tức là
Bát nhã ba la mật.
Trong
Bát nhã ba la mật không có pháp gì nhập được, xuất được, sanh được, diệt được.
Giải thuyết như vậy thời gọi là chẳng nói tương tợ
Bát nhã ba la mật.
Nhẫn đến nói rộng như vậy trái hẳn với tương tợ, thời gọi là chẳng nói tương tợ
Bát nhã ba la mật.
Nầy Kiều Thi Ca!
Thiện nam,
thiện nữ phải nghĩa
Bát nhã ba la mật như vậy.
Nếu nói nghĩa
Bát nhã ba la mật như vậy, thời được
công đức hơn trước.
Nầy Kiều Thi Ca! Nếu có người
giáo hóa tất ca
chúng sanh trong
Diêm Phù Đề, trong
tứ thiên hạ, trong
Tiểu thiên thế giới, trong
Trung thiên thế giới, trong
Đại thiên thế giới, nhẫn đến
giáo hóa tất cả
chúng sanh trong
hằng sa quốc độ mười phương đều được quả
Tu Đà Hoàn, quả
Tư Đà Hàm, quả
A Na Hàm, quả
A La Hán, quả
Bích Chi Phật.
Ngài nghĩ thế nào, người nầy được phước nhiều chăng?”
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Người nầy được phước rất nhiều”.
Đức Phật nói: “Vẫn không bằng
thiện nam,
thiện nữ đem nghĩa
Bát nhã ba la mật nầy, dùng nhiều
nhơn duyên vì người khác
giải thuyết, khai thị,
phân biệt cho họ
hiểu biết. Bảo rằng các người đến
lãnh thọ Bát nhã ba la mật nầy, siêng đọc siêng tụng, gảii thuyết, chánh
ức niệm. Thật hành đúng như trong
Bát nhã ba la mật đây nói.
Tại sao vậy? Vì trong
Bát nhã ba la mật xuất sanh hàng
Tu Đà Hoàn đến đạo
Bích Chi Phật vậy.
Lại nầy Kiều Thi Ca!
Thiện nam,
thiện nữ giáo hóa chúng sanh trong một
Diêm Phù Đề nhẫn đến giáo
chúng sanh trong
hằng sa quốc độ mười phương, làm cho
phát tâm Bồ đề nhẫn đến làm cho được bực
bất thối chuyển, dầu được phước rất nhiều, nhưng vẫn không bằng người đem
Bát nhã ba la mật giảng thuyết cho người khác, dùng những
nhơn duyên khái thị,
phân biệt cho họ được
hiểu biết, bảo họ
tu hành đúng như lời dạy trong
Bát nhã ba la mật, sẽ được
nhứt thiết trí và
Vô thượng Bồ đề.
Tại sao vậy? Vì trong
Bát nhã ba la mật xuất sanh những
đại Bồ Tát sơ phát tâm, nhẫn đến xuất sanh những
đại Bồ Tát bất thối chuyển.
Lại nầy Kiều Thi Ca!
Chúng sanh trong một
Diêm Phù Đề nhẫn đến trong
hằng sa thế giới mười phương phát tâm cầu
Vô thượng Bồ đề. Nếu có
thiện nam,
thiện nữ vì họ mà giảng rộng nghĩa
Bát nhã ba la mật và khai thị,
phân biệt cho họ được
hiểu biết.
Có người vì một
Bồ Tát bất thối chuyển mà
diễn thuyết Bát nhã ba la mật và khai thị,
phân biệt cho được
hiểu biết, người nầy được phước rất nhiều.
Lại Nầy Kiều Thi Ca! Nếu có
chúng sanh tong một
Diêm Phù Đề nhẫn đến trong
hằng sa thế giới mười phương đều được bực
bất thối chuyển. Có
thiện nam,
thiện nữ đem
Bát nhã ba la mật giảng giải ý nghĩa cho những bực nầy. Trong đây có một
Bồ Tát muốn mau chứng
Vô thượng Bồ đề, nếu có người đem
Bát nhã ba la mật giảng giải ý nghĩa cho
Bồ Tát nầy, thời được phước nhiều hơn hết”.
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Như
đại Bồ Tát càng gần đến
Vô thượng Bồ đề, lại càng nên
giáo hóa thật hành
sáu ba la mật, càng nên
giáo hóa thật hành
nội không đến
vô pháp hữu pháp không,
tứ niệm xứ đến mười
tám pháp bất cộng. Lại nên
cúng dường y phục,
ngọa cụ,
ẩm thực, y dược,
tùy theo chỗ
cần dùng mà
cung cấp.
Thiện nam,
thiện nữ pháp thí và
tài thí cúng dường đại Bồ Tát nầy thời được
công đức. Vì
đại Bồ Tát nầy mau thành
Vô thượng Bồ đề vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Lành thay,
lành thay! Nầy Kiều Thi Ca! Ngài vì thánh
đệ tử mà an ủy
chư đại Bồ Tát vì
Vô thượng Bồ đề, nên đem
pháp thí, tài thì làm
lợi ích, theo lẽ thời phải như vậy.
Tại sao thế? Vì trong hàng
Bồ Tát xuất sanh chư Phật
thánh chúng.
Nếu
Bồ Tát chẳng pháp tâm
Vô thượng Bồ đề, thời
Bồ Tát nầy chẳng thể học
sáu ba la mật đến mười
tám pháp bất cộng, chẳng thể được
Vô thượng Bồ đề.
Nếu chẳng thể được
Vô thượng Bồ đề, thời không có
Thanh văn và
Bích Chi Phật.
Nầy Kiều Thi Ca! Vì thế nên
chư đại Bồ Tát học
sáu ba la mật đến mười
tám pháp bất cộng.
Do học
sáu ba la mật đến mười
tám pháp bất cộng mà được
Vô thượng Bồ đề.
Do được
Vô thượng Bồ đề nên dứt diệt ba
ác đạo Địa ngục,
Ngạ quỷ,
Súc sanh.
Thế gian bèn có những dòng hào tộc, bèn có các
cõi trời từ
Tứ Vương Thiên đến
Phi Phi Tưởng Thiên, bèn có
Đàn na ba la mật, bèn có
nội không đến
vô pháp hữu pháp không, bèn có
tứ niệm xứ đến mười
tám pháp bất cộng, bèn có
Thanh văn thừa,
Bích Chi Phật thừa và
Phật thừa đều
xuất hiện thế gian”.
PHẨM TÙY HỈ
THỨ BA MƯƠI CHÍN
Ngài
Di Lặc đại Bồ Tát nói với Ngài
Tu Bồ Đề: “Hoặc
Thanh văn, hoặc
Bích Chi Phật, hoặc tất cả
chúng sanh, hoặc
bố thí,
trì giới, hoặc
tu thiền định
tùy hỷ phước đức.
Có
đại Bồ Tát tùy hỉ phước đức cùng với tất cả
chúng sanh chung hưởng,
hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Phước đức nầy bực nhứt trên hết, rất
diệu Vô thượng, không gì bằng.
Tại sao vậy?
Vì cúng
Thanh văn,
Bích Chi Phật và tất
chúng sanh bố thí,
trì giới,
tu thiền định
tùy hỉ phước đức, là để tự
điều phục, tự
thanh tịnh, tự độ, mà
tu hành những
tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo và không,
vô tướng,
vô tác.
Bồ Tát tùy hỉ phước đức hồi hướng Vô thượng Bồ đề, đem
công đức nầy để
điều phục tất cả
chúng sanh, để
thanh tịnh tất cả
chúng sanh, để độ tất cả
chúng sanh, vì
vô sở đắc vậy.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Chư
đại Bồ Tát tưởng niệm
vô lượng vô biên vô số chư
Phật diệt độ trong
vô lượng vô biên vô số quốc độ mười phương, từ
sơ phát tâm đến được
Vô thượng Bồ đề, nhập
vô dư y Niết Bàn đến
chánh pháp diệt tận có tất cả
thiện căn đúng với
sáu ba la mật. Cùng với
thiện căn của hành
Thanh văn, như
phước đức bố thí,
phước đức trì giới,
phước đức tu tập thiền định. Cùng với
thiện căn vô lậu của
hành hữu học,
vô học. Cùng với tụ,
định tụ, huệ tu,
giải thoát tụ,
giải thoát tri kiến tụ,
nhứt thiết trí,
đại từ đại bi của chư Phật. Cùng với
vô lượng vô số những
Phật pháp khác và pháp của chư Phật
diễn thuyết. Trong những pháp nầy học được quả
Tu Đà Hoàn đến quả
A La Hán và đạo
Bích Chi Phật, nhập ngôi
đại Bồ Tát. Cùng với những
chúng sanh khác gieo trồng
thiện căn.
Tất cả những
thiện căn ấy
hòa hợp phước đức hồi hướng Vô thượng Bồ đề, thời là
phước đức đệ nhứt trên hết, rất
diệu vô thượng, không gì bằng.
Tùy hỉ như vậy rồi, đem phước
tùy hỉ nầy
hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Nếu có
thiện nam,
thiện nữ tu hành Bồ Tát thừa, nghĩ rằng lòng tôi hướng về
Vô thượng Bồ đề.
Đây là sanh
tâm duyên nơi sự.
Nếu
thiện nam,
thiện nữ nắm lấy tướng
Vô thượng Bồ đề, có thể được như chỗ đã
nghĩ tưởng chăng?”
Di Lặc Bồ Tát nói: “Nếu
thiện nam,
thiện nữ nắm lấy tướng, thời chẳng được như chỗ đã tưởng nghĩ”.
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Nếu những duyên, những sự
vô sở hữu,
thiện nam,
thiện nữ nầy thật hành
Bồ Tát thừa, nắm lấy tướng, đối với thtiện căn từ
sơ phát tâm đến
chánh pháp diệt tận của
chư Phật mười phương, cùng với
thiện căn của
hành hữu học vô học Thanh văn, đều hòa hiệp tất cả
tùy hỉ công đức hồi hướng Vô thượng Bồ đề, vì
vô tướng vậy.
Như thế thời
Bồ Tát nầy há chẳng phải
vô thường cho là thường, khổ cho là lạc,
vô ngã cho là ngã,
bất tịnh cho là tịnh, mà thành
tưởng điên đảo,
kiến điên đảo.
Hoặc như duyên và như sự
hồi hướng Vô thượng Bồ đề cũng như vậy.
Tâm
hồi hướng cũng như vậy.
Đàn na ba la mật đến mười
tám pháp bất cộng cũng như vậy.
Nếu như vậy, thời những gì là duyên, những gì là sự, những gì là
Vô thượng Bồ đề, những gì là
thiện căn, những gì là tâm
tùy hỉ hồi hướng Vô thượng Bồ đề?”
Ngài
Di Lặc Bồ Tát nói: “Nếu
chư đại Bồ Tát đã từ lâu thật hành
sáu ba la mật, nhiều
cúng dường chư Phật, gieo trồng
thiện căn, luôn gần
thiện trí thức, khéo
tu học pháp tự tướng không.
Chư đại Bồ Tát nầy dùng duyên như vậy và sự như vậy, nơi
thiện căn của chư Phật,
tùy hỉ phước đức, chẳng nắm lấy tướng
Vô thượng Bồ đề. Bởi chẳng hai pháp chẳng phải chẳng hai pháp, chẳng phải tướng chẳng phải
không tướng, chẳng phải pháp có thể được chẳng phải pháp chẳng thể được, chẳng phải pháp cấu chẳng phải pháp tịnh, chẳng phải phải pháp sanh chẳng phải
pháp diệt, nên đây gọi là
hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Nếu chư
Bồ Tát tu hành sáu ba la mật chẳng được lâu,
cúng dường chư Phật chẳng được nhiều, chẳng gieo trồng căn lành, chẳng gần
thiện tri thức, chẳng khéo
tu học pháp tự tướng không.
Bồ Tát nầy dùng duyên như vậy sự như
vậy mà tùy hỉ phước đức của chư Phật, tâm lấy tướng
hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Đây thời chẳng gọi là chơn thiệt
hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Nầy Ngài Tu Bồ Đề! Nghĩa
Bát nhã ba la mật như vậy, nhẫn đến nghĩa nhứt thiết
chủng trí, như là
nội không đến
vô pháp hữu pháp không, chẳng nên giải nói với hành
tân học Bồ Tát. Vì sẽ làm
mất lòng kính tin
thanh tịnh mà
Bồ Tát nầy đã được chút ít.
Nên đem nói với bực
đại Bồ Tát bất thối chuyển.
Hoặc với người được sự
hộ trì của
thiện tri thức, hoặc với người từ lâu
cúng dường chư Phật, gieo trồng
thiện căn. Cũng nên
giải thuyết Bát nhã ba la mật nầy nhẫn đến nghĩa nhứt thiết
chủng trí, như là
nội không đến
vô pháp hữu pháp không.
Những người nầy
nghe pháp như vậy không mất,
không kinh, không sợ.
Nầy Ngài Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát tùy hỉ phước đức phải
hồi hướng Vô thượng Bồ đề như vậy.
Nghĩa là
Bồ Tát dùng tâm
tùy hỉ phước đức hồi hướng Vô thượng Bồ đề, tâm nầy tận diệt biến ly. Duyên ấy, sự ấy, những
thiện căn ấy cũng tận diệt biến ly.
Trong đây, những gì là tâm
tùy hỉ, những gì là duyên, những gì là sự, những gì là
thiện căn tùy hỉ hồi hướng Vô thượng Bồ đề?
Nếu
đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật, biết rõ
Bát nhã ba la mật nầy không có
pháp như vậy, nhẫn đến
Đàn na ba la mật không có pháp, sắc, thọ, tưởng hành thức đến
Vô thượng Bồ đề không có
pháp như vậy.
Đại Bồ Tát phải
tùy hỉ công đức như
vậy mà hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Nếu có thể hồi hướng như vậy, thời gọi là
tùy hỉ công
hồi hướng Vô thượng Bồ đề”.
Thiên Đế hỏi Ngài
Tu Bồ Đề: “Bồ Tát mới
phát tâm nghe việc nầy há
không kinh sợ ư?
Thế nào là
Bồ Tát mới
phát tâm tu các
thiện căn hồi hướng Vô thượng Bồ đề?
Lại thế nào là
tùy hỉ phước đức hồi hướng Vô thượng Bồ đề?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Nếu
Bồ Tát mới
phát tâm thật
hành Bát nhã
ba la mật, chẳng thọ
Bát nhã ba la mật nầy, vì
vô sở đắc vậy, vì
vô tướng vậy. Nhẫn đến
Đàn na ba la mật cũng như vậy. Lại nhiều tin hiểu
nội không đến
vô pháp hữu pháp không. Nhiều tin hiểu
tứ niệm xứ đến mười
tám pháp bất cộng, thường theo
thiện tri thức.
Thiện tri thức nầy giảng nói nghĩa
sáu ba la mật và khai thị,
phân biệt cho. Dạy dỗ như vậy làm cho thường chẳng rời
Bát nhã ba la mật, nhẫn đến được vào bực
Bồ Tát chẳng rời
Bát nhã ba la mật, nhẫn đến chẳng rời
Đàn na ba la mật. Chẳng rời
tứ niệm xứ đến mười
tám pháp bất cộng. Cũng dạy nói về
ma sự. Nghe những
ma sự rồi vẫn chẳng tăng, chẳng giảm.
Tại sao vậy? Vì
Bồ Tát nầy chẳng thọ tất cả pháp vậy.
Bồ Tát nầy cũng thường chẳng rời chư Phật. Nhẫn đến lúc nào bực
Bồ Tát luôn gieo trồng
thiện căn. Do
thiện căn nầy mà vào nhà
Bồ Tát. Nhẫn đến lúc thành
Vô thượng Bồ đề trọn chẳng rời
thiện căn nầy.
Lại
đại Bồ Tát mới
phát tâm nầy đối với
quá khứ chư Phật
vô lượng vô biên vô số quốc độ mười phương, dứt đường
sanh tử, dứt đường
hí luận, bỏ hẳn
gánh nặng, diệt gai
tụ lạc, dứt những
hữu lậu, được
chánh trí giải thoát, cùng hàng
đệ tử tu hành công đức. Hoặc hàng đại
trưởng giả cư sĩ,
chư Thiên từ Trời
Tứ Thiên Vương đến Sắc
Cứu Cánh gieo trồng
thiện căn, tất cả
công đức đều hòa hiệp. Dùng tâm
tùy hỉ đệ nhứt trên hết, hơn hết, không gì bằng mà
tùy hỉ.
Tùy hỉ rồi
hồi hướng Vô thượng Bồ đề”.
Ngài
Di Lặc Bồ Tát nói với Ngài
Tu Bồ Đề: “Nếu
Bồ Tát mới
phát tâm tưởng niệm
thiện căn của chư Phật và hành
đệ tử, dùng tâm
tùy hỉ đệ nhất
vi diệu hơn hết không gì bằng mà
tùy hỉ công đức.
Tùy hỉ rồi
hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Bồ Tát nầy thế nào chẳng sa nơi
tưởng điên đảo, tâm
điên đảo và kiến đảo?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Nếu
đại Bồ Tát niệm Phật và Tăng. Trong đây, chẳng móng khởi tưởng là Phật, tưởng là Tăng, cũng chẳng móng khởi tưởng là
thiện căn. Dùng tâm nầy
hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Trong tâm nầy cũng chẳng móng khởi tưởng là tâm.
Bồ Tát hồi hướng như vậy thời tưởng chẳng
điên đảo, tâm chẳng
điên đảo, kiến chẳng
điên đảo.
Nếu
đại Bồ Tát niệm
thiện căn của Phật và Tăng, năm lấy tướng rồi
hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Bồ Tát hồi hướng như vậy, thời gọi là
tưởng điên đảo, tâm
điên đảo và
kiến điên đảo.
Nếu
đại Bồ Tát dùng tâm nầy niệm
thiện căn của chư Phật và
chúng Tăng. Lúc
tâm niệm như vậy liền biết diệt tận. Nếu diệt tận thời pháp ấy
bất khả đắc. Tâm dùng để
hồi hướng cũng là tướng tận diệt. Chỗ
hồi hướng và pháp cũng là tướng tận diệt.
Nếu
hồi hướng như đây thời gọi là chánh
hồi hướng mà chẳng phải tà
hồi hướng.
Đại Bồ Tát phải
hồi hướng Vô thượng Bồ đề như vậy.
Và lại nếu đối với
thiện căn của chư Phật
quá khứ và hàng
đệ tử,
thiện căn của
phàm phu nghe pháp,
thiện căn Thiên, Long,
Bát bộ nhẫn đến của
trời Sắc Cứu Cánh nghe pháp phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Tất cả
phước đức nầy đều hòa hiệp.
Bồ Tát dùng tâm
đệ nhứt vi diệu hơn hết, không gì bằng mà
tùy hỉ công đức rồi
hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Bấy giờ nếu
đại Bồ Tát biết những pháp ấy tận diệt, chỗ
hồi hướng và pháp cũng
tự tánh không. Có htể
hồi hướng như vậy thời gọi là chơn thiệt
hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Lại
đại Bồ Tát biết không có pháp nào
hồi hướng được pháp nào. Vì tất cả
pháp tự tướng không.
Hồi hướng như đây thời gọi là chánh
hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật đến
Đàn na ba la mật như vậy, thời chẳng sa vào
tưởng điên đảo, tâm
điên đảo,
kiến điên đảo. Bởi
Bồ Tát nầy chẳng nắm lấy
hồi hướng ấy, cũng chẳng đem những
thiện căn hồi hướng đến chỗ
tam Bồ đề. Đây gọi là
đại Bồ Tát Vô thượng hồi hướng.
Lại nếu
đại Bồ Tát biết
phước đức đã gieo trồng, rời hẳn
ngũ ấm,
thập nhị xứ,
thập bát giới. Cũng biết
Bát nhã ba la mật là
ly tướng, biết
nội không đến
vô pháp hữu pháp không là
ly tướng, biết
tứ niệm xứ đến mười
tám pháp bất cộng là
ly tướng.
Đại Bồ Tát khởi tâm tùy hỉ phước đức như vậy, thời gọi là
hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Nếu
đại Bồ Tát tùy hỉ phước đức, biết
tùy hỉ phước đức tự tánh ly, cũng biết chư Phật ly,
Phật tánh các
thiện căn cũng ly,
thiện căn tánh cũng ly,
hồi hướng và
hồi hướng tánh cũng ly,
Bồ Tát và
Bồ Tát tánh cũng ly,
Bát nhã ba la mật đến
Đàn na ba la mật cũng ly,
nội không đến
vô pháp hữu pháp không cũng ly,
nội không tánh đến
vô pháp hữu pháp không tánh cũng ly,
tứ niệm xứ đến pháp
bất cộng cũng ly,
tứ niệm xứ tánh đến
bất cộng pháp tánh cũng ly.
Đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật ly tướng như vậy.
Đây gọi là
đại Bồ Tát trong
Bát nhã ba la mật phát sanh
tùy hỉ phước đức.
Lại
đại Bồ Tát đối với
thiện căn của chư Phật
quá khứ diệt độ, nếu muốn
hồi hướng thời phải
hồi hướng như vầy:
Phải
quan niệm rằng như tướng chư
Phật diệt độ, tướng các
thiện căn cũng vậy, tướng
pháp diệt độ cũng như vậy. Tôi dùng tâm
hồi hướng, tướng của tâm nầy cũng như vậy.
Nếu
hồi hướng được như vậy thời gọi là
hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Hồi hướng như vậy thời chẳng sa vào
tưởng điên đảo, tâm
điên đảo,
kiến điên đảo.
Nếu
đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật nắm lấy tướng
thiện căn của chư để
hồi hướng Vô thượng Bồ đề, thời chẳng gọi là
hồi hướng.
Tại sao vậy?
Vì chư Phật
quá khứ và
thiện căn chẳng phải tướng duyên, chẳng phải
không tướng duyên.
Nếu
đại Bồ Tát nắm lấy tướng như vậy thời chẳng gọi là
thiện căn hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Bồ Tát nầy sa vào
tưởng điên đảo, tâm diên đảo,
kiến điên đảo.
Nếu
Bồ Tát chẳng nắm lấy tướng chư Phật, các
thiện căn, cũng chẳng lấy tướng
hồi hướng, thời gọi là đem các
thiện căn hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Bồ Tát nầy chẳng sa vào
tưởng điên đảo, tâm diên đảo, kiến điên đảo”.
Ngài
Di Lặc hỏi Ngài
Tu Bồ Đề: “Đại
Bồ Tát thế nào đối với các
thiện căn chẳng nắm lấy tướng mà có thể
hồi hướng Vô thượng Bồ đề?”
Ngài
Tu Bồ Đề nói: “Do sự nầy nên phải biết trong
đại Bồ Tát Bát nhã ba la mật cần có
phương tiện lực
Bát nhã ba la mật.
Nếu là
phước đức rời
Bát nhã ba la mật, thời chẳng được
hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Tại sao vậy?
Vì trong
Bát nhã ba la mật, chư Phật
bất khả đắc, các
thiện căn bất khả đắc, tâm
hồi hướng Vô thượng Bồ đề cũng
bất khả đắc.
Ở trong đây, lúc
đại Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật, nên
quan niệm rằng thân của chư Phật
quá khứ và
đệ tử đều tận diệt, các thiện cũng tận diệt. Nay nếu ta nắm lấy tướng
phân biệt chư Phật,
thiện căn và tâm
hồi hướng Vô thượng Bồ đề, thời chư Phật chẳng
hứa khả.
Tại sao vậy?
Vì nắm lấy tướng thời là
hữu sở đắc vậy.
Nghĩa là ở nơi chư Phật
quá khứ nắm lấy tướng
phân biệt vậy.
Thế nên
đại Bồ Tát muốn dùng các
thiện căn hồi hướng Vô thượng Bồ đề, thời chẳng nên lấy để
hồi hướng.
Nếu có được và nắm lấy để
hồi hướng, thời chư Phật chẳng nói có
lợi ích lớn.
Tại sao vậy? Vì
hồi hướng như vậy là
tạp độc.
Ví như đồ
ăn ngon lộn
tạp độc, dầu có màu đẹp hương thơm được người ham mà trong đó có chất độc. Kẻ
ngu dại thích ăn vì tham màu đẹp hương thơm vị ngon vừa miệng. Lúc ăn nầy
tiêu hóa, kẻ ngu ấy bèn thọ những khổ
đau đớn chết chóc.
Nếu
thiện nam,
thiện nữ chẳng
thọ trì,
đọc tụng rành rẽ, chẳng hiểu nghĩa trong đây mà giảng dạy người khác rằng:
Quá khứ,
vị lai,
hiện tại chư Phật mười phương, từ
sơ phát tâm đến
Vô thượng Bồ đề, nhập
vô dư y Niết Bàn đến
chánh pháp tận diệt. Trong
thời gian đó, lúc thật hành
sáu ba la mật gieo trồng căn lành, lúc tu
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định,
tứ niệm xứ đến mười
tám pháp bất cộng, gieo trồng căn lành, lúc
thanh tịnh Phật độ,
thành tựu chúng sanh, gieo trồng căn lành, cùng với những giới, định, huệ,
giải thoát,
giải thoát tri kiến, nhứt thiết
chủng trí,
pháp không sai lầm thường xả hành của chư Phật và hàng
đệ tử gieo trồng căn lành, cùng những người được chư
Phật thọ ký sẽ thành
Bích Chi Phật, hàng Thiên, Long,
Bát bộ gieo trồng căn lành, tất cả
phước đức hòa hiệp
tùy hỉ hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Sự
hồi hướng nầy vì nắm lấy tướng và có pháp được nên như là món ăn lộn chất độc.
Người có pháp được thời trọn không có chánh
hồi hướng.
Tại sao vậy? Vì có pháp được đây thời gọi là lộn độc, có tướng, có động, có
hí luận.
Nếu
hồi hướng như vậy thời là hủy
báng Phật, là chẳng theo
lời Phật dạy, là chẳng theo
chánh pháp đã nói.
Thiện nam,
thiện nữ nầy cầu
Phật đạo phải học như thế nầy:
Thiện căn của
tam thế chư Phật từ
sơ phát tâm đến
thành Phật nhập
vô dư y Niết Bàn chánh pháp tận diệt cùng hành
đệ tử lúc
tu hành Bát nhã ba la mật đã gieo trồng, nhẫn đến lúc nhứt thiết
chủng trí, tất cả
phước đức hồi hướng như vầy: Như
trí huệ vô thượng mà chư Phật đã biết, những
thiện căn tướng ấy, những
thiện căn tánh ấy, tôi cũng
tùy hỉ như vậy. Như chư Phật đã biết, tôi cũng
hồi hướng Vô thượng Bồ đề như vậy.
Nếu
thiện nam,
thiện nữ hồi hướng như vậy, thời là chẳng hủy
báng Phật, đúng như
lời Phật dạy, đúng với
Phật pháp đã nói.
Hồi hướng như vậy là không xen lộn chất độc.
Lại
thiện nam,
thiện nữ cầu
Phật đạo, lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật phải
hồi hướng thiện căn như vầy:
Như sắc chẳng thuộc
Dục giới, chẳng thuộc
Sắc giới, chẳng thuộc
Vô sắc giới, chẳng thuộc pháp, chẳng gọi
quá khứ,
vị lai,
hiện tại.
Nội không đến
vô pháp hữu pháp không cũng như vậy.
Như pháp tánh,
pháp tướng,
pháp trụ, thiệt tế, bất tư nghì tánh, giới, định, huệ,
giải thoát,
giải thoát tri kiến, nhứt thiết
chủng trí chẳng thuộc
Dục giới,
Sắc giới,
Vô sắc giới, chẳng thuộc pháp, chẳng thuộc
quá khứ,
vị lai và
hiện tại.
Hồi hướng nầy, chỗ
hồi hướng nầy và
hành giả chẳng hệ thuộccũng như vậy. Chư Phật và những
thiện căn đây cũng chẳng hệ thuộc.
Thiện căn của
Thanh văn,
Bích Chi Phật đây cũng chẳng hệ thuộc, chẳng thuộc pháp, chẳng thuộc
quá khứ,
vị lai,
hiện tại.
Nếu
đại Bồ Tát lúc thật
hành Bát nhã
ba la mật biết sắc v,v,,, đều chẳng hệ thuộc, chẳng thể đem pháp năm lấy tướng
hữu sở đắc để
hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Tại sao vậy?
Sắc v.v… đây là
vô sanh. Nếu pháp đã
vô sanh thời là
vô pháp, trong
vô pháp không thể
hồi hướng.
Hồi hướng như trên đây thời không xen lộn chất độc.
Nếu
thiện nam,
thiện nữ cầu
Phật đạo nắm lấy tướng
hữu sở đắc đem
thiện căn hồi hướng Vô thượng Bồ đề, thời gọi là tà
hồi hướng.
Nếu là tà
hồi hướng thời chư Phật chẳng khen ngợi.
Dùng tà
hồi hướng nầy thời chẳng đầy đủ
Đàn na ba la mật nhẫn đến
Bát nhã ba la mật. Chẳng đầy đủ
tứ niệm xứ đến
thập lực. Chẳng thể
thanh tịnh Phật độ,
thành tựu chúng sanh.
Nếu chẳng thể
thanh tịnh Phật độ,
thành tựu chúng sanh, thời chẳng thể
Vô thượng Bồ đề.
Tại sao vậy? Vì
hồi hướng nầy xen lộn chất độc.
Lại lúc
Bồ Tát thật
hành Bát nhã
ba la mật, phải
quan niệm rằng như những
thiện căn hồi hướng mà chư Phật đã biết, đó là chơn thiệt
hồi hướng, tôi cũng dùng
pháp tướng hồi hướng ấy. Đây gọi là chánh hồi hướng”.
Đức Phật khen Ngài
Tu Bồ Đề: “Lành thay,
lành thay! Vì
làm Phật sự, vì
đại Bồ Tát mà ông nói pháp
hồi hướng chân chánh phải thật hành. Bởi
không tướng, không được, không xuất, không cấu, không tịnh,
không pháp tánh,
tự tướng rỗn không, thường
tự tánh rỗng không,
như pháp tánh, như thiệt tế vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
chúng sanh trong
Đại Thiên quốc độ đểu thật hành
thập thiện đạo,
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định,
ngũ thần thông, ông nghĩ sao,
chúng sanh ấy được nhiều phước chăng?”
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Được phước rất nhiều”.
Đức Phật nói: “Chẳng bằng
thiện nam,
thiện nữ đối với những
thiện căn, tâm chẳng nắm lấy mà
hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Phước đức nầy
đệ nhứt hơn hết, rất
vi diệu vô thượng, không gì bằng.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
chúng sanh trong
Đại Thiên quốc độ đều được
Tu Đà Hoàn đến
Bích Chi Phật.
Có
thiện nam,
thiện nữ đem
tứ sự cúng dường trọn đời và
cung kính,
tôn trọng,
tán thán,
cung cấp đủ đồ
cần dùng.
Nhơn duyên nầy được phước nhiều chăng?”
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Người nầy được phước rất nhiều”.
Đức Phật nói: “Vẫn chẳng bằng
thiện nam,
thiện nữ đối với những
thiện căn, tâm chẳng nắm lấy mà
hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Phước đức nầy
đệ nhứt hơn hết, rất là
vi diệu vô thượng, không gì bằng.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Nếu
chúng sanh trong
Đại Thiên trong
quốc độ đều
phát tâm Bồ đề. Mỗi mỗi
chúng sanh trang
hằng sa thế giới, đều
cung kính,
cúng dường Bồ Tát nầy trong
hằng sa kiếp.
Nhơn duyên nầy được rất nhiều chăng?”
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Được phước rất nhiều
vô lượng vô biên không gì
thí dụ được. Nếu
phước đức nầy có hình dạng thời
hằng sa quốc độ cũng không dung thọ được”.
Đức Phật nói: “Lành thay,
lành thay! Đúng như lời ông nói.
Dầu vậy, nhưng chẳng bằng
thiện nam,
thiện nữ đối với những
thiện căn, tâm chẳng nắm lấy mà
hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Công đức hồi hướng không nắm lấy nầy, sánh với
công đức trên thời hơn cả trăm ngàn muôn ức lần, nhẫn đến toán số
thí dụ cũng không sánh được.
Tại sao vậy?
Vì người trên kia nắm lấy tướng có pháp được mà thật hành
thập thiện đạo,
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định,
ngũ thần thông, và nắm lấy tướng có pháp được mà
cúng dường,
cung kính Tu Đà Hoàn đến
cung kính,
cúng dường Bồ Tát vậy.
Tứ Thiên Vương và hai vạn
Thiên Tử chấp tay lễ Phật mà thưa rằng: “Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát hồi hướng rất là rộng lớn. Vì là
phương tiện lực vậy. Vì là
vô sở đắc vậy. Vì là
vô tướng vậy. Vì là vô giác vậy. Đem những
thiện căn hồi hướng Vô thượng Bồ đề như vậy, thời chẳng sa vào hai pháp”.
Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn cũng cùng
vô số chư Thiên cõi
đao Lợi và
chư Thiên Tử khác đồng đem
thiên hoa,
thiên hương,
anh lạc, thiên
tràng phan,
thiên cổ,
thiên nhạc cúng dường lên
đức Phật, thưa rằng: “Bạch đức Thế Tôn!
đại Bồ Tát hồi hướng rất là rộng lớn. Vì là
phương tiện lực vậy. Vì là
vô sở đắc vậy. Vì là vô giác vậy. đem những
thiện căn hồi hướng Vô thượng Bồ đề như vậy, thời chẳng sa vào hai pháp”.
Chư
Phạm Thiên cùng
vô số chư Thiên đến lễ
chân Phật thưa rằng: “Bạch đức Thế Tôn!
Vị tằng hữu Bồ Tát được sự
hộ trợ của
Bát nhã ba la mật, do
phương tiện lực nên hơn người nắm lấy tướng có pháp được trên kia”.
Quang Âm Thiên đến
Sắc Cứu Cánh Thiên cũng
lễ Phật, thưa như vậy.
Đức Phật bảo
Tứ Thiên Vương nhẫn đến
chư Thiên Sắc
Cứu Cánh: “Chư Thiên Tử! Nếu tất cả
chúng sanh trong
Đại thiên thế giới đều
phát tâm Vô thượng Bồ đề. Tất cả
Bồ Tát nầy niệm
thiện căn của
quá khứ,
vị lai,
hiện tại chư Phật và của chư
Thanh văn,
Bích Chi Phật, từ lúc mới
phát tâm đến trụ, cùng với
thiện căn của tất cả
chúng sanh như là
bố thí,
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tấn,
thiền định,
trí huệ, giới, định, huệ,
giải thoát,
tri kiến giải thoát và
vô lượng Phật pháp khác đều hòa hiệp
tùy hỉ tất cả.
Tùy hỉ xong, đều
hồi hướng Vô thượng Bồ đề, vì là nắm lấy tướng
hữu sở đắc vậy.
Lại có
thiện nam,
thiện nữ phát tâm Vô thượng Bồ đề cũng là niệm
thiện căn của
tam thế chư Phật và chư
Thanh văn,
Bích Chi Phật, cùng
thiện căn của tất cả
chúng sanh và những
Phật pháp khác đều hòa hiệp
tùy hỉ, nhưng vì
vô sở đắc, vì không hai pháp, vì không có tướng, vì chẳng nắm lấy pháp, vì không thấy có, đây là sự
tùy hỉ đệ nhứt hơn hết,
vi diệu vô thượng, không gì bằng.
Tùy hỉ xong,
hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Côn đức của
thiện nam,
thiện nữ nầy hơn
công đức trên cả trăm ngàn muôn ức lần, nhẫn đến không thể ví dụ được”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Đức Phật nói
thiện nam,
thiện nữ hòa hiệp
tùy hỉ đệ nhứt hơn hết,
vi diệu vô thượng, không gì bằng.
Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
tùy hỉ đệ nhứt đến không gì bằng?”
Đức Phật nói: “Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
thiện nam,
thiện nữ đối với các pháp
quá khứ,
vị lai,
hiện tại mà chẳng thủ, chẳng xả, chẳng nhớ chẳng phải chẳng nhớ, chẳng được chẳng phải chẳng được. Trong các pháp đó cũng chẳng có pháp
sanh diệt, cấu tịnh, tăng giảm, lai khứ, hiệp tán, nhập xuất.
Như các
pháp tướng,
như như tướng,
pháp tánh,
pháp trụ,
pháp vị,
quá khứ,
vị lai,
hiện tại, tôi cũng
tùy hỉ như vậy.
Tùy hỉ xong,
hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Đây là
hồi hướng đệ nhứt hơn hết,
vi diệu vô thượng, không gì bằng.
Nầy Tu Bồ Đề! Pháp
tùy hỉ nầy sánh với những pháp
tùy hỉ khác trăm ngàn muôn ức lần hơn, nhẫn đến
thí dụ cũng không kịp được.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Thiện nam,
thiện nữ cầu
Phật đạo, đối với
tam thế thiện căn từ
sơ phát tâm đến
pháp trụ của chư Phật và chư
Thanh văn,
Bích Chi Phật, nhẫn đến
vô lượng Phật pháp khác, cùng
thiện căn của những
chúng sanh khác, nếu muốn
tùy hỉ thời phải
tùy hỉ như thế nầy:
Phải
quan niệm rằng bố đồng đẳng với
giải thoát, năm độ kia cũng đồng đẳng với giài thoát, sắc, thọ, tưởng, hành, thức đồng đẳng với
giải thoát,
nội không đến
vô pháp hữu pháp không đồng đẳng với
giải thoát,
tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo phần đồng đẳng với
giải thoát,
thập lực đến nhứt thiết
chủng trí đồng đẳng với
giải thoát, giới, định, huệ,
giải thoát,
giải thoát tri kiến đồng đẳng với
giải thoát,
tùy hỉ đồng đẳng với
giải thoát, các pháp
quá khứ,
vị lai,
hiện tại đồng đẳng với
giải thoát,
chư Phật mười phương cùng
giải thoát đồng đẳng, chư Phật
hồi hướng cùng
giải thoát đồng đẳng, chư Phật cùng
giải thoát đồng đẳng, chư
Phật diệt độ cùng
giải thoát đồng đẳng,
Thanh văn,
Bích Chi Phật cùng
giải thoát đồng đẳng,
Thanh văn,
Bích Chi Phật diệt độ cùng
giải thoát đồng đẳng,
pháp tướng của chư Phật cùng
giải thoát đồng đẳng,
pháp tướng của
Thanh văn,
Bích Chi Phật cùng
giải thoát đồng đẳng. Tất cả các
pháp tướng cũng cùng
giải thoát đồng đẳng, tôi đem tướng những
thiện căn nầy
tùy hỉ công đức hồi hướng Vô thượng Bồ đề cũng đồng đẳng với
giải thoát, vì
bất sanh bất diệt vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! Đây gọi là
đại Bồ Tát tùy hỉ công đức đệ nhứt hơn hết,
vi diệu vô thượng, không gì bằng.
Nầy Tu Bồ Đề!
Bồ Tát thành tựu công đức nầy thời mau được
Vô thượng Bồ đề.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Hiện tại nếu có
thiện nam,
thiện nữ vì cầu
Phật đạo nên
trọn đời cúng dường hiện tại hằng sa chư Phật và
Thanh văn,
Bích Chi Phật mười phương,
cung phụng tất cả đồ
cần dùng và
cung kính,
tôn trọng,
tán thán, vì nắm lấy tướng
hữu sở đắc vậy. Thật
hành trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tấn,
thiền định,
trí huệ, vì nắm lấy tướng
hữu sở đắc.
Lại có
thiện nam,
thiện nữ phát tâm cầu
vô thượng, thật hành
lục ba la mật, đem những
thiện căn chẳng nắm lấy tướng
vô sở đắc,
phương tiện lực
hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Phước đức nầy
đệ nhứt hơn hết,
vi diệu vô thượng, không gì bằng, hơn
phước đức trên trăm ngàn muôn ức lần, nhẫn đến ví dụ cũng không kịp được.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát lúc thật hành
lục ba la mật như vậy, vì
phương tiện nên phải đem
thiện căn hồi hướng Vô thượng Bồ đề, vì chẳng nắm lấy tướng
vô sở đắc vậy”.