KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT
Hán dịch: Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập - Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Viện Phật Học Phổ Hiền Xuất Bản PL. 2530 DL 1986 (Trọn bộ 3 tập)
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn hành P.L 2539 DL. 1995 (Trọn bộ 3 tập)
QUYỂN THỨ HAI MƯƠI
PHẨM HẰNG GIÀ ĐỀ BÀ
THỨ NĂM MƯƠI CHÍN
Bấy giờ trong
đại chúng có một nữ nhơn tên
Hằng Già Đề Bà, từ chỗ ngồi
đứng dậy, trịch áo vai hữu, gối hữu chấm đất,
chấp tay bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi sẽ hành
sáu ba la mật để
tịnh Phật quốc độ, đúng như lời dạy của
đức Phật trong
Bát nhã ba la mật”.
Nữ nhơn nầy đem hoa vàng, hoa bạc, cùng
hoa tươi dưới nước, trên đất với những món
cúng dường trang nghiêm và hai tấm thảm dệt bằng chỉ vàng, trải trên
đức Phật. Trên
hư không ngay đảnh
đức Phật, những món của nữ nhơn vừa rải để
cúng dường đó liền
hóa thành bốn cột đài báu ngay ngắn
xinh đẹp. Nữ nhơn nầy đem
công đức cúng dường Phật cùng chung với tất cả
chúng sanh hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Khi đó
đức Phật biết rõ
thâm tâm của nữ nhơn nầy nên liền mỉn cười, đúng như cách thức của chư Phật, những
tia sáng nhiều màu xanh, vàng, đỏ, trắng,
hồng từ miệng
đức Phật chiếu khắp
mười phương vô lượng vô biên Phật độ, những
tia sáng ấy xoay
trở về nhiễu quanh bên hữu
đức Phật ba vòng rồi nhập vào đảnh
đức Phật.
Ngài
A Nan từ chỗ ngồi
đứng dậy, quỳ gối hữu,
chắp tay thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Do
nhơn duyên gì mà
đức Phật mỉn cười? Theo pháp của chư Phật, không bao giờ
vô cớ mà cười”.
Đức Phật phán dạy: “Nầy A Nan!
Hằng Già Bà Đề nầy sẽ
thành Phật ở đời
vị lai trong kiếp
Tinh Tú, hiệu là Kim Hoa Phật.
Nầy A Nan! Nữ nhơn nầy
sau khi chết sẽ thọ thân nam tử, sanh về nước Diệu Hỷ của
đức Phật A Súc. Ở nước Diệu Hỷ đó tu
phạm hạnh thanh tịnh.
Nầy A Nan! Ở nước Diệu Hỷ,
Bồ Tát đó hiệu là Kim Hoa. Khi mãn báo ở nước Diệu Hỷ,
Bồ Tát Kim Hoa sẽ sanh về cõi nước chư Phật khác,
mãi mãi chẳng xa rời chư Phật.
Như
Chuyển Luân Thánh Vương từ một hành cung nầy đến một hành cung khác,
trọn đời chưn Vương chẳng đạp đất.
Cũng vậy, từ một nước Phật đến một nước Phật, mãi đến khi thành
Vô thượng Bồ đề, Kim Hoa
Bồ Tát chưa có lúc nào chẳng thấy Phật”.
Ngài
A Nan thầm nghĩ Kim Hoa
đại Bồ Tát sau nầy
thành Phật, phải biết
đại hội Bồ Tát cũng
như pháp hội của Phật.
Đức Phật bảo Ngài
A Nan: “Đúng như chỗ ngươi vừa nghĩ,
thời kỳ Phật Kim Hoa,
đại hội Bồ Tát phải biết là
như pháp hội của Phật.
Nầy A Nan! Thuở Phật Kim Hoa,
Tỳ Kheo Tăng đông
vô lượng vô biên, chẳng đếm được, có thể là ngàn trăm, ngàn vạn ức
na do tha. Trong nước đó không có những
thứ xấu uế như đây”.
- Bạch đức Thế Tôn! Từ nơi nào mà nữ nhơn nầy gieo cội
phước đức, trồng căn lành?
- Nầy A NanTừ nơi Phật Nhiên Đăng, nữ nhơn nầy mới đầu
phát tâm Bồ đề, trồng căn lành,
hồi hướng Phật đạo.
Lúc đó, nữ nhơn nầy cũng dùng hoa vàng, rải
cúng dường Phật Nhiên Đăng để cầu
Vô thượng Bồ đề.
Nầy A Nan! Như lúc đó chính ta dùng năm cành hoa, rải
cúng dường Phật Nhiên Đăng để cầu
Vô thượng Bồ đề. Phật Nhiên Đăng biêt
thiện căn của ta đã
thành tựu nên
thọ ký Vô thượng Bồ đề cho ta. Nữ nhơn nầy nghe ta được
thọ ký liền nguyện rằng: Cầu mong cho tôi ở
đời sau cũng được
thọ ký Vô thượng Bồ đề như
đại Bồ Tát nầy.
Nầy A Nan! Ngươi nên biết rằng từ nơi Phật Nhiên Đăng, nữ nhơn nầy mới đầu
phát Bồ đề tâm.
- Bạch đức Thế Tôn!
Phải chăng nữ nhơn nầy từ lâu đã
tu tập Vô thượng Bồ đề?
- Đúng như vậy. Nầy A Nan! Từ lâu nữ nhơn nầy đã
tu tập Vô thượng Bồ đề”.
PHẨM HỌC KHÔNG BẤT CHỨNG
THỨ SÁU MƯƠI
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Muốn
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát học
không tam muội và
nhập không tam muội thế nào? Học
vô tướng tam muội,
vô tác tam muội và nhập
vô tướng,
vô tác tam muội thế nào? Học
tứ niệm xứ nhẫn đến học
bát thánh đạo và tu
tứ niệm xứ nhẫn đến tu
bát thánh đạo thế nào?”
- Nầy Tu Bồ Đề! Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát phải quán
sắc không, phải quán thọ, tưởng, hành, thức không, phải quán
thập nhị nhập,
thập bát giới không, nhẫn đến phải quán
Dục giới,
Sắc giới,
Vô sắc giới không.
Lúc quán như vậy chớ cho
tâm tán loạn.
Nếu tâm chẳng
tán loạn,
đại Bồ Tát chẳng thấy pháp ấy. Nếu chẳng thấy pháp ấy thì chẳng chứng. Tại sao vậy? Vì
đại Bồ Tát nầy khéo học
tự tướng không, chẳng có gì khác, chẳng có ai,
phần chứng pháp chứng đều chẳng thể thấy được.
- Bạch đức Thế Tôn! Như đứng Phật dạy:
Đại Bồ Tát chẳng nên ở nơi
không pháp mà
tác chứng.
Bạch đức Thế Tôn! Tại sao
đại Bồ Tát an trụ trong
không pháp mà tác chứng?
- Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát quán không được đầy đủ, trước hết nguyện
như vầy: Nay tôi chẳng nên ở nơi không mà
tác chứng, nay là lúc tôi học, chẳng phải lúc tôi chứng.
Đại Bồ Tát chẳng chuyên
nhiếp tâm cột ở trong
cảnh duyên, vì thế mà
đại Bồ Tát chẳng
thối chuyển trong
Vô thượng Bồ đề, cũng chẳng chứng lấy quả
vô lậu.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát rất khéo hành như vậy, thời
diệu pháp được
thành tựu. Tại sao vậy? Lúc an trụ trong
không pháp,
đại Bồ Tát tự nghĩ nay là lúc tôi học, chẳng phải lúc chứng.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát phải nghĩ rằng: Nay là lúc tôi học
Đàn ba la mật nhẫn đến lúc tôi học
Bát nhã ba la mật, chẳng phải là lúc chứng, là lúc tôi tu
tứ niệm xứ, chẳng phải là lúc chứng, nhẫn đến là lúc tu
bát thánh đạo, chẳng phải là lúc chứng, là lúc tu
ba tam muội, chẳng phải là lúc chứng, là lúc tu
mười trí lực, chẳng phải là lúc chứng, nhẫn đến là lúc tôi học nhứt thiết
chủng trí, chẳng phải là lúc
chứng quả Tu Đà Hoàn nhẫn đến quả
A La Hán cùng đạo
Bích Chi Phật.
Nầy Tu Bồ Đề! Như thế đó,
đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật học
không quán, an trụ trong không, học
vô tướng,
vô tác, tu
tứ niệm xứ nhẫn đến tu
bát thánh đạo chẳng chứng
tứ niệm xứ nhẫn đến chẳng chứng lấy
bát thánh đạo.
Đại Bồ Tát nầy dầu học, dầu hành
ba mươi bảy phẩm trợ đạo mà chẳng
tác chứng quả
Tu Đà Hoàn nhẫn đến chẳng
tác chứng quả
Bích Chi Phật.
Nầy Tu Bồ Đề!
Ví như tráng sĩ
dũng mãnh, giỏi binh pháp sáu mươi bốn môn, tay
nắm chặt binh khí
đứng yên bất động, nghệ thuật giỏi, tướng đẹp sạch,
mọi người ai cũng yêu kính, tạo
sự nghiệp ít, được hưởng lợi nhiều. Do cớ nầy mà được
đại chúng cung kính,
tôn trọng,
ca ngợi. Thấy
mọi người kính trọng, tráng sĩ nầy lại càng
hoan hỉ, vì sự duyên ít nên sẽ đến xứ khác để giúp đỡ kẻ già yếu qua khỏi chỗ hiểm nạn
khủng bố. Giữa đường
hiểm trở có nhiều giặc cướp núp ngầm cướp hại. Do tráng sĩ đó đầy đủ
trí lực nên
mọi người qua được đường
hiểm trở, về đến nhà chẳng bị cướp hại, đều
an ổn vui mừng.
Nầy Tu Bồ Đề! Cũng vậy,
đại Bồ Tát ở trong tất cả
chúng sanh,
tâm từ bi
hỉ xả tràn đầy cùng khắp, khi đó
đại Bồ Tát an trụ trong
bốn tâm vô lượng, đầy đủ
sáu ba la mật, chẳng chứng lấy quả
vô lậu, học nhứt thiết
chủng trí, nhập
ba môn giải thoát: không,
vô tướng,
vô tác. Bấy giờ
Bồ Tát chẳng theo tất cả các tướng, cũng chẳng chứng
vô tướng tam muội. Vì chẳng chứng
vô tướng tam muội nên chẳng sa vào các bực
Thanh Văn và
Bích Chi Phật.
Nầy Tu Bồ Đề!
Ví như chim có đủ cánh, bay lượn trong
hư không chẳng bị rơi rớt, dầu chim ở trong
hư không mà chẳng an trụ trong
hư không.
Cũng vậy,
đại Bồ Tát dầu học không,
vô tướng,
vô tác giải thoát môn mà chẳng
tác chứng. Vì chẳng
tác chứng nên chẳng sa vào bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật. Dầu chưa đủ
mười trí lực,
đại từ,
đại bi,
vô lượng Phật pháp, nhứt thiết
chủng trí mà cũng chẳng chứng lấy không,
vô tướng,
vô tác giải thoát môn.
Nầy Tu Bồ Đề!
Ví như xạ
thủ đại tài, bắn tên lên
hư không lại nối tiếp bắn tên lên ghim lấy tên trước, các mũi tên ghim giữ nhau chẳng cho rơi xuống đất theo ý của xạ thủ đó, nếu cho rớt thì thôi không bắn tên lên nữa, bấy giờ các mũi tên mới rớt xuống đất.
Cũng vậy,
đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật. Vì
Vô thượng Bồ đề do sức
phương tiện, lúc các
thiện căn chưa đầy đủ thì chẳng chứng lấy thiệt tế, nếu
thiện căn đã đầy đủ mới chứng lấy thiệt tế.
Thế nên, Tu Bồ Đề! Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát nên như
vậy mà quán pháp tướng của các pháp.
- Bạch đức Thế Tôn! Chỗ làm của
đại Bồ Tát thiệt là rất sâu. Tại sao vậy? Vì dầu
đại Bồ Tát học các
pháp tướng ấy, học thiệt tế, học như, học
pháp tánh, học
rốt ráo không, nhẫn đến học
tự tướng không và
ba môn giải thoát mà trọn chẳng giữa đường sa vào bực
Nhị thừa:
Thanh Văn,
Bích Chi Phật. Thiệt là ít có vậy.
- Nầy Tu Bồ Đề! Vì chẳng rời bỏ tất cả
chúng sanh nên
đại Bồ Tát nầy
phát nguyện như vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát nghĩ rằng tôi chẳng nên rời bỏ tất cả
chúng sanh. Tất cả
chúng sanh chìm trong pháp
vô sở hữu, tôi phải
cứu độ họ. Lúc đó
Bồ Tát liền
nhập không giải thoát môn,
vô tướng giải thoát môn,
vô tác giải thoát môn. Phải biết
đại Bồ Tát nầy
thành tựu sức
phương tiện, lúc hưa được nhứt thiết
chủng trí, hành
ba môn giải thoát mà chẳng giữa đường chứng lấy thiệt tế.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát muốn quán những pháp
thậm thâm, đó là
nội không nhẫn đến
vô pháp hữu pháp không,
tứ niệm xứ nhẫn đến
ba môn giải thoát. Bấy giờ
đại Bồ Tát phải có
tâm niệm như vầy: Các
chúng sanh mãi đi trong tướng ngã nhẫn đến tướng
tri giả,
kiến giả, dính nơi pháp sở đắc, tôi vì dứt các tướng nầy cho
chúng sanh nên lúc được
Vô thượng Bồ đề tôi sẽ
thuyết pháp. Bấy giờ
đại Bồ Tát hành không vô tướng,
vô tác giải thoát môn mà chẳng chứng thiệt tế. Vì chẳng chứng nên sa vào bực
Thanh Văn và
Bích Chi Phật.
Nầy Tu Bồ Đề! Do tâm muốn
thành tựu thiện căn như vậy nên
đại Bồ Tát chẳng giữa đường
tác chứng thiệt tế, chẳng mất
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm, tứ địn,
tứ niệm xứ, nhẫn đến chẳng mất mười
tám pháp bất cộng. Khi đó
đại Bồ Tát thành tựu tất cả pháp
trợ đạo, nhẫn đến
thành tựu Vô thượng Bồ đề trọn chẳng hao, chẳng giảm. Vì có sức
phương tiện nên
Bồ Tát nầy thường
tăng ích pháp lành, căn
trí thông lợi hơn cả căn trí của
A La Hán và
Bích Chi Phật.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát nghĩ rằng: Các
chúng sanh mãi dính nơi
bốn điên đảo: chấp thường, chấp lạc, chấp tịnh và
chấp ngã. Vì các
chúng sanh nầy mà tôi cầu nhứt thiết
chủng trí. Lúc tôi được
Vô thượng Bồ đề, sẽ vì họ mà nói pháp
vô thường, khổ,
bất tịnh và
pháp vô ngã.
Đại Bồ Tát thành tựu tâm nguyện như vậy,
dùng sức phương tiện Bát nhã ba la mật, dầu chưa được Phật
tam muội, chưa đầy đủ
mười trí lực,
tứ vô úy,
tứ vô ngại trí,
đại từ đại bi, mười
tám pháp bất cộng, nhưng chẳng chứng lấy thiệt tế.
Lúc ấy tu
vô tác giải thoát môn, dầu chưa được
Vô thượng Bồ đề nhưng chẳng chứng lấy thiệt tế.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát nghĩ rằng: các
chúng sanh mãi
chấp trước pháp sở đắc. Đó là ngã,
chúng sanh nhẫn đến
tri giả,
kiến giả. Ấy là sắc, là thọ, tưởng, hành, thức, là nhập, là giới, là
tứ thiền, là
tứ vô lượng tâm, là
tứ định, là
tu hành như vậy. Lúc tôi được
Vô thượng Bồ đề, sẽ làm cho
chúng sanh chẳng
chấp pháp sở đắc như vậy.
Bồ Tát thành tựu tâm đó,
dùng sức phương tiện hành Bát nhã
ba la mật, lúc chưa đầy đủ
mười trí lực nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng thì chẳng chứng lấy thiệt tế, khi đó
Bồ Tát tu
không tam muội đầy đủ.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát nghĩ rằng:
Chúng sanh mãi mãi đi trên các tướng, đó là những tướng nam, nữ, sắc,
vô sắc. Nếu lúc tôi được
Vô thượng Bồ đề, sẽ làm cho
chúng sanh không có
nhận thức các tướng
sai lầm như vậy.
Bồ Tát thành tựu tâm đó,
dùng sức phương tiện hành Bát nhã
ba la mật, lúc chưa đầy đủ
mười trí lực nhẫn đến pháp
bất cộng thì không chứng lấy thiệt tế. Khi đó
Bồ Tát tu
vô tướng tam muội đầy đủ.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát học
sáu ba la mật, học
nội không nhẫn đến học
vô pháp hữu pháp không, học
tứ niệm xứ nhẫn đến học ba
giải thoát môn, học
mười trí lực, bốn
vô úy,
bốn vô ngại,
đại từ đại bi, học mười
tám pháp bất cộng,
thành tựu trí huệ như
vậy thì chẳng bao giờ
chấp trước những pháp tạo tác hoặc
trụ trước trong
tam giới.
Lúc
đại Bồ Tát nầy học pháp
trợ đạo cùng
hành pháp trợ đạo, nên thử hỏi rằng:
Đại Bồ Tát muốn được
Vô thượng Bồ đề sao lại học quán các
pháp không mà chẳng chứng lày thiệt tế, vì chẳng chứng lấy nên chẳng sa vào hàng
Thanh Văn,
Bích Chi Phật. Quán
vô tướng,
vô tác, vô khởi,
vô sanh,
vô sở hữu, cũng chẳng chứng lấy thiệt tế mà tu
Bát nhã ba la mật?
Nầy Tu Bồ Đề! Lúc thử hỏi như trên, nếu
đại Bồ Tát đó đáp thế nầy:
Đại Bồ Tát chỉ nên
quán không, chỉ nên quán
vô tướng,
vô tác, vô khởi,
vô sanh,
vô sở hữu.
Đại Bồ Tát chẳng nên học không,
vô tướng,
vô tác,
vô sanh, vô khởi,
vô sở hữu, chẳng nên học pháp
trợ đạo.
Nầy Tu Bồ Đề! Phải biết
Bồ Tát đó chưa được chư
Phật thọ ký
Vô thượng Bồ đề. Tại sao vậy? Vì người nầy chẳng nói được chỗ sở học của bực
Bồ Tát bất thối chuyển, chẳng trình bày được, chẳng
giải đáp được.
Nếu
đại Bồ Tát đó nói được,
giải đáp được chỗ sở học của bực
bất thối chuyển, phải biết đó là bực đã
học đạo Bồ Tát, nhập bực
Bạc địa như
chư đại Bồ Tát bất thối chuyển khác”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Chừng có
Bồ Tát chưa được
bất thối chuyển mà
giải đáp được chăng?”
Đức Phật phán dạy: “Có. Nầy Tu Bồ Đề!
Bồ Tát đó nơi
Bát nhã ba la mật hoặc đã nghe hoặc chẳng nghe, có thể
giải đáp được như bực
đại Bồ Tát bất thối chuyển”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Rất đông
Bồ Tát cầu
Phật đạo mà ít có
Bồ Tát giải đáp được như các bực
đại Bồ Tát bất thối chuyển trong hàng
hữu học và
vô học như vậy”.
Đức Phật phán dạy: “Đúng như vậy.
Bồ Tát rất ít. Tại sao vậy? Vì
đại Bồ Tát ít có được
thọ ký bực Càn Huệ
bất thối chuyển. Nếu người nào được
thọ ký thì có thể
giải đáp được.
Thiện căn của người đó sáng rõ. Tất cả
chư thiên cùng người đời không ai
phá hoại được”.
PHẨM MỘNG TRUNG BẤT CHỨNG
THỨ SÁU MƯƠI MỐT
Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Nếu
đại Bồ Tát nhẫn đến trong
chiêm bao, chẳng
tham muốn bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, cũng chẳng
tham muốn ba cõi. Quán các
pháp như mộng,
như ảo, như hưởng, như diệm,
như hóa, cũng chẳng chứng lấy.
Nầy Tu Bồ Đề! Phải biết đó là tướng
bất thối chuyển của
đại Bồ Tát bất thối chuyển.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát trong
chiêm bao thấy Phật cùng
vô số Tỳ Kheo,
Tỳ Kheo Ni,
Ưu Bà Tắc,
Ưu Bà Di, Thiên, Long, Quỷ, Thần. Thấy
đức Phật thuyết pháp cho
đại chúng.
Bồ Tát nầy theo Phật
nghe pháp liền hiểu nghĩa trong đó rồi thật hành theo pháp.
Phải biết đó là tướng
bất thối chuyển của
đại Bồ Tát bất thối chuyển.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Trong
chiêm bao,
đại Bồ Tát thấy
đức Phật đủ ba mươi hai tướng,
tám mươi tùy hình hảo, phóng ánh sáng vọt lên không trung
thuyết pháp cho chúng
đại Tỳ Kheo, rồi
hiện đại thần lực biến làm hóa nhơn đến
Phật độ khác mà
làm Phật sự.
Phải biết đó là tướng
bất thối chuyển của
đại Bồ Tát bất thối chuyển.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Nếu trong
chiêm bao,
đại Bồ Tát thấy giặc nổi dậy đánh phá xóm làng, thành thị, hoặc phóng hỏa, hoặc thấy những
ác thú cọp, sói,
sư tử, hoặc thấy có kẻ muốn đến chặt đầu mình, hoặc thấy
cha mẹ,
anh chị, bạn hữu chết. dầu thấy bao nhiêu sự dữ hung, khổ sầu như
vậy mà chẳng kinh sợ, buồn lo. Sau khi
thức giấc liền
suy gẫm ba cõi hư vọng đều như
cảnh chiêm bao thôi. Lúc tôi được
Vô thượng Bồ đề, sẽ vì
chúng sanh mà giảng nói
ba cõi như
chiêm bao.
Phải biết đó là tướng
bất thối chuyển của
đại Bồ Tát bất thối chuyển.
Lại nầy Tu Bồ Đề! thế nào mà biết là
đại Bồ Tát bất thối chuyển lúc được
Vô thượng Bồ đề, trong nước không có ba ác đạo?
Trong
chiêm bao, nếu
đại Bồ Tát thấy các
Súc sanh,
Ngạ quỷ,
Địa ngục liền nghĩ rằng tôi phải siêng năng
tinh tấn, lúc được
Vô thượng Bồ đề, trong cõi nước tôi không có ba
ác đạo. Tại sao vậy? Vì
cảnh chiêm bao cùng các
pháp không hai, không sai khác.
Phải biết đó là tướng
bất thối chuyển của
đại Bồ Tát bất thối chuyển.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Trong
chiêm bao,
đại Bồ Tát thấy lửa
Địa ngục nấu
chúng sanh liền phát thệ: Nếu tôi thiệt là bực
bất thối chuyển, nguyện lửa nầy liền tắt.
Nếu lửa
Địa ngục liền tắt theo
lời nguyện, phải biết đó là tướng
bất thối chuyển.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Ban ngày
đại Bồ Tát thấy thành thị bị hỏa hoạn liền nghĩ rằng: Trong
chiêm bao, tôi thấy hạnh, loại,
tướng mạo bất thối chuyển, nay tôi thiệt có như vậy.
Tự lập thệ rằng: Xin cho lửa nầy liền tắt.
Sau khi
lập thệ, nếu lửa liền tắt thì phải biết đó là
đại Bồ Tát được
thọ ký Vô thượng Bồ đề, trụ bực
bất thối chuyển.
Nếu lửa đó chẳng liền tắt, đốt cháy từ nhà nầy đến nhà khác, từ xóm nầy đến xóm khác, nầy Tu Bồ Đề! Phải biết những nhà bị cháy là do đời trước nghiệp nhơn
phá pháp sâu dầy nên đời nay mang
tai họa thừa ấy.
Do
nhơn duyên đó, phải biết là tướng
bất thối chuyển của
đại Bồ Tát bất thối chuyển.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Nay
đức Phật lại vì người mà nói hạnh, loại,
tướng mạo của
đại Bồ Tát bất thối chuyển.
Nếu có nam tử hay nữ nhơn bị
quỷ thần dựa. Khi đó
Bồ Tát tự nghĩ: Nếu tôi được chư Phật
quá khứ thọ ký, tâm tôi
thanh tịnh cầu
Vô thượng Bồ đề,
hành chánh đạo
thanh tịnh, xa rời tâm cầu
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, đáng được
Vô thượng Bồ đề. Tôi quyết chắc sẽ được
Vô thượng Bồ đề, chẳng phải là không được.
Hiện tại chư Phật ở
mười phương quốc độ không gì chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiều, chẳng chứng. Chư Phật biết
thâm tâm tôi định chắc quyết sẽ được
Vô thượng Bồ đề. Do lòng
chí thành phát thệ ấy, nam tử hay nữ nhơn bị
quỷ thần dựa
não hại đây sẽ được khỏi
khổ nạn,
quỷ thần sẽ rời xa.
Nầy Tu Bồ Đề!
Bồ Tát phát thệ như vậy, nếu
quỷ thần chẳng rời đi, thì phải biết
Bồ Tát đó chưa được chư Phật quá khư
thọ ký Vô thượng Bồ đề. Nếu
quỷ thần rời, thì phải biết đã được chư Phật
quá khứ thọ ký Vô thượng Bồ đề.
Do những hạnh, loại,
tướng mạo đó mà biết là
đại Bồ Tát bất thối chuyển.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát xa rời
sáu ba la mật và sức
phương tiện,
tu hành tứ niệm xứ nhẫn đến ba môn môn
tam muội chưa lâu, chưa
nhập địa vị
Bồ Tát.
Bồ Tát đó bị
ác ma nhiễu hại bèn thệ rằng, nếu tôi thiệt được chư
Phật thọ ký thì
quỷ thần nầy phải rời đi.
Ác ma có oai lực hơn
quỷ thần nên
quỷ thần liền rời đi.
Bồ Tát nầy nghĩ rằng do sức
thệ nguyện của tôi mà
quỷ thần phải rời đi, chớ chẳng biết là sức của
ác ma. Vì cậy chỗ chức
chứng đắc nên khinh dễ các
Bồ Tát khác: Tôi đã được chư
Phật thọ ký, còn các Ngài thì chưa. Sanh lòng
tăng thượng mạn. Do đây mà
xa lìa nhứt thiết
chủng trí,
xa lìa Vô thượng Bồ đề.
Nầy Tu Bồ Đề! Phải biết người đó sa vào hai bực: hoặc bực
Thanh Văn, hoặc bực
Bích Chi Phật.
Do
nhơn duyên luống thệ như trên, không có sức
phương tiện nên mà sự
phát khởi. Người đó vì chẳng thân cận,
y chỉ thiện tri thức, chẳng hỏi rành
tướng mạo bất thối chuyển nên bị ma
trói buộc càng thêm
kiên cố.
Tại sao vậy? Vì
Bồ Tát đó hành
sáu ba la mật chẳng được lâu nên không có sức
phương tiện.
Phải biết đó là
ma sự của
Bồ Tát.
Nầy Tu Bồ Đề! Thế nào là
Bồ Tát hành sáu ba la mật chẳng được lâu, nhẫn đến chưa
nhập địa vị
Bồ Tát, bị
ác ma nhiễu hại?
Nầy Tu Bồ Đề!
Ác ma hóa hiện các thứ
thân hình đến bảo
Bồ Tát rằng: Ở chỗ chư Phật, Ngài được
thọ ký Vô thượng Bồ đề, Ngài tên ấy, cha tên ấy, mẹ tên ấy,
anh chị em tên ấy, bảy đời
cha mẹ của Ngài tên họ như vậy, Ngài sanh trong ấp ấy, làng ấy, thành ấy, nước ấy, tại địa phương ấy. Nếu thấy
Bồ Tát tánh hạnh hòa nhu,
ác ma nói: Đời trước Ngài cũng hòa nhu. Nếu thấy
Bồ Tát thấy tánh nóng gấp,
ác ma nói: Đời trước ngài cũng như vậy. Nếu thấy
Bồ Tát tu hạnh
tịch tịnh,
ác ma nói: Đời trước Ngài cũng tu như vậy. Nếu thấy
Bồ Tát khất thực,
nạp y, chiều chẳng uống tương,
một lần ngồi ăn, ăn một bát, ở nơi gò mả, ở chỗ trống, ở dưới cây, ngồi luôn chẳng nằm,
ngồi kiết già, chỉ thọ ba y, hoặc
thiểu dục, hoặc tri trúc, hoặc tu hạnh
xa lìa, hoặc chẳng thoa chưn, hoặc
ít nói chuyện,
ác ma bèn nói: đời trước Ngài cũng có hạnh như vậy, đời nay Ngài có
công đức Đầu Đà nầy, đời trước Ngài cũng có
công đức như vậy.
Bồ Tát nghe nói
việc đời trước và họ tên, lại nghe khen ngợi
công đức Đầu Đà liền
vui mừng, sanh lòng kiêu mạng.
Bấy giờ
ác ma nói: Ngài có
công đức như vậy, có tướng như vậy, Ngài đã thiệt chư Phật tho ký
Vô thượng Bồ đề.
Nầy Tu Bồ Đề!
Ác ma hiện làm
Tỳ Kheo vấn y, hoặc hiện làm
Cư Sĩ, hoặc
hiện hình cha mẹ đến bảo
Bồ Tát: Ngài đã được
thọ ký Vô thượng Bồ đề. Tại sao? Vì bao nhiêu tướng
bất thối chuyển, Ngài đều có đủ.
Nầy Tu Bồ Đề! Thiệt ra những
tướng mạo bất thối chuyển chơn thiệt của
đức Phật nói, người nầy
hoàn toàn không có.
Phải biết
Bồ Tát đó bị ma nhiễu hại. Tại sao vậy? Vì
Bồ Tát đó
hoàn toàn không có
tướng mạo bất thối chuyển. Nhơn nghe
khen tặng mà sanh Lại nầy Tu Bồ Đề!; òng
kiêu mạn, khinh miệt người khác.
Phải biết đó là
ma sự của
Bồ Tát.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Bồ Tát hành sáu ba la mật chẳng được lâu, chẳng biết tướng
danh tự, chẳng biết tướng sắc, tướng thọ, tưởng, hành, thức.
Ác ma đến nói:
Đời sau, lúc Ngài được
Vô thượng Bồ đề, sẽ có những
danh hiệu như vầy. Rồi
ác ma theo chỗ tưởng niệm của
Bồ Tát đó mà nói
danh hiệu.
Bồ Tát vô trí, không có
phương tiện đó nghĩ rằng tôi đã trước có
danh hiệu thành Phật như người nầy nói, hiệp đúng với bổn ý của tôi. Chắc là tôi đã được chư
Phật thọ ký.
Nầy Tu Bồ Đề!
Tướng mạo bất thối chuyển của
đức Phật nói, người nầy
hoàn toàn không có. Chỉ theo
danh hiệu trống rỗng ấy rồi
kiêu mạn, khinh miệt người khác. Vì thế mà
xa lìa Vô thượng Bồ đề.
Bồ Tát nầy
xa lìa Bát nhã ba la mật, không có sức
phương tiện,
xa lìa thiện tri thức, theo
ác tri thức nên sa vào hai bực
Thanh Văn,
Bích Chi Phật. Nếu được liền tại thân đời nầy, ăn năm
sám hối, lâu lâu qua lại trong
sanh tử rồi sau mới
trở lại y chỉ Bát nhã ba la mật. Nếu gặp
thiện tri thức rồi thường gần gũi thì sẽ được
Vô thượng Bồ đề. Còn nếu tại thân nầy chẳng liển
sám hối sẽ phải sa vào hai bực: hoặc
Thanh Văn, hoặc
Bích Chi Phật.
Nầy Tu Bồ Đề! Nơi tứ trọng giới, nếu
Tỳ Kheo phạm một giới thì chẳng phài là
Sa Môn, chẳng phải là
Thích tử, hiện đời chẳng được bốn quả
Sa Môn.
Nầy Tu Bồ Đề!
Bồ Tát đó
ham danh tự giả, có tâm
kiêu mạn, khinh miệt người khác, phải biết tội nầy nặng hơn
tội phạm giới trọng của
Tỳ Kheo. Nầy Tu Bồ Đề! Chẳng những nặng hơn bốn trọng giới mà cón hơn cả tội
ngũ nghịch. Bởi ham nhận
danh hiệu giả mà sanh lòng cao ngạo, khinh miệt người khác, phải biết là tội rất nặng. Như về những
danh hiệu, còn các
ma sự nhỏ nhặt khác,
Bồ Tát phải
cảnh giác biết rõ.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Bồ Tát ở chỗ vắng vẻ núi đầm trống xa. Ma đến khen ngợi rằng: Hạnh Ngài làm là
pháp viễn ly của Phật
ca ngợi.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đức Phật chẳng
ca ngợi sự
viễn ly như vậy, nghĩa là chỉ ở nơi vắng vẻ núi đầm trống xa mà gọi là
viễn ly.
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu ở chỗ vắng vẻ núi đầm trống xa như
vậy mà chẳng phải là
pháp viễn ly thì có
pháp viễn ly khác thế nào?
- Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
Bồ Tát xa rời tâm
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, ở chỗ vắng vẻ núi đầm trống xa, đây là
pháp viễn ly mà
đức Phật hứa khả.
Pháp viễn ly nầy
Bồ Tát phải
tu hành. Ngày đêm
hành pháp viễn ly nầy thì gọi là
Bồ Tát viễn ly hạnh.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
pháp viễn ly của
ác ma nói, ở chỗ vắng vẻ núi đầm trống xa mà tâm
Bồ Tát nầy ở tại nơi ồn náo; đó là chẳng xa rời
tâm niệm Thanh Văn,
Bích Chi Phật chẳng siêng tu
Bát nhã ba la mật,
Bồ Tát nầy chẳng đầy đủ được nhứt thiết
chủng trí.
Bồ Tát nầy
hành pháp viễn ly của
ác ma nói, lòng chẳng
thanh tịnh mà đi khinh khi các
Bồ Tát ở gần thành thị
tâm thanh tịnh, không có
tâm niệm ồn náo,
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, cũng không có tâm tạp ác khác, đầy đủ
thiền định,
giải thoát,
trí huệ,
thần thông.
Bồ Tát xa rời
Bát nhã ba la mật không có sức
phương tiện đó, dầu ở chỗ tuyệt trống vắng ngoài trăm
do tuần, chỗ
cầm thú,
quỷ thần,
la sát ở, hoặc một năm
cho đến trăm ngàn vạn ức năm, hoặc lâu hơn
thời gian trên, mà chẳng biết
pháp viễn ly chơn thiệt của
Bồ Tát: đó là thâm phát
Vô thượng Bồ đề, chẳng có tâm tạp ác, ồn náo. Chỗ làm của
Bồ Tát nầy
đức Phật không
hứa khả.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đức Phật nói
pháp viễn ly chơn thiệt.
Bồ Tát nầy chẳng ở trong đó, cũng chẳng thấy tướng
viễn ly đó. Tại sao? Vì
Bồ Tát nầy chỉ hành theo
pháp viễn ly
hư giả. Bấy giờ
ác ma đến đứng trong
hư không khen rằng:
Lành thay! Lành thay! Nầy thiện nam! Đó là
pháp viễn ly chơn thiệt của Phật nói. Ngài
hành pháp viễn ly ấy sẽ mau được
Vô thượng Bồ đề.
Nghe lời khen ấy,
Bồ Tát nầy có
tâm niệm ham
pháp viễn ly ấy tất sẽ khinh dễ các người cầu
Phật đạo khác cho là ồn náo.
Đó là lấy ồn náo làm chẳng ồn náo, đáng
cung kính mà chẳng
cung kính, chẳng đáng
cung kính mà
cung kính.
Bồ Tát nầy nói: Chư
quỷ thần nớ tưởng đến khen ngợi tôi. Chỗ tôi
hành trì đúng là hạnh
viễn ly, không ai
khen tặng những người ở gần thành thị. Do cớ đó mà
Bồ Tát nầy khinh khi các
Bồ Tát khác.
Nầy Tu Bồ Đề! Phải biết
Bồ Tát nầy gọi là
Bồ Tát Chiên Đà La làm
ô nhiễm chư
Bồ Tát. Người nầy giống hình
Bồ Tát mà thiệt là kẻ đại tặc trong nhơn nhơn gian và
trên trời, cũng là kẻ giặc vấn y trong hàng
Sa Môn. Với người như vậy, những người cầu
Phật đạo chẳng nên gần gũi,
cúng dường,
cung kính. Tại sao vậy?
Nầy Tu Bồ Đề! Phải biết người nầy sa vào hàng
tăng thượng mạn.
Thế nên nếu
đại Bồ Tát muốn chẳng rời bỏ nhứt thiết
chủng trí, muốn được
Vô thượng Bồ đề,
nhứt tâm muốn cầu
Vô thượng Bồ đề, muốn
lợi ích tất cả
chúng sanh thì chẳng nên gần gũi hạng người như vậy để
cung kính,
cúng dường.
Theo pháp của
đại Bồ Tát, phải
thường xuyên cầu tự lợi, nhàm sợ
thế gian, tâm luôn xa rời
ba cõi, đối với hạng người ấy phải có
lòng từ bi
hỉ xả. Tôi hành
Bồ Tát đạo chẳng nên sanh
tội lỗi như vậy. Nều có lỗi như vậy phải mau dứt trừ.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát phải khéo
cảnh giác ma sự ấy. Ở trong
ma sự ấy phải khéo
cố gắng ra khỏi.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát thâm tâm muốn được
Vô thượng Bồ đề, phải gần gũi,
cung kính,
cúng dường thiện tri thức.
- Bạch đức Thế Tôn! Những ai là
thiện tri thức của đại Bồ Tát?
- Nầy Tu Bồ Đề! Chư Phật là
thiện tri thức của
đại Bồ Tát.
Chư đại Bồ Tát cũng là
thiện tri thức của
Bồ Tát.
A La Hán cũng là
thiện tri thức của
Bồ Tát.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Sáu ba la mật là
thiện tri thức của
Bồ Tát.
Tứ niệm xứ nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng cũng là
thiện tri thức của
Bồ Tát. Như, thiệt tế,
pháp tánh cũng là
thiện tri thức của
Bồ Tát.
Nầy Tu Bồ Đề!
Sáu ba la mật là đạo, là rất sáng, là đuốc, là trí, là huệ, là cứu, là quy, là cồn đảo, là đường
rốt ráo, là cha, là mẹ.
Tứ niệm xứ nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí cũng vậy.
Tại sao? Vì
sáu ba la mật và
ba mươi bảy phẩm trợ đạo là cha, là mẹ của
mười phương chư Phật quá khứ, chư
Phật vị lai, chư
Phật hiện tại. Tại sao? Vì
sáu ba la mật và
ba mươi bảy phẩm trợ đạo hay sanh
mười phương chư Phật quá khứ,
vị lai,
hiện tại vậy.
Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát muốn được
Vô thượng Bồ đề,
tịnh Phật quốc độ,
thành tựu chúng sanh thì phải học
sáu ba la mật,
ba mươi bảy phẩm trợ đạo và bốn nhếp pháp để nhiếp lấy
chúng sanh. Đây là bốn nhiếp pháp:
bố thí,
ái ngữ,
lợi ích và
đồng sự.
Nầy Tu Bồ Đề! Vì có
công năng lợi ích như vậy nên ta nói
sáu ba la mật và
ba mươi bảy phẩm trợ đạo là
đại Bồ Tát, là
Thế Tôn, là đạo, là rất sáng, là đuốc, là trí, là huệ, là cứu, là quy, là cồn đảo, là đường
rốt ráo , là cha, là mẹ.
Thế nên
đại Bồ Tát muốn an trụ chẳng theo lời người khác, muốn dứt nghi cho tất cả
chúng sanh, muốn
tịnh Phật quốc độ, muốn
thành tựu chúng sanh, thì phải học
Bát nhã ba la mật nầy.
Tại sao? Vì trong
Bát nhã ba la mật nói rộng các pháp mà
chư đại Bồ Tát cần phải học.
- Bạch đức Thế Tôn! Những gì là tướng của
Bát nhã ba la mật?
- Nầy Tu Bồ Đề! Như tướng
hư không là tướng
Bát nhã ba la mật.
Bát nhã ba la mật không có tướng.
- Bạch đức Thế Tôn! Chừng có
duyên cớ mà tướng các pháp cũng như tướng
Bát nhã ba la mật chăng?
- Nầy Tu Bồ Đề! Đúng như vậy. Tướng các pháp cũng như tướng
Bát nhã ba la mật. Vì tất cả
pháp tướng ly,
tướng không. Do
nhơn duyên ấy nên tướng các pháp cũng như tướng
Bát nhã ba la mật. Đó là tướng ly,
tướng không.
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu tất cả pháp là tất cả pháp ly, tất cả pháp là tất cả
pháp không, thì làm sao biết
chúng sanh là cấu hoặc tịnh?
Bạch đức Thế Tôn! Pháp
ly tướng không cấu, không tịnh. Pháp
ly tướng,
không tướng chẳng thể được
Vô thượng Bồ đề.
Ly tướng và
không tướng chẳng có pháp để được.
Bạch đức Thế Tôn! Trong
ly tướng, trong
không tướng không có
Bồ Tát được
Vô thượng Bồ đề.
Bạch đức Thế Tôn! Như
vậy thì tôi làm sao có thể biết được nghĩa
đức Phật tuyên nói?
- Nầy Tu Bồ Đề!
Chúng sanh có
mãi mãi hiện hành tâm ngã,
ngã sở chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Có.
Chúng sanh mãi mãi hiện hành tâmngã,
ngã sở.
- Nầy Tu Bồ Đề! Tâm ngã,
ngã sở đó có
ly tướng chăng? Có
không tướng chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Tâm ngã,
ngã sở ly tướng,
không tướng.
- Nầy Tu Bồ Đề! Do tâm ngã,
ngã sở đó,
chúng sanh có qua lại trong
sanh tử chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Do tâm ngã,
ngã sở đó,
chúng sanh qua lại trong
sanh tử.
- Nầy Tu Bồ Đề! Vì
chúng sanh qua lại trong
sanh tử nên biết là có cấu, có não.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
chúng sanh không tâm ngã,
ngã sở,
tâm không chấp trước thì chẳng còn qua lại trong sanh tữ. Nếu chẳng qua lại trong
sanh tử thì không có cấu, não. Thế là
chúng sanh có tịnh.
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu
đại Bồ Tát hành như vậy, đó là chẳng hành sắc, thọ, tưởng, hành, thức là chẳng hành
tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo, là chẳng hành
nội không đến
vô pháp hữu pháp không, là chẳng hành
mười trí lực đến nhứt thiết
chủng trí.
Tại sao vậy? Vì pháp ấy chẳng thể được, cũng không người hành, cũng không chỗ hành, cũng không phép hành.
Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát hành như vậy, tất cả Thiên, Nhơn,
A Tu La ở
thế gian chẳng
hàng phục được
đại Bồ Tát nầy. Tất cả
Thanh Văn,
Bích Chi Phật chẳng bằng được
Bồ Tát nầy.
Tại sao vậy? Vì chỗ an trụ của
Bồ Tát nầy không ai bằng được, đó là
địa vị Bồ Tát.
Bạch đức Thế Tôn! Chỗ hành của
đại Bồ Tát nầy đúng với tâm nhứt thiết
chủng trí, không ai bằng được.
- Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát hành như vậy mau gần với nhứt thiết
chủng trí.
Nầy Tu Bồ Đề!
Cứ theo ý ngươi thế nào? nếu như tất cả mọi loài
chúng sanh ờ
Diêm Phù Đề đều
hành nghiệp người, đều được thân người và đều được
Vô thượng Bồ đề cả. Nếu có
thiện nam,
thiện nữ trọn đời cung kính,
cúng dường,
ngợi khen tất cả chư Phật đó, rồi đem tất cả
thiện căn hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Do cơ ấy được phước nhiều chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều.
- Nầy Tu Bồ Đề! Phước không nhiều bằng
thiện nam,
thiện nữ ở giữa
đại chúng tuyên nói
Bát nhã ba la mật, chỉ dạy rành rẽ,
khai diễn rõ ràng đúng với
Bát nhã ba la mật và cũng chánh
ức niệm. Nhẫn đến
chúng sanh trong cõi
Đại Thiên cũng như vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! Như tất cả
chúng sanh trong
Diêm Phù Đề đồng thời đều được thân người. Có
thiện nam,
thiện nữ dạy họ hành
thập thiện,
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định, dạy họ được quả
Tu Đà Hoàn đến quả
Bích Chi Phật, dạy họ được
Vô thượng Bồ đề. Đem
thiện căn dạy bảo đó
hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Thiện nam,
thiện nữ đó được phước nhiều chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều.
- Nầy Tu Bồ Đề! Phước nhiều không bằng
thiện nam,
thiện nữ đem
Bát nhã ba la mật nầy diễn nói, chỉ dạy
rõ ràng, rành rẽ cho
chúng sanh, cũng chẳng xa rời nhứt thiết
chủng trí.
Như
Diêm Phù Đề, nhẫn đến cõi
Đại Thiên cũng như vậy.
Đại Bồ Tát nầy chẳng xa rời tâm nhứt thiết
chủng trí thì đến tột cùng bờ tất cả
phước điền. Trừ chư Phật, không có pháp nào bằng
thế lực của
đại Bồ Tát.
Tại sao vậy? Vì
đại Bồ Tát lúc
hành Bát nhã
ba la mật, đối với tất cả
chúng sanh phát khởi lòng
đại từ, vì thấy các
chúng sanh hướng đến chỗ chết nên sanh lòng
đại bi. Lúc
hành đạo,
Bồ Tát vui thích nên sanh lòng
đại hỉ. Vì chẳng
cùng chung với tưởng niệm nên được
đại xả.
Nầy Tu Bồ Đề! Đó là
đại Bồ Tát được ánh
đại trí. Ánh sáng
đại trí đầy tức là
sáu ba la mật.
Nầy Tu Bồ Đề!
Thiện nam,
thiện nữ dầu chưa
làm Phật mà có thể làm
phước điền lớn cho tất cả
chúng sanh, chẳng
thối chuyển nơi
Vô thượng Bồ đề. Hưởng thọ bốn sự
cúng dường, hành đúng tâm
Bát nhã ba la mật,
quyết định báo ơn thí chủ, mau gần nhứt thiết
chủng trí.
Thế nên
đại Bồ Tát muốn chẳng luống hưởng thọ bốn sự thí cúng của người, muốn đạo
Tam thừa cho
chúng sanh, muốn làm ánh sáng lớn cho
chúng sanh, muốn cứu vớt lao ngục
tam giới, muốn ban con mắt sáng cho
chúng sanh, thì phài
thường hành Bát nhã ba la mật.
Lúc
hành Bát nhã
ba la mật,
đại Bồ Tát có muốn nói thì nói
Bát nhã ba la mật. Nói
Bát nhã ba la mật rồi thường ghi nhớ
Bát nhã ba la mật.
Thường ghi nhớ
Bát nhã ba la mật rồi
thường hành Bát nhã ba la mật, chẳng cho
tâm niệm khác phát sanh được, ngày đêm siêng
hành Bát nhã
ba la mật,
tâm niệm tương ứng, chẳng thôi, chẳng nghĩ.
Nầy Tu Bồ Đề!
Ví như có người chưa từng được
châu ma ni, lúc sau được, được rồi
vui mừng hớn hở. Rồi sau lại đánh mất bèn rất lo sầu, thường nhớ tưởng
châu ma ni đó,
tự tại sao tôi lại đánh mất
châu ma ni.
Cũng vậy,
đại Bồ Tát luôn nghĩ nhớ
Bát nhã ba la mật, chẳng rời tâm nhứt thiết
chủng trí.
- Bạch đức Thế Tôn! Tất cả niệm tưởng, tánh của nó tự ly, tánh của nó tự không, tại sao
đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật lại chẳng rời lìa tâm nhứt thiết chủng trí? Trong
pháp viễn ly,
pháp không đó, không có
Bồ Tát, cũng không có niệm, không nhứt thiết
chủng trí.
- Nầy Tu Bồ Đề! Nếu
đại Bồ Tát biết tất cả
pháp như vậy, tánh nó tự ly, tánh nó tự không, chẳng phải do
Thanh Văn,
Bích Chi Phật làm ra, cũng chẳng phải do Phật làm ra. Các
pháp tướng thường trụ,
pháp tướng,
pháp trụ,
pháp vị, như, thiệt tế, đây gọi là
Bồ Tát hành Bát nhã ba la mật, chẳng rời lìa tâm nhứt thiết
chủng trí. Tại sao? Vì
Bát nhã ba la mật tánh tự ly, tánh tự không, chẳng tăng, chẳng giảm vậy.
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu
Bát nhã ba la mật, tánh nó tự ly, tánh nó tự không, thì thế nào
đại Bồ Tát bằng với
Bát nhã ba la mật, được
Vô thượng Bồ đề?
- Nầy Tu Bồ Đề!
Đại Bồ Tát bằng với
Bát nhã ba la mật, chẳng tăng, chẳng giảm. Tại sao? Vì
Bát nhã ba la mật chẳng phải một, chẳng phải khác.
Nếu
đại Bồ Tát nghe tướng
Bát nhã ba la mật như
vậy mà chẳng kinh sợ,
nghi ngờ. Phải biết
đại Bồ Tát nầy
hành Bát nhã
ba la mật, phải biết
đại Bồ Tát nầy an trụ bực
bất thối chuyển.
- Bạch đức Thế Tôn! Không, chẳng chỗ có, là
hành Bát nhã
ba la mật chăng?
- Không phải.
- Bạch đức Thế Tôn! Rời không, còn có
pháp hành Bát nhã ba la mật chăng?
- Không có.
- Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật đó
hành Bát nhã
ba la mật chăng?
- Không.
- Bạch đức Thế Tôn! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là
hành Bát nhã
ba la mật chăng?
- Không.
- Bạch đức Thế Tôn!
Sáu ba la mật hành Bát nhã
ba la mật chăng?
- Không.
- Bạch đức Thế Tôn!
Tứ niệm xứ đến pháp
bất cộng là
hành Bát nhã
ba la mật chăng?
- Không.
- Bạch đức Thế Tôn! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức
tướng không,
hư dối chẳng thiệt, không chỗ có, tướng chẳng
kiên cố, tướng như,
pháp tướng,
pháp trụ,
pháp vị, thiệt tế là
hành Bát nhã
ba la mật chăng?
- Không.
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu các pháp đó đều chẳng hành, thì
Bát nhã ba la mật thế nào mà gọi là
đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật?
- Nầy Tu Bồ Đề! Ngươi có thấy pháp nào
hành Bát nhã
ba la mật chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Không.
- Nầy Tu Bồ Đề! Ngươi có thấy chỗ
hành Bát nhã
ba la mật của
đại Bồ Tát chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Không.
- Nầy Tu Bồ Đề! Pháp mà ông chẳng thấy đó, pháp ấy có thể được chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Không.
- Nầy Tu Bồ Đề! Pháp ấy chẳng thể được, pháp ấy sẽ sanh chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Không.
- Nầy Tu Bồ Đề! Đó gọi là
vô sanh pháp nhẫn của
đại Bồ Tát.
Bồ Tát thành tựu nhẫn nầy được
thọ ký Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là
vô sở úy,
vô ngại trí của Phật.
Đại Bồ Tát hành pháp đó
siêng cần tinh tấn thì chẳng mất
đại trí nhứt thiết
chủng trí, đó là trí
Vô thượng Bồ đề. Không bao giờ chẳng được. Tại sao? Vì
đại Bồ Tát được
vô sanh pháp nhẫn, nhẫn đến
Vô thượng Bồ đề chẳng lui sụt, chẳng
giảm bớt.
- Bạch đức Thế Tôn! Các
pháp tướng vô sanh, trong đó được
thọ ký Vô thượng Bồ đề chăng?
- Không.
- Bạch đức Thế Tôn! Các
pháp tướng sanh, trong đó được
thọ ký Vô thượng Bồ đề chăng?
- Không.
- Bạch đức Thế Tôn! Các pháp chẳng sanh, chẳng
vô sanh, trong đó được
thọ ký Vô thượng Bồ đề chăng?
- Không.
- Bạch đức Thế Tôn!
Đại Bồ Tát làm sao biết là các pháp được
thọ ký Vô thượng Bồ đề!
- Nầy Tu Bồ Đề! Ngươi thấy có các pháp được
thọ ký Vô thượng Bồ đề chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Không. Tôi chẳng thấy có pháp được
thọ ký Vô thượng Bồ đề. Tôi cũng chẳng thấy có người được chỗ được.
- Đúng như vậy. Nầy Tu Bồ Đề! Nếu lúc
đại Bồ Tát ở nơi tất cả pháp
vô sở đắc, chẳng nghĩ rằng tôi sẽ được
Vô thượng Bồ đề, cũng chẳng nghĩ dùng sự đó được
Vô thượng Bồ đề, đây gọi là chỗ
Vô thượng Bồ đề.
Tại sao? Vì
chư đại Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật không có tưởng nhớ,
phân biệt.
Tại sao? Vì trong
Bát nhã ba la mật không có tưởng nhớ,
phân biệt vậy”.
Hết tập II