Trước khi
phái đoàn chính thức tiến hành các
hoạt động tiếp xúc,
điều tra, Chính phủ ông Diệm đã nhiều lần “hứa sẽ làm tất cả
mọi việc để tạo sự dễ dàng cho
nhiệm vụ điều tra sự thật của phái đoàn” (promised to do everything to facilitate the Mission’s task of finding the facts).
Tuy nhiên, ngay hôm sau đó (25-10-1963), khi
phái đoàn tiến hành việc
thăm viếng các chùa
Xá Lợi,
Ấn Quang và
Giác Lâm theo lịch trình do chính phía Chính phủ
Việt Nam Cộng hòa
đề xuất thì
thực tế đã cho thấy điều ngược lại.
Theo lịch trình, chuyến thăm chùa
Ấn Quang “ban đầu được sắp xếp sớm hơn vào buổi chiều, nhưng phía
Việt Nam đã
hoãn lại, tự thay đổi thời biểu mà không hề hỏi ý Phái đoàn” (originally arranged for earlier in the afternoon, was delayed by the Government which had changed the schedule without consulting the Mission).
Tệ hơn nữa, “vào phút cuối thì chuyến thăm chùa
Ấn Quang đã bị hủy bỏ” (At the last minute the visit to the An-Quang Pagoda was cancelled) và khi
phái đoàn yêu cầu một lời
giải thích chính thức về sự thay đổi này, phía
Việt Nam đã nói rằng do
Sư cô Diệu Huệ và
Hòa thượng Thích Tịnh Khiết “bị mệt vào chiều hôm đó” (were tired in the late afternoon).
Tuy nhiên, sau đó thì
phái đoàn đã
tìm hiểu được rằng trong
thực tế Sư cô Diệu Huệ và
Hòa thượng Thích Tịnh Khiết đã chờ suốt buổi chiều hôm ấy để
tiếp đón phái đoàn. Sự
dối trá này
quả thật là một khởi đầu không mấy
tốt đẹp cho
hình ảnh của Chính phủ ông Diệm. Sau đó,
Phái đoàn cũng nhận được thông tin từ chùa
Ấn Quang đoan chắc rằng
phái đoàn có thể đến thăm chùa bất kỳ lúc nào,
tốt hơn là vào buổi sáng, và cả hai người (
Sư cô Diệu Huệ và
Hòa thượng Thích Tịnh Khiết) sẽ có mặt ở chùa. (the Mission was assured that it could visit the pagoda at any time, preferably in the morning, and that these two personalities would be there).
Từ
thực tế này, ngày 26-10-1963,
Phái đoàn đã gửi đến Chính phủ một văn bản nói rõ
dự trù chương trình sắp đến của
Phái đoàn, trong đó có những điểm đáng
lưu ý là:
Hủy bỏ
toàn bộ các
hoạt động do Chính phủ
đề xuất trong 3 ngày 27, 28 và 29 tháng 10. Thay vào đó,
Phái đoàn sẽ
tùy ý đến thăm các trại giam thanh
thiếu niên, các vị tăng sĩ còn
bị giam trong tù,
đồng thời tự đến viếng thăm chùa
Ấn Quang.
Phái đoàn sẽ đến Huế vào ngày 30-10-1963 như
chương trình đề xuất của Chính phủ, nhưng sẽ dành
thời gian viếng thăm chùa Từ Đàm cùng một số chùa khác sau khi
tiếp xúc với các
đại diện của chính quyền tại Huế.
Phái đoàn cũng sẽ
tiếp xúc,
phỏng vấn trực tiếp một
số nhân chứng tại Huế nhưng danh sách những người này sẽ gửi đến Chính phủ sau.
Phái đoàn quyết định hủy bỏ tất cả các
sự kiện có tính giao tiếp
xã hội và các
đề xuất du lịch ở Huế. Những ngày còn lại trong tuần sẽ được dành trọn để lắng nghe các nhân chứng.
Phái đoàn cũng
cho biết là họ
hy vọng có thể
hoàn tất nhiệm vụ và rời khỏi
Việt Nam trước ngày thứ Hai, 4-11-1963.
Điều tất nhiên là Chính phủ
trả lời đồng ý với các
dự tính và
quyết định của
Phái đoàn.
Tuy nhiên, Chính phủ cũng đề nghị thêm là
phái đoàn nên viếng thăm tỉnh Vĩnh Bình, nơi có nhiều
Phật tử gốc Khmer.
Phái đoàn trả lời là tạm thời chưa
quyết định việc này.
Ngay trong buổi chiều ngày 26-10,
Phái đoàn chính thức đưa ra một thông cáo
báo chí, mời gọi tất cả những ai
quan tâm đến nội dung
điều tra của
Phái đoàn đều có thể đến gặp họ để trình bày trực tiếp hoặc trao các
kiến nghị,
thỉnh nguyện. Các thành viên cùng
đồng ý là thông cáo này sẽ
cùng lúc đưa ra cho giới
báo chí địa phương cũng như quốc tế,
đồng thời gửi đến Bộ Ngoại giao VNCH kèm theo một ghi chú bên ngoài
cho biết là thông cáo này đã được
phổ biến.
Phái đoàn đã
thực hiện việc này trong
phạm vi chức năng của mình và muốn có được sự
hợp tác từ Chính phủ trong việc
phổ biến rộng ra
công chúng. Mặc dù vậy, sau khi nhận được thông tin này từ
phái đoàn, “đại diện Chính phủ
tỏ ra ngạc nhiên và thất vọng” (the Government’s representative expressed surprise and disappointment) vì việc này đã được
thực hiện mà “không có sự
tham khảo trước
ý kiến của Chính phủ” (without prior consultation with the Government).
Đại diện Chính phủ cũng nói thêm rằng, lẽ ra trong thông cáo phải nhắc đến việc Chính phủ VNCH đã chủ động mời
phái đoàn của
Liên Hiệp Quốc đến. Sau khi
thảo luận về việc này,
Phái đoàn tuyên bố họ không
phản đối việc đưa thêm các thông tin như thế vào khi
phổ biến,
miễn là phần nội dung chính của bản thông cáo phải được đặt trong ngoặc trích
hoàn toàn chính xác như đã được
Phái đoàn đưa ra.
Bản thông cáo này sau đó đã
xuất hiện trên
cơ quan truyền thông chính thức của Chính phủ
Việt Nam, bằng cả tiếng Anh và tiếng Pháp.
Báo chí địa phương cũng đăng tải lại toàn văn bằng tiếng Anh và tiếng Pháp một ngày sau đó. Trên một vài tờ báo địa phương,
Phái đoàn cũng
xác nhận bản thông cáo đã được loan tải bằng tiếng Việt. Mặc dù có cáo buộc từ một số nguồn tin quốc tế rằng bản thông cáo không được loan tải đầy đủ trên các báo tiếng Việt, nhưng
Phái đoàn đã không có đủ
điều kiện để khảo sát một cách
hệ thống về điều này, và vẫn
cảm thấy đã nhận được sự
hợp tác hợp lý từ giới
truyền thông địa phương trong việc thông tin đến với
công chúng, để những ai muốn làm nhân chứng hay đệ trình
thỉnh nguyện đều được biết.
Sau đó,
Phái đoàn đã soạn thảo một danh sách các nhân chứng mà họ muốn
phỏng vấn,
sử dụng tất cả những nguồn thông tin có được nhưng
hoàn toàn không
tham khảo gì từ phía Chính phủ VNCH, rồi chuyển danh sách này đến cho Chính phủ vào ngày 27-10-1963. Sau đó còn có thêm 2 bản danh sách nữa
tiếp tục được chuyển đến Chính phủ. Trong ngày 28-10-1963,
phái đoàn cũng chuyển đến cho Chính phủ một bản
liệt kê các cáo buộc đối với Chính phủ mà
phái đoàn quan tâm và muốn có được những câu
trả lời hay
giải thích từ phía Chính phủ. Một bản cáo buộc thứ hai
dựa trên các thông tin mà
phái đoàn nhận được tại
Việt Nam được
tiếp tục chuyển đến cho Chính phủ vào ngày 31-10-1963.
Ngày 28-10-1963,
phái đoàn nhận được một
văn thư từ phía Chính phủ,
hồi đáp về danh sách các nhân chứng cũng như bản
liệt kê các cáo buộc mà Chính phủ đã nhận được. Điểm đáng chú ý là trong nội dung
văn thư có đoạn nêu rõ: “Những thông tin cáo buộc Chính phủ” (communication of charges made against the Government)
cần phải được chuyển đến cho Chính phủ để “so sánh với những
dữ kiện và chứng cứ mà Chính phủ
Việt Nam có quyền trưng dẫn” (compare them with the facts and evidence which the Viet-Namese Government is entitled to present). Nội dung
văn thư này
nhấn mạnh: ‘Nếu không thì những cáo buộc hay chứng cứ được đưa ra đó sẽ không có
giá trị gì cả.” (Otherwise these allegations or testimonies would have no validity whatsoever.) Bằng
lập luận này,
rõ ràng Chính phủ ông Diệm từ một đối tượng của
cuộc điều tra đã muốn
tham gia vào ngay cả tiến trình
điều tra đó với
tư cách của một thành viên có quyền thay đổi kết quả.
Trong buổi làm việc với Bộ trưởng Ngoại giao ngày 28-10-1963, vị Trưởng đoàn
Điều tra đã
hết sức khéo léo khi
trả lời về điểm này. Ông nói, tất cả các cáo buộc sẽ được chuyển đến cho Chính phủ, “nhưng sẽ không có thông tin về nguồn cáo buộc” (would not, however, contain any references to the sources from which the accusations came), nghĩa là về những ai đã đưa ra các cáo buộc đó. Vị Trưởng đoàn cũng
nhấn mạnh, “phái đoàn mong muốn
tìm ra sự thật và phải tự mình tiếp cận với mọi quan điểm” (the Mission wanted to find the facts and had to acquaint itself with all points of view).
Về danh sách các nhân chứng mà
Phái đoàn muốn gặp để
phỏng vấn, Bộ trưởng Ngoại giao VNCH nói rằng: “Chính phủ không thể
ép buộc các nhân chứng đến gặp
Phái đoàn, nhưng sẵn sàng mời những người ấy đến gặp nếu họ muốn.” (The Government was in no position to force them to appear before the Mission, but it offered to invite them to do so if they wished.)
Đáp lại điểm này, vị Trưởng đoàn
đồng ý rằng không nên
ép buộc bất kỳ nhân chứng nào.
Tuy nhiên, nếu một nhân chứng nào đó không đến gặp
phái đoàn sau khi Chính phủ đã có
lời mời, thì “Phái đoàn có thể sẽ cố
tìm cách đến gặp họ để
xác nhận việc họ không muốn làm nhân chứng”. (The Mission would try to get in touch with them and obtain confirmation of their desire not to testify).
Cuối cùng, Bộ trưởng Ngoại giao VNCH
truyền đạt rằng Chính phủ VNCH sẽ không
đáp ứng đối với một
số nhân chứng “được xem là
đối lập chính trị” (considered as political opponents).
Như vậy, từ ngày 24-10 đến 28-10-1963,
Phái đoàn điều tra đã xác lập
rõ ràng phương thức làm việc
độc lập, khách quan, né tránh được mọi
tác động từ phía Chính phủ VNCH.
Phái đoàn cũng đã chuẩn bị xong danh sách các nhân chứng cần
phỏng vấn và
hệ thống tất cả các cáo buộc đã nhận được từ nhiều nguồn khác nhau. Ngày 27-10,
Phái đoàn tự tìm đến chùa
Ấn Quang để
tiếp xúc và
phỏng vấn một số các vị
lãnh đạo Phật giáo tại đó. Bất
chấp sự ngăn trở
cố ý của Chính phủ như vào ngày 25-10,
Phái đoàn cuối cùng cũng đã tìm gặp được những nhân vật quan trọng mà họ cần gặp.
Ngày 28-10-1963,
Phái đoàn đến gặp và
phỏng vấn 17 sinh viên đang bị tạm giam ở Trại Lê
Văn Duyệt, thông qua sự chọn lựa
ngẫu nhiên giữa tất cả những sinh viên họ được gặp.
Ngày 29-10, các cuộc
phỏng vấn được
thực hiện ở trại giam của
Trung tâm Thẩm vấn Nha Tổng Giám Đốc Cảnh Sát
Quốc Gia, nơi có nhiều vị tăng sĩ mà
phái đoàn muốn
phỏng vấn hiện vẫn còn
bị giam giữ.
Thời gian còn lại trong ngày,
Phái đoàn đã
tiếp đón và
phỏng vấn 3 nhân chứng tại khách sạn Majestic, nơi
phái đoàn đang tạm trú. Hai người trong số này tự nguyện tìm đến và người thứ ba đã nhận
lời mời từ Chính phủ chuyển đến theo
yêu cầu của
Phái đoàn. Cũng trong ngày 29-10,
Phái đoàn ra thông cáo
báo chí nhắc lại
lời mời gọi những người
quan tâm hãy tìm đến để
cung cấp thông tin cho
phái đoàn.
Phái đoàn cũng thông tin đến
báo chí về
chương trình làm việc
chi tiết tại
Việt Nam.
Căn cứ vào khối lượng công việc cần xử lý tại Sài Gòn,
Phái đoàn đã
quyết định vào ngày 30-10-1963 chỉ cử 3 thành viên ra Huế, các thành viên còn lại
tiếp tục công việc tại Sài Gòn. Trong ngày này,
Phái đoàn đã
phỏng vấn một số thành viên Chính phủ thuộc Bộ Nội vụ, Phủ Tổng Thống và Bộ Quốc Phòng, với
tư cách họ là những thành viên của Ủy ban Liên bộ trong cuộc
đàm phán với Ủy ban Liên phái của
Phật giáo. Cũng trong ngày 30-10,
Phái đoàn phỏng vấn 2 nhân chứng khác, một người do
Phái đoàn mời và một người tự nguyện tìm đến. Sáng ngày 31-10,
Phái đoàn tiếp tục phỏng vấn thêm 2 nhân chứng khác trước khi các thành viên ở Huế
quay về.
Về chuyến đi Huế, các thành viên đã
tiếp xúc với
đại diện Chính phủ tại miền Trung, Tư lệnh Quân đoàn 1, các quan chức đầu ngành của Chính quyền Tỉnh, Hiệu trưởng và Khoa trưởng trường
Đại học. Sau khi nghe trình bày
sơ lược về
vấn đề Phật giáo,
Phái đoàn đã chủ động đặt câu hỏi với
cá nhân các vị này. Tiếp đó,
Phái đoàn yêu cầu được
tiếp xúc với các nhân chứng đã được nêu tên trong danh sách gửi đến Bộ Ngoại giao trước đó.
Tuy nhiên, các viên chức Chính phủ
cho biết trong số này có một nhân chứng được xem là “đối lập chính trị” và vì thế không được phép
tiếp xúc với
Phái đoàn.
Khi viếng thăm chùa Từ Đàm,
Phái đoàn đã
phỏng vấn 3 tăng sĩ và 1
sư cô, là những người đã được nêu tên trong danh sách trước đó.
Ngoài ra còn có một vị tăng sĩ tự nguyện đến gặp. Khi về nghỉ tại khách sạn,
Phái đoàn gặp và
phỏng vấn tiếp nhân chứng thứ 5 trong danh sách, là một tăng sĩ. Có ba nhân chứng khác đã chuẩn bị
thỉnh nguyện thư trình lên
Phái đoàn và cũng được
phỏng vấn. Sau đó,
Phái đoàn tiếp tục phỏng vấn thêm 2 nhân chứng khác có tên trong danh sách
yêu cầu.
Phái đoàn trở về Sài Gòn bằng máy bay vào sáng ngày 31-10-1963 với tiền vé do họ tự chi trả.
Cũng trong ngày 31-10,
Phái đoàn viếng thăm Bộ Ngoại giao và lặp lại đề nghị
phỏng vấn Thượng tọa Thích
Trí Quang, mặc dù trước đó Chính phủ
Việt Nam đã từ chối.
Phản ứng của Bộ Ngoại giao là vẫn giữ nguyên
quan điểm, rằng
Phái đoàn không thể
tiếp xúc với một người đang ở
tình trạng “tỵ nạn” trong Tòa Đại sứ Mỹ. Cách “duy nhất để cuộc
tiếp xúc có thể tiến hành là
Thượng tọa Thích
Trí Quang phải được giao cho phía Chính phủ Việt Nam” (it could only agree to such contact if the monk was delivered to the authorities).
Tuy nhiên, phía Mỹ
không chấp nhận.
Một số người đã
liên lạc với
phái đoàn qua điện thoại và trình bày rằng họ không dám đến khách sạn Majestic để gặp
phái đoàn, bởi có nhiều cảnh sát
thường xuyên canh giữ ở đó.
Phái đoàn đã đề nghị họ có thể gửi các cáo buộc qua thư. Trong
thực tế,
phái đoàn đã nhận được rất nhiều cáo buộc được gửi qua đường bưu điện. Một nhân chứng đề nghị được gặp người của
phái đoàn và cho điểm hẹn tại một nhà hàng.
Phái đoàn đã cử một thành viên đến gặp đúng hẹn nhưng không hiểu
lý do vì sao người này đã không đến. Về
trường hợp của
Thượng tọa Thích
Trí Quang,
phái đoàn đã
quyết định ghi nhận thái độ của Chính phủ
Việt Nam và không làm gì thêm nữa.
Một điều đáng chú ý là vào hôm 29-10-1963, Bộ Nội vụ
Việt Nam thông báo với
phái đoàn rằng có 10 vị sư đã lên
kế hoạch tự thiêu trong
thời gian phái đoàn hiện diện tại
Việt Nam. Trong
thực tế, có một người đã
tự thiêu trong ngày 27-10-1963, 5 người khác đã bị Chính phủ phát hiện và bắt giữ trước khi họ
thực hiện việc
tự thiêu.
Phái đoàn yêu cầu được gặp 5 người
bị bắt này và chiều 30-10, Chính phủ đã
thu xếp để
phái đoàn phỏng vấn một người trong số đó. Cũng trong chiều hôm đó,
phái đoàn đã viếng thăm Bệnh viện
Duy Tân, nơi nạn nhân của các vụ
đàn áp trước đó đã được đưa vào
điều trị.
Phái đoàn cũng
phỏng vấn thêm một nhân chứng khác tại khách sạn Majestic.
Cuộc họp
cuối cùng giữa
phái đoàn với các
đại diện Chính phủ trước khi cuộc đảo chính diễn ra là để
thu xếp một chuyến viếng thăm thứ hai đến Trại giam thuộc
Trung tâm Thẩm vấn của Nha Tổng Giám Đốc Cảnh Sát
Quốc Gia. Sau khi thu thập thêm nhiều chứng cứ mới ở Sài Gòn và Huế,
phái đoàn thấy rằng việc
quay trở lại nơi này là
cần thiết. “Buổi sáng ngày 1-11,
phái đoàn đã
thực hiện cuộc viếng thăm và
phỏng vấn thêm một số các vị tăng sĩ tại đây.” (where the Mission went on the morning of 1 November to interview some more monks.)
Phái đoàn cũng “quyết định gửi một số thành viên đến Vĩnh Bình trong ngày 2-11 để
tiếp xúc với
cộng đồng Phật giáo gốc Khmer, thuộc hệ phái
Tiểu thừa.” (decided to send a delegation to Vinh-Binh on 2 November to visit the religious community of Khmer origin, belonging to the “Lesser Vehicle)
Phái đoàn cũng đã
quyết định sẽ
hoàn tất nhiệm vụ vào buổi tối ngày 3-11 và rời khỏi Sài Gòn
cùng ngày. Sau đó, tất cả thành viên
đồng ý sẽ có mặt tại New York chậm nhất là vào thứ Bảy, 9-11-1963, để
Phái đoàn có thể tổ chức
buổi họp toàn thể vào ngày thứ Hai, 11-11-1963, lúc 3 giờ chiều.
Trong
thực tế, sau buổi
phỏng vấn sáng ngày 1-11-1963,
Phái đoàn trở về khách sạn Majestic và chỉ đến 2 giờ chiều họ mới nhận được thông tin đầu tiên để biết về cuộc đảo chánh đang diễn ra.
Đại diện Chính phủ lúc đó đề nghị họ ở yên trong khách sạn, vì đã xảy ra giao tranh ở một số nơi trong thành phố. Kể từ lúc đó
cho đến sáng ngày 2-11-1963,
Phái đoàn hoàn toàn không thể
liên lạc với phía Chính phủ.
Sáng sớm ngày 2-11-1963,
Đại diện đặc biệt của
Việt Nam tại
Liên Hiệp Quốc, ông Bửu Hội, đến gặp
Phái đoàn tại khách sạn Majestic để chuyển lời của
Hội đồng Quân nhân
Cách mạng lúc đó vừa lên nắm quyền.
Hội đồng này muốn gửi lời chào đến
Phái đoàn và có
lời mời Phái đoàn có thể
tiếp tục ở lại
Việt Nam bao lâu tùy thích,
đồng thời cũng bày tỏ mong muốn được
tiếp đón Phái đoàn vào chiều hôm đó. Vị Trưởng đoàn
hồi đáp rằng
Phái đoàn đã có
quyết định rời
Việt Nam vào ngày 3-11-1963 và sẽ
đánh giá cao sự trợ giúp của
Hội đồng Quân nhân
Cách mạng để
Phái đoàn có thể ra đi dễ dàng.
Chiều hôm đó, 2-11-1963, vị Trưởng đoàn đã thay mặt
Phái đoàn đến thăm
xã giao các tướng Dương
Văn Minh, Trần Văn Đôn và Lê Văn Kim. Tướng Minh đã nhắc lại
lời mời rằng
Phái đoàn có thể ở lại
tùy ý để
hoàn tất nhiệm vụ. Trưởng đoàn
cho biết nhiệm vụ của
Phái đoàn đã
hoàn tất và ngày ra đi đã được
quyết định. Ngày 3-11-1963,
Phái đoàn ra thông cáo
báo chí trước khi rời Sài Gòn và có đề cập đến cuộc viếng thăm
Hội đồng Quân nhân
Cách mạng. Trong thông cáo
báo chí này,
Phái đoàn đã
công khai cho biết một số
lãnh đạo Phật giáo mà họ đã
phỏng vấn,
bao gồm các vị Thích
Trí Thủ, Thích Quảng Liên, Thích
Tam Giác,
Thích Tâm Châu, Thích Đức Nghiệp, Thích Tiến Minh và
Cư sĩ Mai Thọ Truyền.
Phái đoàn rời Sài Gòn lúc 6 giờ chiều ngày 3-11-1963, có tướng Lê Văn Kim,
đại diện Hội đồng Quân nhân
Cách mạng và ông Phạm Đăng Lâm,
đại diện Bộ Ngoại giao, cùng ra đưa tiễn.