- Phẩm 1 Vô Thường
- Phẩm 2 Khuyến Học
- Phẩm 3 Nghe Nhiều
- Phẩm 4 Dốc Lòng Tin
- Phẩm 5 Giữ Giới Cẩn Thận
- Phẩm 6 Quán Niệm
- Phẩm 7 Nhân Từ
- Phẩm 8 Nói Năng
- Phẩm 9 Song Yếu
- Phẩm 10 Phóng Dật
- Phẩm 11 Tâm Ý
- Phẩm 12 Hương Hoa
- Phẩm 13 Ngu Tối
- Phẩm 14 Minh Triết
- Phẩm 15 A La Hán
- Phẩm 16 Một và Nhiều
- Phẩm 17 Làm Ác
- Phẩm 18 Dao Gậy
- Phẩm 19 Già Suy
- Phẩm 20 Yêu Bản Thân
- Phẩm 21 Thế Tục
- Phẩm 22 Đức Phật
- Phẩm 23 An Ninh
- Phẩm 24 An Vui
- Phẩm 25 Tức Giận
- Phẩm 26 Trần Cấu
- Phẩm 27 Phụng Trì
- Phẩm 28 Con Đường Giải Thoát
- Phẩm 29 Quảng Diễn
- Phẩm 30 Địa Ngục
- Phẩm 31 Ví Dụ Con Voi
- Phẩm 32 Ái Dục
- Phẩm 33 Lợi Dưỡng
- Phẩm 34 Sa Môn
- Phẩm 35 Phạm Chí
- Phẩm 36 Niết Bàn
- Phẩm 37 Sinh Tử
- Phẩm 38 Nếp Sống Đạo
- Phẩm 39 Điều Lành
- Nguyên văn kinh chữ Hán
KINH PHÁP CÚ BẮC TRUYỀN
QUYỂN HẠ
(gồm 18 phẩm, từ phẩm 22 đến phẩm 39 | 402 bài kệ)
Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
Phẩm 22
ĐỨC PHẬT[1]
[567a] Phẩm ĐỨC PHẬT gồm 21 bài kệ, nói về: Minh và Hạnh của Phật, làm quy tắc sáng soi, lợi lạc cả trời người.
358.
Tự thắng, không dư tàn
Phật hơn cả thế gian
Trí sáng suốt không lường
Dẫn kẻ mù vào đạo.
359.
Lưới ái đã rách toang
Hết buộc ràng, neo đậu
Trí Phật quá sâu mầu
Chẳng ai tìm được dấu[2].
360.
Dũng mãnh quyết một lòng
Ngày đêm chẳng luống không
Xuất gia đoạn ái dục
Học chánh niệm sáng trong.
361.
Thấy chân lý, vô nhiễm
Vượt cả năm đường hiểm [3]
Phật soi sáng muôn phương
Trừ khổ đau sầu tưởng.
362.
Được làm người, đã khó
Sống trường thọ, khó hơn
Phật ra đời, hiếm có
Được nghe pháp, khó hơn.
363.
Ta chẳng thầy dạy bảo
Không bằng hữu, cô thân
Chuyên thiền định, thành Phật
Thánh đạo tự nhiên thông.
364.
Thuyền sư [4]khéo qua sông
Lấy tinh tấn làm cầu.
Người bị họ hàng buộc [5]
Ai thoát là kiện hùng.
365.
Phật, đoạn mọi nẻo ác
Phạm chí, chăm hành thiền
Pháp học, trừ đói khát
Tăng, đoạn ái dục duyên.
366.
Phật nói niết-bàn cao
Các hạnh, nhẫn đứng đầu
Sa-môn trừ điều ác
Không nhiễu hại ai đâu.
367.
Không nhiễu hại đến ai
Đúng giới luật nghiêm trì
Bỏ tham thân, ăn ít
Sống ẩn cư núi rừng
Ngộ chân lý, tuệ sáng
Là lời Phật kính vâng !
368.
Chớ tạo các điều ác
Siêng làm các hạnh lành
Giữ tâm ý tịnh thanh
Là lời chư Phật dạy.
369.
Phật là bậc tôn quý
Lậu tận, sạch lỗi lầm
Pháp vương dòng họ Thích
Muôn loài đều ngưỡng tôn.
370.
Vui thay, nhờ phước báo
Sở nguyện được viên thành
Chứng tịch tịnh thật nhanh
Niết-bàn tự mình đến.
371 và 372.
Tìm nhiều chỗ gá nương
Như thần cây, sông, núi
Lập miếu thờ, họa tượng
Cúng tế để cầu may
Ai gá nương như vậy
Không tối thượng nhiệm mầu
Bởi thần kia đâu đến
Giúp ta hết khổ đau! [6]
373.
Ai phát nguyện nương về
Phật, Pháp, Tăng thanh tịnh
Nương theo tứ Thánh đế [7]
Chánh tuệ rạng tâm mình.
374.
Nẻo sanh tử khổ đau
Lấy tứ đế làm cầu
Độ đời, bát chánh đạo
Mọi đau khổ qua mau.
375.
Nương tựa nơi Tam bảo
Là tối thượng an lành
Mọi đau khổ qua nhanh
Vì nơi đây thuần tịnh.
376.
Trí thức hay trung lưu
Vô tham, chí hướng đạo
Người ấy nhiệm mầu thay
Vì đã quy y Phật!
377.
Người trí rất khó tầm
Cũng khó được kết thân
Chủng tộc nào họ đến
Lớn nhỏ được bình an.
378.
Vui thay Phật ra đời
Vui thay Pháp được thuyết
Vui thay Tăng hòa hợp
Hòa hợp thường an vui.
[1] Thuật Phật phẩm. Tương đương Pāli, phẩm 14, Buddhavagga.
[2] Tham chiếu Pāli: apadaṃ kena padena nessatha? HT. Minh Châu dịch: Ai dùng chân theo dõi/ Bậc không để dấu tích?
[3] Năm đường (tức ngũ đạo 五道, ngũ thú 五趣): năm con đường mà chúng sanh phải đi qua, tùy theo nghiệp của mình, gồm địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, người và trời.
[4] Thuyền sư 船師: một danh hiệu khác của Phật. Phật giáo hoá chúng sinh, khiến cho tất cả đều vượt qua biển sinh tử, đến bờ niết-bàn, giống người thuyền trưởng đưa người qua sông, vượt biển, nên tôn xưng Phật là Đại thuyền sư. Tham chiếu Trường A-hàm, kinh Du hành : Phật là hải thuyền sư/ Pháp là cầu sang sông/ Là chiếc xe Đại thừa/ Đưa hết thảy trời, người./ Cũng tự mình cởi trói,/ Sang sông, lên bậc Thánh/ Khiến tất cả đệ tử,/ Cởi trói, đến Niết-bàn.
[6] Hai bài kệ này giống bài kệ 743.
[7] Nguyên bản ghi 道德四諦. Từ 道德, trong thời kỳ đầu dịch kinh, từ này dùng thay thế cho chữ Thánh. Ví dụ: 道德弟子 (Ariyasāvaka), tức Thánh đệ tử. Xem, kinh Tứ đế, kinh Ấm trì nhập, do An Thế Cao dịch, đã dùng chữ này.