KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương III:
CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.1.1.2. ĐẠO GIỚI (giới trộm cướp)
Kinh
văn:
1. Phiên
âm:
Từ câu “Nhược
Phật tử...” cho đến câu: “...thị Bồ Tát Ba La Di tội”.
2. Dịch nghĩa:
Nếu Phật tử tự
mình trộm cướp, bảo người trộm cướp, phương tiện trộm cướp nhẫn đến dùng bùa
chú trộm cướp. Nhân trộm cướp, duyên trộm cướp, cách thức trộm cướp. Tất cả các
tài vật có chủ, dầu là của quỷ, thần hay kẻ giặc cướp, nhẫn đến một cây kim,
một ngọn cỏ đều không đặng trộm cướp. Là Phật tử lẽ ra phải luôn luôn có lòng
từ bi, lòng hiếu thuận, thường giúp cho mọi người được phước, được vui; mà trái
lại, trộm cướp tài vật của người, Phật tử này phạm Bồ Tát Ba La Di tội.
Lời giảng:
Phật pháp phân
biệt sanh mạng chúng sanh làm hai loại:
- Ngoại sanh
mạng: Tất cả y thực, tài vật. Sanh mạng thể của chúng sanh được sanh tồn trên
thế gian này do nhờ sự duy trì của y thực, tài vật. Chúng ta thử nghĩ một người
sống ở đời này nếu không có sự tư trợ của vật chất thì làm sao sanh tồn được?
Nên bất cứ ai muốn sanh mạng của mình sanh tồn, phải nhờ sự duy trì, nuôi sống
của vật chất. Cho nên sát sanh là giải quyết lấy nội sanh mạng của chúng sanh,
trộm cắp là đoạt lấy ngoại sanh mạng của chúng sanh.
Lại nữa, nhân
sinh từ mai đến chiều bận rộn, cực nhọc để làm gì? Đều vì vấn đề cơm ăn, áo
mặc; nhưng suốt đời bôn ba vì áo mặc, cơm ăn để làm chi?
Để duy trì sanh
mạng. Vì nếu không có y thực, tài vật v.v... thì sanh mạng không thể sống còn.
Vì thế, y thực, tài vật của người mình không nên đoạt lấy. Nếu trộm cắp hết tài
vật của người khác khiến cho sự sanh sống của người ấy trở thành vấn đề nan
giải, không khác chi gián tiếp đoạt nội sanh mạng của người.
Trong Trí Độ
Luận, quyển 13, Tổ Long Thọ thuyết minh:
Nhất thiết chư
chúng sanh,
Y thực dĩ tự
hoạt.
Nhược kiếp, nhược
đoạt thủ,
Tức vi kiếp đoạt
mạng.
Dịch:
Tất cả chúng
sanh trên thế gian,
Nương nhờ áo cơm
mà sống còn.
Nếu như cướp
đoạt lấy của người,
Tức là cướp đoạt
sanh mạng người.
Vì trạng huống
này, nên làm người, lẽ đương nhiên không được trộm lấy của người. Nếu trộm lấy
là phạm giới.
Nhưng thế nào
trộm cắp?
Trong giới luật
nói: Không cho mà tự lấy gọi là trộm cắp. Tức là người không có tâm đem tài vật
ấy cho mình mà mình tự tiện lấy đi, gọi là “không cho mà tự lấy”.
Không cho mà lấy
có những loại như sau:
- Kiếp thủ (cướp
lấy): dùng sức lực đoạt tài vật của người một cách trắng trợn, công khai, không
cần chủ của tài vật ấy bằng lòng cho hay không, cứ tự tiện theo ý của mình,
đoạt tài vật của người đem đi. Như thế gian thường nói những kẻ cường đạo, tự ỷ
quyền thế đem những hung cụ vào nhà người, như chĩa súng vào ngực, đóng đinh vào
tai v.v... rồi tự ý lấy ngang của người đem đi.
- Hậu thủ (trộm
lấy): tránh né tai mắt của chủ vật, lúc chủ vật không để ý, thừa dịp lấy im
lặng rồi đem đi, như trên báo chí hằng ngày thường đăng tải. Chẳng hạn, ngày
Chủ Nhật, gia đình nào đó có duyên sự phải đi ra ngoài để giải trí hay xem hát,
mấy chú tiểu đạo tặc thừa dịp trong nhà không ai, yên lặng lủi vào nhà người,
bẻ khóa, mở tủ, đập rương, lấy đồ vật của người đem đi. Đó là loại thâu thủ thứ
hai này.
- Hách thủ (dọa
lấy): biết một người nào đó có điều gì bí ẩn, dùng cớ này làm thủ đoạn uy hiếp
đối phương, dọa nạt lấy của tiền, công khai bảo rằng: “Nếu anh không muốn tôi
chỉ vạch việc xấu của anh, hãy mau mau đem tiền của ra, nếu không anh sẽ biết
v.v...” Bấy giờ, người bị uy hiếp kia suy nghĩ: “Mình thật có việc không thể
nói với người”. Vì không muốn người này đem sự tình ấy rao bán, nói với bất cứ
ai, nên phải nhẫn chịu đưa số vàng bạc theo yêu sách để được yên ổn. Đây là
loại hách thủ.
- Phiến thủ (dối
gạt mà lấy): Chữ Phiến thường gọi là “biến”, là dùng những phương pháp dối gạt
người để lấy tiền của mang đi. Khi người chủ phát giác biết đã bị lừa gạt thì
tiền của đã mất rồi. Tình trạng này có thể nói rằng hiện tại đâu đâu cũng
có.
Tóm lại:
Giới trộm cắp
này rất dễ bị phạm, nên Hoằng Nhất luật sư nói: “Theo ý tôi suy nghĩ kỹ, ở
trong năm giới, khó giữ gìn nhất không chi hơn trộm cắp”.
Thông thường mọi
người cho giới trộm cắp không dễ phạm, nhưng Luật Sư lại nhận là một thứ giới
khó giữ vô cùng, chứng tỏ ai ai cũng đều có thể phạm giới này.
* Xin nêu một
vài câu chuyện để làm lệ rõ ràng:
- Như chuyện nhỏ
mọn là việc gởi thư. Viết một lá thư quá dài, đương nhiên thư quá nặng, bưu phí
phải gia bội. Để bớt bưu phí nên để thư ấy cuốn vào giấy báo hoặc tạp chí gởi
đi. Đó là chuyện rất bình thường, không có gì là tội lỗi. Nhưng nếu nói theo
giới luật của Phật pháp, điều ấy đã phạm giới trộm cắp, trộm tiền của quốc
gia.
- Lại như một
người phục vụ trong cơ quan, quy định mỗi ngày cấp cho năm tờ giấy và năm phong
bì. Có một người vì sự giao tế thù ứng rộng rãi, với số giấy ấy không đủ dùng,
lại không nói cho người phụ trách biết, tự tiện yên lặng lấy thêm giấy và phong
bì. Việc này thông thường cho là việc rất bình thường, vì là của chính phủ, lấy
thêm ít cái có hề chi. Dĩ nhiên là như vậy, nhưng phải có sự đồng ý của người
phụ trách, nếu không thì tự mình lén lấy xài dùng nên phạm tội trộm cắp.
- Lại tỉ như các
thương nhân mua bán, phải đóng tiền thuế là hai ngàn đồng. Những người rành mua
bán thường có hai quyển sổ. Một để chính phủ kiểm tra, một lập riêng cho mình
kiểm soát. Quyển dành để cho chính phủ: đem số thu một vạn đồng bớt còn năm
ngàn đồng. Thế là tiền thuế chỉ còn một ngàn đồng. Nói theo thế tục, việc này
là trốn thuế. Luận về Phật pháp thì phạm giới trộm cắp của chính phủ một ngàn
đồng.
Trong xã hội có
rất nhiều người tự cho mình là đứng đắn, không bao giờ lấy của người; nghĩa là
không phạm giới trộm cắp. Nhưng cứ xem bên trên, làm người không phạm giới trộm
cắp thật là hiếm có. Vì thế, Hoằng Nhất Luật Sư nói: “Giới trộm cắp rất khó giữ
gìn”.
Mọi người đều
công nhận trộm cắp là việc không tốt, pháp luật của các quốc gia trên thế giới
từ xưa đến nay, cả Đông phương lẫn Tây phương đều nghiêm cấm nhân dân việc trộm
cắp. Dù lén trộm hay công khai cướp đoạt, đều vi phạm pháp luật quốc gia và bị
trừng trị.
Trong Phật pháp,
bất luận Đại Thừa hay Tiểu Thừa, từ tại gia đến xuất gia, đều chế định giới
trộm cắp và đều phán vào trọng tội.
Tại sao Phật
pháp cùng thế pháp đều ngăn cấm việc trộm cắp như thế? Mọi người trên thế gian
đều hết sức yêu quý của tiền, vàng ngọc, châu báu... không bao giờ muốn kẻ khác
lấy đi. Với những người xem nhẹ tài vật thì không nói chi. Còn với những người
quá xem trọng tài vật, nếu có người dùng thủ đoạn không chánh đáng trộm mất tài
vật, nhất là những vật quá yêu tiếc, thì có thể vì đó bỏ ăn, mất ngủ, thậm chí
bệnh liệt giường, sầu khổ suốt đời. Như thế thì đâu thể nào xem nhẹ việc trộm cắp
là không trọng và phạm giới trộm cắp không phải là trọng tội.
Trong Phật pháp,
hành giả Bồ Tát chí hướng ở nơi giáo hóa chúng sanh, với phương tiện tối thắng
là Bố Thí, nên pháp Lục Độ Tứ Nhiếp (2) đều lấy Bố Thí làm đầu.
Bố thí là đem
tài vật của mình cấp phát cho chúng sanh, giúp cho chúng sanh giải trừ những
khó khăn về sinh hoạt vật chất, khiến cho chúng sanh phát khởi thiện tâm và
thích gần gũi, thân cận với Bồ Tát. Nhờ đó, Bồ Tát dần dần đem Phật pháp giáo
hóa, khiến chúng sanh bước lên con đường lớn, xán lạn của Phật pháp.
Trái lại, nếu
chẳng những không bố thí giúp đỡ chúng sanh, lại còn trộm tài vật của chúng
sanh, thì làm sao nhiếp hóa được chúng sanh? Lại nữa, chúng sanh một khi trông
thấy Bồ Tát, đều không muốn lui tới, không muốn thân cận với Bồ Tát. Như thế,
mất hẳn hạnh đại từ đại bi tế độ chúng sanh của Bồ Tát, trái với pháp môn lục
độ tứ nhiếp của Bồ Tát cần phải tu.
Thế nên, giới
trộm cắp tuy thông thường nhưng thật hết sức trọng yếu. Nhất là ở lập trường
Đại Thừa Phật giáo, thì hành giả Bồ Tát lại cần phải giữ gìn hết sức nghiêm cẩn,
không được có chút vi phạm. Nếu không thì không thể gánh vác trách nhiệm trọng
đại hóa độ chúng sanh, và không có tư cách gì được gọi là Bồ Tát. Trong kinh
Lăng Nghiêm, Đức Phật từng dạy như vầy: “Tâm trộm cắp không diệt trừ thì không
dễ gì thoát khỏi trần lao. Dù có đa trí thiền định hiện tiền, nếu không đoạn
trừ trộm cắp, chắc chắn lạc vào đường tà”.
Lời Phật dạy
trên ý nói: Bất luận trí huệ của người ấy cao siêu thế nào, thiền định của
người ấy sâu như thế nào, nếu tâm trộm cắp không đoạn trừ, chẳng những không thể
ra khỏi trần lao, mà kết quả chắc chắn lạc vào đường tà, vĩnh viễn trầm luân
trong sanh tử.
Thử nghĩ tội
trộm cắp nặng biết dường nào? Sự chướng ngại thánh đạo lớn biết dường nào? Vì
thế nên làm người trên thế gian, đặc biệt là một hành giả Bồ Tát, quyết phải
răn chừa tội trộm cắp, không được có chút vi bội. Nếu không thì tuyệt đối không
thể nào bước lên con đường rộng lớn quang minh của Bồ Tát, để thực hiện công
tác hóa độ chúng sanh!
Đức Phật dạy nếu
là Phật tử đã thọ giới Bồ Tát, bất luận là tự đạo (tự mình trộm cướp), giáo
nhân đạo (bảo người trộm cướp), phương tiện đạo (phương tiện trộm cướp), chú
đạo (dùng bùa chú trộm cướp)... đều là không thể được, vì những việc ấy đều vi
phản (trái ngược) với hạnh từ bi lợi tế của Bồ Tát.
- Tự đạo: chính
tay mình trộm cắp tài vật của người đem đi.
* Thí như có
người hữu sự cần đi xa, ở nhà không có ai, bèn đem vàng bạc, châu báu gởi cho
một người bạn thân, tin cậy nhất, và nói rằng: “Xin anh hoan hỷ cho, vì tôi có duyên
sự cần đi xa. Ở nhà không ai, nên đem những vật báu này gởi cho anh, xong việc
tôi sẽ trở lại lấy!” Người bạn sẵn sàng đồng ý cho gởi.
Nhưng người bạn
sau đó vì kiến tài ám nhãn, khởi tâm tham, muốn chiếm đoạt của báu, nên khi
người chủ trở về, đến lấy lại, người bằng hữu kia cực lực phủ nhận: “Không có
bất cứ thứ gì anh gởi cho tôi, đừng nói lôi thôi!”
Người bằng hữu
chiếm được châu báu kia muốn làm việc buôn bán, nhưng vì tự mình không có vốn,
lợi dụng ba tấc lưỡi chưa hư nát, sẵn có số châu báu này, đi rủ ren mọi người
vào cổ phần. Khi vàng bạc đã đến tay liền cao bay xa chạy. Mọi hành động trên
đều thuộc về loại trộm cắp này.
* Lại như nhiều
người trong xã hội chơi hội (chơi hụi). Nếu một phần là một ngàn đồng, nếu rủ
được năm mươi phần thì được năm vạn. Mình làm chủ hụi, gom hết rồi trốn đi. Đây
cũng là một hình thức tự trộm cắp.
Cho nên vận dụng
những thủ đoạn không chánh đáng, những phương pháp dối gạt để lấy tiền của đều
là tự trộm cắp.
- Giáo nhân đạo:
Dùng lời nói xúi biểu người: “Nơi ấy có đồ vật gì... anh thế tôi đi lấy về”. Dù
không phải chính tay mình tự đi lấy, nhưng đồng phạm tội trộm cắp.
Nhưng có một
điểm hơi sai khác: nếu tài vật lấy đem về đều thuộc về phần mình thì phạm căn
bổn trọng tội. Còn tài vật người đi trộm lấy luôn, không chia cho mình thì chỉ phạm
tội khinh cấu. Vì kẻ trộm kia vốn không biết những vật ấy, nhưng vì do mình bảo
họ đi lấy, nên dù tài vật không thuộc về mình, cũng phải gánh lấy tội xúi
biểu.
Lại còn như
miệng không bảo người đi lấy, nhưng dùng tay ra dấu, trên tướng ám chỉ cho biết
để người đi trộm, đều là tội xúi biểu.
- Phương tiện
đạo: Vốn không có tâm trộm của người, nhưng bỗng nhiên tài vật ở trước mặt
mình, lại không ai thấy biết nên không ngần ngại, nhân cơ hội đó làm phương
tiện lấy tài vật bỏ túi, hay cất giấu nơi khác, không ai biết. Tục ngữ có câu
rằng: “Thuận thủ khiên dương, bất vi thâu” (thuận tay dắt dê không phải là trộm
cắp). Với thế tục cho là không phải trộm cắp, nhưng trong Phật pháp cũng là
phạm tội phương tiện trộm cắp.
- Chú đạo: dùng
những chú thuật cướp tài vật của người. Tương truyền ở Ấn Độ có thứ ác chú. Ác
chú sư sau khi niệm chú ấy sẽ lấy tiền của kẻ khác về cho mình. Hoặc niệm ác
chú kêu gọi quỷ thần đến, để sai khiến quỷ thần đi trộm lấy tài vật mình muốn
đem về. Đấy là dùng những bùa chú trộm cắp. Đối với người thường làm việc này
đã là tội rất nặng.
Nếu như Phật tử,
nhất là hàng xuất gia mà đi làm cống đầu cho người, ấy là tội nhơn trong Phật
pháp. Tỳ kheo sống theo lối tà mạng, vì người làm cống đầu, trong Phật pháp tuyệt
đối không thể được, cần phải ly khai thật xa, không nên xem là người trong Phật
pháp, vì là một thứ dùng bùa chú trộm cắp, một trong các thứ trộm cắp.
Trong giới Sát
Sanh có tán thán sát và tùy hỷ sát, giới trộm cắp vì sao không có hai thứ
ấy?
Vì sát sanh nếu
đủ sức thì làm một mình. Nếu một người không làm được thì vài người thương
lượng hợp tác nhau làm, nhưng với trộm cắp thì riêng âm thầm tính mưu kế mà
làm, không muốn một người nào hay biết. Cho nên tội trộm cắp lúc nào cũng bị sự
khiển trách của các nhân sĩ trong xã hội, không bao giờ được mọi người tán
thán.
Tán thán đã
không có thì tùy hỷ cũng không có, nên trong kinh văn không đề cập đến hai loại
ấy. Tuy nhiên, hai thứ này hàm nhiếp trong phương tiện trộm cắp; vì tán thán và
tùy hỷ không phải chính thức trộm cắp, cũng không thể tán thán hoặc tùy hỷ việc
trộm cắp của người một cách công khai, nên liệt vào trong phương tiện trộm
cắp.
Kết thành việc
trộm cắp cần phải đầy đủ các điều kiện. Nếu chỉ có nhân trộm cắp mà không có
duyên trộm cắp, vẫn không thành việc trộm cắp, cần phải đủ nhân duyên hòa hợp.
Nhưng nếu không có phương pháp trộm cắp (cách thức) vẫn không thành trộm cắp.
Cần phải đủ ba yếu tố trên mới thành nghiệp trộm cắp, tổng cộng thành bốn thứ được
phân biệt như sau:
- Đạo nhân (nhân
trộm cắp): Do chủng tử tham lam, trộm cắp thành thục từ vô thỉ. Hiện tại nội
tâm khởi một niệm trộm cắp làm nhân, đã có nhân rồi mới tiến hành việc trộm
cắp.
- Đạo duyên
(duyên trộm cắp): những tài vật quý báu mình rất ưa thích hiện bày trước mắt,
dụ dỗ, dẫn dắt mình đến sự trộm lấy của người.
- Đạo pháp
(phương tiện trộm cắp): khi làm việc trộm cắp, phải tính toán khéo léo, lập mưu
bày kế, hoặc bẻ khóa, hoặc trèo tường nhảy vào, hoặc leo lên nóc nhà nhảy
xuống, hoặc đào hầm bò vào. Khi vào được trong nhà thì cạy rương, mở tủ v.v...
Đấy là những cách thức trộm cướp.
- Đạo nghiệp
(nghiệp trộm cướp): do đầy đủ ba điều kiện trên, tiến đến lấy sự tài vật của
người, khiến tài vật kia ly khai khỏi khổ chủ, hoàn thành việc trộm cướp, ấy là
nghiệp trộm cướp.
Nếu luận về ba
chướng thì đầu tiên do chủng tử tham lam trộm cướp mà sanh khởi ý niệm trộm
cướp. Đó là Phiền Não Chướng. Khi hoàn thành việc trộm cướp, gọi là Nghiệp
Chướng. Do phiền não chướng và nghiệp chướng chiêu cảm quả khổ trong tam ác đạo
đời vị lai, ấy là Báo Chướng.
Như thế thấy rõ,
chẳng những sát sanh tạo thành sự thọ khổ trong luân hồi, trong sanh tử, mà
trộm cướp cũng đồng khiến cho chúng sanh sanh tử không dứt.
Nếu không trộm
cắp thì không tạo thành tội trộm cắp cực trọng và không chiêu cảm quả khổ trong
tam ác đạo. Cho nên răn ngừa tội trộm cắp là một sự kiện trọng yếu.
Chẳng những tài
vật của nhân dân không được trộm lấy, mà bất cứ tài vật có chủ nào, dù là tài
vật của quỷ thần, của giặc cướp, một vật dù nhỏ bé như cây kim, ngọn cỏ, cũng
không được cố ý trộm cắp.
Tài vật của quỷ
thần là những đồ cúng trong miễu quỷ thần, đều không được trộm lấy. Vì những đồ
cúng trong miễu thờ quỷ thần, tức quỷ thần làm chủ, hay người làm chức Từ giữ
miễu làm chủ. Phàm những tài vật có chủ đều không được phép trộm lấy.
Tài vật của kẻ trộm
cướp là những thứ mà kẻ trộm lấy được, vốn là đồ lấy trộm. Hiện tại nếu trộm
lấy đồ vật của kẻ trộm cướp, tại sao nói là phạm tội trộm cướp? Cổ đức đối với
việc này có hai lối giải thích:
- Như tài vật
của mình bị kẻ trộm lấy đi, trong tâm mình nghĩ rằng chúng đã mất rồi. Hiện
tại, kẻ trộm hoàn toàn không bằng lòng hoặc không nói cho mình lấy lại, thì
thuộc về tội “không cho mà lấy”. Trường hợp này căn cứ vào ý tưởng mà phạm tội;
nghĩa là sau khi kẻ trộm lấy đồ, tâm khởi niệm đã mất rồi, nếu như chưa khởi
niệm ấy mà lấy lại thì không phạm tội.
- Đồ vật
của kẻ trộm lấy của kẻ khác, đã thuộc về sở hữu của giặc cướp. Hiện tại kẻ trộm
hoàn toàn không có nói cho mình. Nếu mình lấy lại của kẻ cướp kia, ấy là giặc
cướp đi lấy của giặc cướp, thuộc về tội “không cho mà lấy”. Cho nên lấy tài vật
của kẻ cướp cũng vẫn phạm tội trộm cướp.
* Về việc
lấy lại tài vật của kẻ trộm cướp, Phật giáo tại Nhật Bản có một câu chuyện thật
như thế này:
Trong một ngôi
chùa ni, vị trụ trì hiệu là An Dưỡng tỳ kheo ni. Một đêm nọ, có kẻ trộm lẻn vào
chùa lấy mùng, mền, nệm, gối... của chùa mang đi.
Đêm ấy, An Dưỡng
tỳ kheo ni ngủ không có mền đắp, phải lấy giấy đắp. Nhằm tiết Đông trời quá
lạnh, ni sư run rẩy, miệng đánh bò cạp. Bấy giờ, có một tiểu ni nghe được, xô
cửa bước vào. Khi vừa vào tới phòng, thấy có chiếc áo ngự hàn dồn bông rơi dưới
đất. Tiểu ni nhặt lên và đem đưa với ni sư, nói rằng: “Chiếc áo này là của kẻ trộm
làm rơi lại, xin thầy hãy mặc cho bớt run và đỡ lạnh”.
An Dưỡng tỳ kheo
ni đáp rằng: “Đồ vật của kẻ trộm lấy được tức là đồ của kẻ trộm rồi. Chúng ta
là người xuất gia, không được tùy tiện dùng đồ vật của người đã trộm lấy. Thầy
nghĩ kẻ trộm chưa đi xa, con nên mau mau mang trả cho nó”.
Tiểu ni vâng
lệnh, tức tốc đuổi theo kẻ trộm, giao trả chiếc áo và nói rõ lời Thầy mình dạy.
Tên trộm nghe xong thấm thía và cảm động, liền đem toàn bộ đồ đã trộm trả lại
cho nhà chùa. Lại đến trước mặt tỳ kheo ni An Dưỡng xin Ngài nhận lại đồ vật và
hoan hỷ cho chú ta thành tâm sám hối.
Tỳ kheo ni nói
rằng: “Thật làm nhọc cho cậu quá! Đồ lấy được đã gói tử tế, giờ lại mang giao
cho chùa”. Trên nét mặt của An Dưỡng tỳ kheo ni lộ vẻ từ bi khoan thứ, khiến kẻ
trộm vô cùng cảm động.
Tóm lại:
Tất cả tài vật,
bất luận quý, tiện, trọng, khinh, cũng không luận là nhiều, ít, tốt, xấu, cho
đến những vật nhỏ nhất như một cây kim, một ngọn cỏ đều không được không cho mà
lấy. Nếu trộm lấy tức là phạm giới trộm cắp, nên trong kinh văn nói: “Bất đắc
cố đạo” (không được cố ý lấy).
Tại sao không
được cố ý lấy trộm?
Trong kinh văn,
Phật dạy như sau: “Bồ Tát ưng sanh Phật tánh, hiếu thuận tâm, từ bi tâm, thường
trợ nhứt thiết nhân sanh phước, sanh lạc” (Là Phật tử, lẽ ra phải luôn luôn có
lòng từ bi, lòng hiếu thuận, thường giúp cho mọi người được phước, được vui).
Hai chữ “Phật
tánh”, bổn Việt văn dịch là “luôn luôn”, ý nói: Phật tánh là một pháp thường
trụ, bất sanh bất diệt, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Hành giả Bồ Tát
luôn thấy biết như thế và nhận chân tất cả chúng sanh trong tương lai đều sẽ
thành Phật. Bổn phận của một vị Bồ Tát đối với Phật hết lòng cung kính, cúng
dường còn không đủ, làm sao có thể trở lại trộm lấy tài vật của các Ngài?
Nếu như trộm lấy
tài vật của các Ngài (chúng sanh) tức là đồng với tội trộm tài vật của chư
Phật, tội này lớn biết dường nào? Nếu nhìn xa thì tất cả chúng sanh đều sẽ
thành Phật. Nếu nói gần hơn, thì tất cả chúng sanh đều là cha mẹ. Bổn phận làm
con phải sanh tâm hiếu thuận, hiếu kính cha mẹ không hết, đâu nên trộm lấy tài
vật của cha mẹ? Nếu trộm lấy tài vật của cha mẹ, tội ấy lớn biết chừng
nào?
Bây giờ không
nói chúng sanh đều là Phật vị lai, làm cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp, mà cứ xem
chúng sanh là chúng sanh. Bổn phận của Bồ Tát là lấy việc lợi ích chúng sanh
làm bổn hoài, đối với chúng sanh cần phải sanh tâm từ bi. Chúng sanh gặp khốn
khổ khó khăn, Bồ Tát phải lo giúp đỡ, chúng sanh cần chi, phải vội cấp cho,
không được nhẫn tâm an nhiên ngồi xem chúng sanh bị khổ đói khát. Như thế làm
sao nỡ lấy đi tài vật của chúng sanh, nhẫn tâm làm cho chúng sanh bị khổ đói
rét? Ngoại sanh mạng đã bị cướp đi thì nội sanh mạng nương vào đâu mà sanh tồn?
Sự việc này đâu đúng với tư cách của Bồ Tát?
Hành giả Bồ Tát
chân chánh phải thường giúp cho mọi người sanh phước, sanh lạc, không nên trộm
lấy tài vật của người mà làm cho người bị tội, bị khổ (đối với sanh phước, sanh
lạc mà nói). Đây là việc tối yếu!
Giúp cho mọi
người sanh phước là khiến cho mọi người gieo trồng nhân an lạc; giúp cho mọi
người sanh vui là khiến cho người được quả vui. Hành giả Bồ Tát cần phải thường
an trụ tâm từ bi như vậy, cần phải thực hành theo những thiện sự như vậy, làm
lợi ích cho khắp tất cả chúng sanh, khiến chúng sanh được an vui và giải thoát.
Đấy là hạnh từ bi tế độ của Bồ Tát cần phải có.
Nếu Bồ Tát trộm
cướp tài vật của người, tức đoạt ngoại sanh mạng của người, làm cho sanh sống
của người bị quẫn bách, bức ngặt, là vi phạm với thánh giáo của Đức Phật Đà,
cho nên nói là “không thuận”. Đồng thời, tất cả chúng sanh đã đều là cha mẹ
nhiều đời, nhiều kiếp của mình. Làm con đã không phụng dưỡng cha mẹ, lại trở
lại trộm lấy tài vật của cha mẹ, làm não hại cho cha mẹ, đâu còn tội lỗi nào
nặng hơn?
Đứng về mặt luật
pháp hay Phật pháp đều là bất hiếu. Đã bất hiếu thì với tư cách làm người còn
không trọn, thì đâu còn tư cách gì gọi là Bồ Tát? Vì thế, chỉ có kính cẩn vâng
theo lời Phật dạy, mới có thể gọi là hiếu thuận. Không trộm cắp tài vật của
người mới gọi là từ bi. Làm cho chúng sanh không bị nghèo cùng, thiếu thốn mới
gọi là sanh phước, sanh lạc.
Bồ Tát vì lợi
sanh mà phát tâm Bồ Đề, nhằm vào khía cạnh nào cũng phải thực hiện Đàn Ba La
Mật, đem hết khả năng của mình bố thí cho chúng sanh, khiến chúng sanh không sợ
thiếu thốn về đời sống. Nếu không thực hành như vậy thì trái với tinh thần nên
có của Bồ Tát.
Nếu chẳng những
không thực hành như vậy mà trở lại trộm cắp tài vật của người, khiến chúng sanh
bị thống khổ, nghèo thiếu, có thể nói là một tội ác rất lớn. Cho nên kinh văn
nói: “Bồ Tát này phạm Ba La Di tội”.
Giới trộm cắp
vừa xem qua rất là đơn giản, nhưng nếu vi phạm chính là hủy hoại Tam Tụ Tịnh
Giới của Bồ Tát.
Việc ấy như thế
nào?
Không nên trộm
mà đi trộm là phạm Nhiếp Luật Nghi Giới, cần phải huệ thí cho chúng sanh mà
không huệ thí là phạm Nhiếp Thiện Pháp Giới. Cần phải nhiếp hóa chúng sanh mà
không nhiếp hóa là phạm Nhiếp Chúng Sanh Giới. Cần phải giúp cho mọi người sanh
phước, sanh lạc mà không giúp, trái lại trộm lấy tài vật, làm cho người sanh
tội, sanh khổ, vi phạm đức hạnh của Bồ Tát thái quá nên kết thành tội Ba La
Di.
Điều văn của
giới trộm cướp đã giảng rõ, nhưng còn những điều trọng yếu cần phải nói rõ
thêm:
Căn cứ trong các
kinh luận, kết thành tội trộm cướp phải hội đủ năm điều kiện, tức năm duyên,
mới thật sự phạm căn bổn trọng tội. Không phải hành vi trộm cướp nào cũng kết
thành căn bổn trọng tội. Năm duyên ấy như sau:
1. Thị hữu chủ
vật (là vật có chủ): tài vật bị trộm đích thực có chủ, không phải vật vất bỏ
hoặc không thuộc về bất cứ ai. Đồng là có chủ, nhưng vật còn được chia thành ba
phẩm:
a. Thượng phẩm
vật: vật của Phật, Pháp, Hiện Tiền Tăng vật, tứ phương Tăng vật, phụ mẫu - sư
trưởng vật.
+ Phật vật: Phật
tử phải hiểu Phật có công đức tối thù thắng, cần phải có tâm chí thành, cung
kính cúng dường Phật. Nếu chẳng những không cung kính cúng dường, lại còn trộm tài
vật của Phật, đương nhiên là không được. Tội trộm tài vật của Phật nặng hay
nhẹ, trong kinh tạng có hai lối giải thích:
Chú
thích:
1) Tứ Nhiếp Pháp:
Bồ Tát dùng bốn pháp này để nhiếp hóa chúng sanh. Tứ Nhiếp Pháp gồm:
- Bố Thí Nhiếp:
nếu chúng sanh ưa thích tài vật thì đem tài vật bố thí, ưa nghe chánh pháp thì
đem chánh pháp bố thí, khiến chúng sanh nhân đó sanh tâm ưa thích, thân cận,
nương theo mà bẩm thọ giáo pháp.
- Ái Ngữ Nhiếp:
tùy theo căn tánh của chúng sanh mà dùng lời khéo léo, nhã nhặn an ủi, khuyến
dụ, khiến chúng sanh sanh tâm thân ái, nương tựa mà bẩm thọ đạo pháp.
- Lợi Hành Nhiếp:
từ ba nghiệp thân, khẩu, ý sanh khởi thiện hạnh, làm lợi ích cho chúng
sanh.
- Đồng Sự Nhiếp:
dùng pháp nhãn xem căn tánh của chúng sanh, tùy chỗ ưa muốn của chúng mà phân
thân thị hiện đồng việc làm với chúng, để chúng sanh do đây mà bẩm thọ đạo
pháp.
2) Ngũ Vô Gián:
địa ngục A Tỳ thứ tám trong tám cảnh đại địa ngục. Gọi địa ngục A Tỳ là Ngũ Vô
Gián vì có năm duyên cớ không gián đoạn:
- Thủ quả vô gián:
thọ quả báo không gián đoạn, vì tạo tội cực ác, chiêu cảm quả khổ trong địa
ngục này, thuận theo hiện nghiệp (nghiệp hiện tại) hoặc sanh nghiệp (nghiệp đời
vị lai), thời gian tạo nghiệp cùng với thọ quả liên tục, không gián đoạn đến
đời khác.
- Thọ khổ vô gián
- Mạng vô gián:
thọ mạng của tội nhơn trong địa ngục này tương tục, không gián đoạn.
- Hình vô gián:
ngục A Tỳ này rộng tám muôn do tuần, thân hình của tội nhân cũng lớn tám muôn
do tuần, không còn một chỗ hở trống, nên kinh Địa Tạng nói: “Nhứt nhân diệc mãn,
đa nhân diệc mãn” là lý ấy (một người cũng đầy, mà nhiều người cũng đầy).