KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương
III: CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT
THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.2.2. BIỆT
THUYẾT KHINH GIỚI
(riêng giảng các giới khinh)
B.2.2.36. BẤT PHÁT THỆ NGUYỆN GIỚI
(giới không phát
thệ nguyện)
Kinh
văn
1. Phiên
âm:
Từ câu “nhược
Phật tử phát thập đại nguyện dĩ...” cho đến câu “phạm khinh cấu tội”.
1. Dịch
nghĩa:
Nếu Phật tử
khi đã phát mười điều nguyện lớn trên đây rồi, phải giữ gìn giới cấm của Phật,
tự thệ rằng: “Thà nhảy vào đống lửa, hố sâu, núi dao, quyết không cùng với tất
cả người nữ làm điều bất tịnh để phạm điều cấm trong kinh luật của tam thế chư
Phật.
Lại thề rằng:
Thà lấy lưới sắt nóng quấn thân mình có nghìn lớp, nhất quyết không để thân này
phá giới mà thọ những y phục của tín tâm đàn việt. Thà chịu nuốt hòn sắt cháy
đỏ và uống nước đồng sôi mãi đến trăm nghìn kiếp, quyết không để miệng phá giới
mà ăn những thực phẩm của tín tâm đàn việt. Thà nằm trên đống lửa lớn, trên tấm
sắt nóng, quyết không để thân này phá giới mà nhận lấy các thứ giường, ghế của
tín tâm đàn việt. Thà trong một hai kiếp chịu cho cả trăm gươm giáo đâm vào
mình, quyết không để thân này phá giới mà thọ các thứ thuốc men của tín tâm đàn
việt. Thà nhảy vào vạc dầu sôi trong trăm nghìn kiếp, quyết không để thân này
phá giới mà lãnh những phòng nhà, ruộng, vườn, đất đai của tín tâm đàn
việt.
Lại phát thệ
rằng: Thà dùng chày sắt đập thân này từ đầu đến chân nát như tro bụi, quyết
không để thân này phá giới mà thọ sự cung kính lễ bái của tín tâm đàn việt.
Lại phát thệ
rằng: Thà lấy trăm nghìn lưỡi gươm giáo khoét mắt mình, quyết không đem tâm phá
giới này nhìn xem sắc đẹp của người. Thà lấy trăm nghìn dùi sắt đâm thủng lỗ
tai của mình trải trong một hai kiếp, quyết không đem tâm phá giới này mà nghe
tiếng tốt giọng hay. Thà lấy trăm nghìn lưỡi dao cắt bỏ mũi mình, quyết không
đem tâm phá giới này mà ngửi các mùi thơm. Thà lấy trăm nghìn lưỡi dao cắt đứt
lưỡi mình, quyết không đem tâm phá giới này mà ăn các thứ tịnh thực của người.
Thà lấy búa bén chém chặt thân thể mình, quyết không đem tâm phá giới này mà
tham mặc đồ tốt.
Lại phát nguyện:
Nguyện cho tất cả chúng sanh đều được thành Phật. Nếu Phật tử không phát thệ
những điều thệ này thời phạm khinh cấu tội.
Lời giảng
Giới “không
lập nguyện” ở trước là nói theo phương diện thuận, còn giới “không lập thệ” này
là nói theo phương tiện nghịch.
Hành giả đã phát
mười điều nguyện lớn như trên, nếu không tiếp tục lập thệ kiên cố để giữ vững
chí hướng của mình thì giới hạnh không khỏi có chỗ khuyết tổn.
Vì thế, muốn cho
giới hạnh được thanh tịnh, không ô nhiễm, không đến nỗi tùy duyên bị khuynh
đảo, nên phải phát lập đại thệ. Nếu không như vậy thì nhất quyết không được. Vì
lúc đầu tiên, tâm của hành giả rất là yếu kém. Muốn thực hành những lời nguyện
của mình đã phát, nhất định phải có một lực lượng khác để duy trì tâm nguyện
ấy, nhờ đó mà không đến nỗi nửa chừng phải thối thất. Phải biết sức mạnh của
tập quán, tội ác của chúng ta từ vô thỉ hết sức mãnh liệt.
Do đó, muốn diệt
trừ tội nghiệp quá khứ, mà không dùng đại thệ để giúp cho đại nguyện được kiên
cố là điều rất khó khăn. Nếu dùng mười đại nguyện đã phát làm vị thầy đi trước
dẫn đường, thì kế đó phải dùng năm đại thệ để giúp cho mười đại nguyện được
kiên cố, khiến cho hành giả lúc tiến bước trên con đường đại Bồ Đề được thản
nhiên không bị khiếp sợ, để hoàn thành nhiệm vụ tu học Phật đạo.
Trong kinh Tăng
Nhất A Hàm, quyển ba mươi tám nói: “Nếu tỳ kheo không phát thệ chắc chắn khó
thành Phật đạo được. Phước đức của thệ nguyện không thể so lường, tính kể vì nó
có năng lực giúp cho hành giả đi đến cảnh giới Cam Lồ Tịch Diệt (Niết Bàn). Do
đó, khi phát đại nguyện, tiếp theo phải phát đại thệ. Đại nguyện như vị đạo sư
đi trước dẫn đường để cho chí hướng tu học Phật đạo của hành giả được chắc chắn
đạt đến mục đích. Đại thệ như người đi sau, thúc đẩy để bảo đảm cho nguyện vọng
ấy không bị lui sụt”.
Lại có lối giải
thích khác rằng: “Lực dụng của nguyện là tiến đức tu thiện. Vì thế muốn tiến
đức tu thiện mà không có nguyện lực là không được. Còn Thệ có công năng ngăn
quấy, dứt dữ, cho nên muốn ngăn quấy, dứt dữ nếu không có đại thệ cũng không
thể được. Nếu đem so sánh Thệ với Nguyện thì Thệ càng trọng yếu hơn. Vì đại thệ
là sự phát tâm quyết định, dũng mãnh, kiên cố, nếu không đạt đến mục đích thì
thệ quyết không buông bỏ, dừng nghỉ nửa chừng”.
Đức Phật dạy đại
chúng rằng: “Nếu Phật tử đã thọ Bồ Tát giới, thì đã phát mười điều nguyện lớn
trên rồi, phải giữ gìn giới cấm của Phật chế lập!” Kế đến tiến thêm một bước
nữa là phải đại thệ này. Thông thường nói “thệ nguyện” thì từ “thệ” thường đứng
trước từ “nguyện”. Nhưng thực ra nguyện phải đi trước và thệ đi sau.
Tại sao vậy? Cổ
đức đã nêu một thí dụ để giải thích như sau: “Nguyện như ngựa có dây cương, Thệ
là dùng roi để thúc giục nó. Cũng thế, Bồ Tát mong cầu quả vô thượng Bồ Đề, nếu
không có tính quyết định của sức đại thệ nguyện thì khi gặp hoàn cảnh trái
nghịch, hoặc lúc gặp hoàn cảnh không được thuận lợi, chắc chắn sẽ bị thối
chuyển, vì không có động lực và biện pháp gì để vượt qua. Bấy giờ sẽ trở thành
vị Bồ Tát bại hoại”.
Cho nên nếu đã
phát mười đại nguyện rồi, kế tiếp phải nhất quyết lập đại thệ để những điều
nguyện đã phát được thêm phần kiên cố, dù gặp hoàn cảnh nào cũng tìm đủ mọi
cách vượt qua.
Vấn đề phát thệ
có năm loại như sau:
1. Thệ không làm
việc phi phạm hạnh:
Nghĩa là thà đem
thân này gieo vào đống lửa lớn, hố sâu, núi dao. Hai chữ “ninh dĩ” (thà đem) là
lời khẩn thiết, kiên thệ, nghĩa là: thà làm việc này, nhất quyết không làm việc
kia.
Phải biết rằng:
chúng sanh trôi lăn trong vòng sanh tử luân hồi, do dâm dục là cội gốc, là tên
đệ nhất đao phủ. Đồng thời phải biết bổn nguyên tâm địa vốn là thanh tịnh. Sự
làm ô nhiễm tâm địa ấy dù có rất nhiều nguyên nhân, nhưng phải nhìn nhận rằng
bất tịnh hạnh là nguyên nhân lớn nhất làm ô nhiễm tâm địa bổn nguyên.
Vì thế, đầu tiên
phải phát thệ rằng: “Thà đem thân thể tôi gieo vào đống lửa lớn đương cháy hực
hỡ, phải chịu khổ thiêu đốt da phồng thịt rã, hoặc đem thân tôi gieo vào hầm hố
sâu, ròng rã chịu thống khổ từ trên cao rơi xuống, bị hãm hại đến chết hoặc đem
thân tôi kéo chạy trên núi đao kiếm, chịu những thống khổ bị đâm chém, gan ruột
tan nát, cho đến trăm nghìn thứ thống khổ khác bức bách. Tôi nguyện trong đời
này thà cam chịu các thứ thống khổ nói trên, cũng không cho là khổ, nhất quyết
không dám hủy phạm kinh luật thanh tịnh của tam thế chư Phật đã tuyên thuyết,
để “cùng với tất cả nữ nhân làm điều bất tịnh”.
Tại sao lại nói
vấn đề này một cách quá nghiêm trọng như vậy?
Vì trong giới có
dạy: “Lửa dữ, núi dao chỉ làm thiệt hại sinh mạng trong một thời kỳ ngắn ngủi
này, còn việc dâm nhiễm với nữ nhân làm cho hành giả bị đọa vào địa ngục thọ vô
lượng thống khổ, lại còn làm thương tổn cho pháp thân huệ mạng”. Ngoài ra,
trong bộ Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Phát Ẩn của tổ Liên Trì cũng nói: “Về việc
dâm nhiễm phải phát thệ trước tiên, vì thân này sinh ra từ nơi dâm dục. Dâm sự
thành tựu là do nữ nhân. Bể ân ái thêm sâu rộng, cội gốc sanh tử càng kiên cố
không gì hơn nữ sắc. Do đó, phải phát thệ đoạn trừ dâm dục đầu tiên.
Lò hồng,
gươm bén chỉ hại sắc thân một thuở, còn nữ sắc là mật ngọt ở trên dao bén, làm
cho huệ mạng bị trầm luân trong muôn kiếp. Vì thế nế đem so sánh với nỗi thống
khổ bên trên, thì thà nhẫn thọ khổ này chớ quyết không đi làm việc
kia...”
Nguyên do chúng
sanh bị trầm luân trong khổ hải từ vô thỉ, không thể vượt ra ba cõi, thoát sanh
tử luân hồi, chính là do sự trói cột của nữ sắc.
Vì thế, trong
kinh Đại Niết Bàn có dạy: “Nếu có Bồ Tát nào dù không giao hợp với nữ nhân, chỉ
cùng nhau nói cười đùa giỡn, hoặc ở ngoài vách tường lắng nghe tiếng khua động
vòng xuyến của nữ nhân, cho đến để ý dòm ngó cảnh nam nữ dẫn nhau đi... Vị Bồ
Tát này đã hủy phá tịnh giới, hoen ố phạm hạnh. Giới thể đã bị tạp nhiễm, nên
không được gọi là đầy đủ tịnh giới”.
Nghe tiếng, thấy
hình còn làm cho giới hạnh bị tạp nhiễm, ô uế, huống chi sanh khởi niệm bất
tịnh ư?
Tại sao trong
kinh Niết Bàn nói Bồ Tát cùng với nữ nhân cười cợt, giỡn hớt cũng gọi là hủy
phạm tịnh giới?
Vì dâm dục có
nhiều hình thức chứ không phải chỉ có việc giao hợp. Như bài tụng thứ mười hai
trong luận Câu Xá có nói về tướng trạng dâm dục của chư thiên cõi Lục Dục như
sau:
Lục thọ dục:
giao, bão,
Chấp thủ, tiếu,
thị dâm!
Nghĩa là sự
hưởng thọ dục lạc ở cõi trời Dục Giới có năm thứ: giao hợp, ôm, nắm tay, cười
giỡn, liếc ngó.
Cõi trời Tứ
Thiên Vương thứ nhất và cõi Trời Đao Lợi thứ hai, nam nữ giao hợp gọi là dâm
dục.
Cõi trời Dạ Ma
thứ ba, nam nữ ôm nhau là dâm dục.
Cõi trời Đâu
Suất thứ tư, nam nữ nắm tay nhau gọi là dâm dục.
Cõi trời Lạc
Biến Hóa thứ năm, nam nữ cười giỡn gọi là dâm dục.
Cõi trời Tha Hóa
Tự Tại thứ sáu, nam nữ dòm ngó nhau gọi là dâm dục.
Việc hành dâm
của thiên nhơn trong cõi trời Lục Dục khác nhau vì phước nghiệp của mỗi cõi hơn
kém nhau, nên sự hành dâm giữa nam nữ có sự thô, tế khác nhau. Còn ở nhân gian
thì gồm đủ cả. Đầu tiên thì liếc, ngó, cười cợt, đụng chạm, dần dần đến sự giao
hợp, tức hoàn thành dâm nghiệp, phạm căn bản Ba La Di tội.
Vì thế muốn
tránh khỏi dâm nghiệp thì với những cử chỉ bất chánh như dòm ngó v.v... phải
tránh hẳn để khỏi phạm căn bản trọng tội, mà phải chiêu cảm lấy khổ quả ở địa
ngục A Tỳ (dịch giả nhất tâm thành kính mong quý đại sĩ cố gắng lưu tâm đề
phòng).
Như vậy phải làm
thế nào để khỏi bị nữ sắc cám dỗ?
Vấn đề này có
một sự tích sau đây:
Thời quá khứ có
một vị tỳ kheo độc thân, tọa thiền niệm Phật trên một cánh đồng vắng.
Một hôm, ma biến
hóa thành một mỹ nhân quyến rũ, mê hoặc để tỳ kheo làm hạnh bất tịnh với nó. Tỳ
kheo dùng kệ đáp rằng:
Vô tu tệ ác
nhân,
Thuyết thử bất
tịnh ngữ.
Thủy phiêu, hỏa
phần chi,
Bất dục kiến,
văn nhữ!
Dịch:
Con người tệ ác
không biết thẹn,
Thốt ra những
lời bất tịnh ấy.
Thà bị nước trôi
cùng lửa cháy,
Không muốn nghe
thấy những lời ngươi nói.
Ma nghe tỳ kheo
nói kệ trên rồi, hết sức tán thán rằng:
Nước trong bể cả
có thể cạn khô,
Non Tu Di có thể
lay động,
Bậc thượng nhân
chí hướng kiên cường,
Tôi không cách
gì mê hoặc được.
Nam nữ là một đại vấn đề
ở thế gian, đúng theo pháp để khống chế nó thật không phải là việc dễ dàng. Vì
thế, khi Đức Phật còn tại thế, đối với những vị xuất gia không thể nghiêm trì
tịnh giới, muốn xả giới hoàn tục; Ngài chẳng những không ngăn cản, lại còn sẵn
lòng chấp thuận. Đó là vì Phật muốn bảo vệ sự thanh tịnh cho Tăng đoàn, không
muốn những người không biết hổ thẹn, phạm giới, lại ở trong Phật pháp làm những
hành động phá hoại đạo pháp.
Nếu theo đúng
pháp xả giới hoàn tục, tương lai vẫn có thể xuất gia trở lại, làm vị xuất trần
thượng sĩ. Nếu ở trong Phật pháp mang lốt xuất gia mà hủy phá căn bản đại giới
thì không thể thành pháp khí, mong cầu thoát ly sanh tử luân hồi.
Lời
phụ:
Trong Luật Tạng
và kinh A Hàm nói: khi Đức Phật còn tại thế, một hôm Ngài cùng quý tỳ kheo đi
dạo nơi một cánh đồng lớn, thấy lửa bốc cháy dữ dội. Nhân đó, ngài vì quý tỳ
kheo mà nói thí dụ gieo mình vào đống lửa lớn.
Quý tỳ kheo sau
khi nghe Phật dạy, những vị căn tánh đã thuần thục, tập nhiễm ái dục đã được
nhẹ nhiều, liền đoạn diệt phiền não về ái dục.
Trái lại, những
vị căn tánh chưa thuần thục, nghĩa là phiền não ái dục còn sâu nặng, sanh lòng
lo sợ, hoảng hốt, nên đồng nguyện xả giới xin hoàn tục.
Đức Phật vẫn
hoan hỷ cho phép không ngăn cản. Vì ngài không muốn quý tỳ kheo cố gắng ở trong
đạo mà làm việc phá hoại đạo pháp, chớ thật lòng không phải Ngài muốn cho quý
thầy hoàn tục.
Cho đến bậc
Thánh Nhân Sơ Quả, Nhị Quả (Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm), đối với kiến hoặc phiền não
đã hoàn toàn đoạn diệt, nhưng tập chủng dâm nhiễm vẫn còn thì cũng nên hoàn tục
cưới vợ, nhất quyết không được ở trong đạo mà làm việc phá giới. Vì theo đúng
pháp hoàn tục thì tương lai, nếu muốn, vẫn được xuất gia trở lại. Nếu một khi
căn bản trọng giới đã phá rồi thì nhất định không phải là đạo khí (khí là vật
dụng, đạo là đạo pháp. Nghĩa là thân này ví như vật dụng để thành tựu đạo pháp).
Nếu thân phá giới thì chẳng khác gì vật hư bể, không dùng được nữa. Hơn nữa,
không thể nào mang tướng trạng của thánh hiền (hình tướng người xuất gia) mà đi
làm việc bỉ ổi, đê hèn, ô uế và nhơ bẩn này.
Với điều phát
thệ trên (đoạn dục nhiễm), Bồ Tát xuất gia hoàn toàn phát thệ đoạn việc tà dâm
mà thôi.
Thế nên Bồ Tát
xuất gia phải hết sức tự xét mình: Nếu chủng tử ái nhiễm nhẹ thì rất quý, hoặc
nếu dù nặng nề nhưng có thể khéo léo cố gắng, kềm chế thì có thể ở lại trong
Tăng Đoàn. Còn vị nào phiền não, ô nhiễm quá cường thịnh không thể tự kềm chế
thì nên mau mau xả giới hoàn tục, phải hết sức thận trọng, không nên ở trong
đạo mà làm việc phá giới.
Xả giới hoàn
tục, dù hiện tại phải mất hẳn địa vị tỳ kheo, sa di, nhưng vẫn được làm Bồ Tát
ưu bà tắc, tương lai có thể trở lại xuất gia. Nhưng nếu giới thể một phen đã
hủy phá rồi, thì tất cả giới tỳ kheo, sa di, Bồ Tát, đến cả Bát Quan Trai Giới
một ngày một đêm, đều không cho phép thọ. Dù trong giới Bồ Tát có cho phép
trường hợp phạm tội trọng, phải sám hối cho đến khi nào thấy được hảo tướng thì
mới được tái thọ. Nhưng thấy được hảo tướng không phải là chuyện dễ dàng. Vậy
cần phải suy nghĩ thật kỹ và thật thận trọng!
Dịch giả thành
kính y theo bộ Phạm Võng Hợp Chú cung kính thuật lại để kính dâng quý đại sĩ
xuất gia và tại gia, nhất là quý vị xuất gia, phải y theo lời Phật dạy, cố gắng
giữ gìn giới luật.
Đối với quý đại
sĩ tại gia, Phật đã từ bi mở ra pháp Nhân Thừa Ngũ Giới, chỉ cấm tà dâm, không
cấm chánh dâm. Vì vậy, đối với giới tà dâm phải cố gắng đoạn trừ, đừng để sa
chân vào đường tội lỗi, như lời dạy của tiên đức:
Nhất thất túc
thành thiên cổ hận,
Tái hồi đầu thị
bách niên thân.
Dịch:
Một bước sa chân
ngàn thuở hận,
Ngoảnh lại phù
sinh kiếp đã rồi.
2. Thề không
luống thọ cúng dường
Khi
thọ sự cúng
dường của
tín thí chủ, quyết phải đem lại phước lợi cho người. Nếu chỉ
thọ dụng
của người một cách tổn hao mà không
lợi ích gì cho
thú chủ, gọi là uổng thọ hay
luống thọ.
Lại thệ rằng:
“Đến lúc đông thiên, trời quá lạnh rét, nếu tôi nghiêm trì
cấm giới được
thanh
tịnh thì
thọ sự cúng dường y phục của
tín thí không có gì là không được. Tôi
thà lấy lưới sắt nóng quấn trên thân mình có nghìn lớp để thân này
da thịt bị
cháy phỏng
rã rời, nhưng không cho sự kịch khổ ấy là
đau khổ, quyết không dám
để thân này
phá giới, thọ những
y phục của
tín tâm đàn việt cúng dường.
Đàn việt sở dĩ
cúng dường y phục cho tôi là vì tôi là
phước điền tăng
thanh tịnh, nên
thí chủ
muốn đến để
cúng dường cầu phước. Nếu tôi đã hủy
phá giới pháp của
Như Lai, làm
mất hẳn
tư cách của vị
phước điền tăng, tôi không được phép tiếp thọ
cúng dường
y phục của đàn việt” (chẳng những đối với
y phục,
mà cả với
thức ăn uống cũng
vậy).
Lại thệ rằng:
“Lúc tôi bị bụng đói như cào mà không tìm được món gì để ăn, thà miệng này nuốt
hoàn sắt nóng cháy đỏ, hoặc lúc tôi bị khát khô cổ, thà miệng này uống nước
đồng sôi, hoặc gan ruột,
lục phủ,
ngũ tạng rục rã nát tan. Những nỗi
thống khổ
ấy không phải chỉ trong
phút chốc mà phải
chịu đựng lâu dài đến trăm nghìn
kiếp. Dù phải thọ khổ như thế, nhưng tôi vẫn
cố gắng nhẫn thọ, chớ quyết không
để miệng
phá giới ăn các
thức uống ăn của
tín tâm đàn việt cúng dường.
Thí chủ
vì cầu phước mà mang đồ đến
cúng dường, tôi nay không có
phước đức, thì không
nên tiếp
thọ sự cúng dường ấy. Nếu
thọ dụng các
thức uống ăn này làm sao
tiêu
hóa được?”
Lại thệ rằng:
“Khi tôi
cảm thấy mỏi mệt cần có giường chiếu nghỉ ngơi, thà đem thân này nằm
trên đống lửa lớn hoặc trên tấm sắt nóng, để chịu
thống khổ da phồng, thịt rã,
xương cốt
tiêu tan, quyết không dám để thân này
phá giới, thọ các thứ giường
ghế của
tín tâm đàn việt cúng dường”.
Đàn việt vì cầu
phước mà
cúng dường các thứ giường ghế cho bạn. Nếu bạn tự thấy mình không có
phước đức, thì không nên tiếp
thọ sự cúng dường của
đàn việt.
Lại thệ rằng:
“Lúc tôi
bệnh hoạn, phải có thuốc men để
trị liệu, thà đem thân này chịu cả ba
trăm gươm giáo đâm vào thân mình, bị
thống khổ như vậy, không phải chỉ trong
thời gian ngắn mà phải
trải qua thời gian lâu xa một hai kiếp. Dù bị khổ
cực
điểm như vậy, nhưng tôi vẫn sẵn sàng cam tâm nhẫn thọ, quyết không dám để thân
này
phá giới, thọ các thứ thuốc men của
tín tâm đàn việt cúng dường”.
Đàn việt cúng
dường thuốc men
trị liệu cho
thân thể chúng ta đuọc khỏi bệnh khoẻ mạnh,
chủ ý
là muốn
chúng ta tu hành để họ được phước.
Chúng ta lại không đúng
như pháp
dụng công tu niệm, lại còn phá
tịnh giới của
Như Lai, thì làm sao dám tiếp
thọ
sự cúng dường của người?
Lại phát thệ
rằng: “Nếu tôi cần nơi cư trú để
tu hành và các phòng xá v.v... thì phải đúng
như pháp, nghiêm
trì giới cấm của Phật.
Nếu không, thà đem thân này nhảy vào
vạc dầu sôi,
trải qua thời gian trăm nghìn kiếp, thọ các
thống khổ, quyết không
dám để thân này
phá giới,
lãnh thọ những phòng nhà, ruộng vườn, đất đai của
những
đàn việt có
tín tâm cúng dường”.
Nên
nhận thức
chân thực rằng: Các vật nói trên đều là của
thí chủ cần dùng, nhưng vì muốn cho
người
xuất gia tròn
trách nhiệm hóa độ chúng sanh và
hoàn thành đạo nghiệp, nên
họ
phát tâm cúng dường.
Nếu
bản thân của
vị
xuất gia không theo đúng pháp,
thực hành công hạnh tự lợi,
lợi tha thì thử
hỏi làm sao dám thọ nhận của
đàn na, tín thí?
Đức Phật vẫn
cho
phép chúng tăng thọ nhận sự
cúng dường của
thí chủ, nhưng ở đây nói “thệ không
luống
thọ sự cúng dường” không có nghĩa là không cho
chúng tăng thọ sự cúng dường
của
thí chủ, mà là muốn cho
chúng tăng phát thệ nghiêm trì
tịnh giới của
Như
Lai, không được hủy phá. Nếu đem thân
phá giới mà tiếp
thọ sự cúng dường của
thí chủ thì
tuyệt đối không được.
Trong kinh
Bảo
Tích,
Đức Phật bảo ngài
Ca Diếp rằng: “Này Ca Diếp! Ta thường nói: Thà dùng tấm
sắt nóng làm
y phục, chứ không nên đem thân
phá giới này mặc chiếc
ca sa. Thà
nuốt hoàn sắt nóng cháy đỏ, chứ không nên dùng miệng
phá giới mà ăn các thứ
uống ăn của tín thí”, chính là ý này vậy.
Cổ đức có dạy:
“Nếu
giới pháp của mình có chỗ khuyết tổn, thì một hạt gạo, một hạt muối, cũng
không dễ gì tiêu được.
Phá giới mà
thọ dụng của
thí chủ thì làm sao có thể đầy
đủ theo chỗ mong cầu của tín thí? Vì thế phải
hết sức thận trọng!”
3. Thệ không
luống
thọ sự cung kính
Một vị
Bồ Tát
đầy đủ
công hạnh tự lợi,
lợi tha, tất nhiên được sự
cung kính,
tôn trọng của
quảng đại quần chúng, nhưng
bản thân của vị
Bồ Tát phải kiện toàn mọi mặt mới
được. Tức là vị
Bồ Tát phải đúng
như pháp nghiêm trì
tịnh giới của
Như Lai,
không được hủy phạm.
Trái lại, nếu
thọ nhận sự
cung kính lễ bái của
thí chủ mà không
thực hành được điều
quy định,
thì không dễ gì nói cho suông
trôi qua được. Cho nên lại phát thệ rằng: “Vì sự
cung kính,
tôn trọng của
mọi người,
trước tiên tôi phải tự tôn, tự trọng chính
mình. Vì thế, hôm nay tôi thà để cho người lấy chày sắt rất nặng đập thân này
từ đầu đến chân nát như tro bụi, quyết không dám để thân này
phá giới,
thọ sự
cung kính lễ bái của
tín tâm đàn việt”.
Cung kính lễ bái
là
việc làm cầu phước tiêu tội. Vì thế, nếu bạn là một vị
tu hành đức hạnh cao
siêu, đáng lý phải tiếp
thọ sự cung kính của
mọi người, để cho
mọi người được
tiêu trừ tội chướng,
phước đức tăng trưởng. Nếu tự
biết mình không có
đức hạnh
như vậy, thì không dám tiếp
thọ sự cung kính,
lễ bái của người.
4. Thệ sáu căn
không
nhiễm ô
Sáu căn gồm
nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý. Sáu căn này có
tác dụng kiến, văn, giác, tri.
Đối với sáu căn được khai thành năm thệ như sau:
* Thệ
nhãn căn
thanh tịnh:
Nhãn căn dùng để
phân biệt sắc trần. Trời sanh
con người có đôi mắt
để xem
mọi vật. Nếu dùng mắt để xem kinh Phật,
tượng Phật, tất nhiên điều đó là
rất tốt, còn xem sắc đẹp
con người thì
nhất định không được.
Nên lại
phát
nguyện rằng: “Nếu khi tôi dùng
nhãn căn đối với
sắc trần, thà lấy trăm nghìn lưỡi
gươm, giáo khoét đôi mắt mình, khiến tôi không thể trông thấy bất cứ cảnh vật
gì, quyết không đem tâm
phá giới này nhìn ngắm sắc đẹp của người, để không bị
sắc đẹp bên ngoài
cám dỗ, làm việc
phá giới của Như Lai”.
Tập khí của
chúng sanh từ vô thỉ
thường hay khuấy nhiễu, phá rối
hành giả. Không muốn cho
nó nhìn ngắm sắc đẹp mà nó lại rất thích nhìn ngắm, dù nhìn đến cả trăm ngàn
lần vẫn không
nhàm chán. Đây là
nguyên nhân khiến
chúng sanh trầm luân trong
sanh tử, trôi lăn trong
sáu đường, không biết tìm phương nào tự cứu!
* Thề
nhĩ căn
thanh tịnh:
Nhĩ căn dùng để
phân biệt âm thanh. Nếu dùng tai để nghe
kinh pháp,
lẽ đương nhiên rất tốt, nhưng nếu nghe những khúc nhạc du dương, đồi trụy của
thời đại thì không thể được.
Cho nên lại phát
thệ rằng: “Nếu khi tôi dùng
nhĩ căn, đối với thinh trần đắm nhiễm thì thà lấy
trăm nghìn dùi sắt đâm thủng lỗ tai mình,
trải qua thời gian lâu xa một, hai
kiếp, chịu các
thống khổ, để cho tôi không còn nghe bất cứ
âm thanh gì, tôi sẵn
sàng cam tâm nhẫn thọ, quyết không đem tâm
phá giới này nghe tiếng hay, giọng
tốt, không để cho
tiếng tốt giọng hay
cám dỗ làm điều phá giới”.
Trên
thế gian có
lắm điều thật
quái lạ, là
đại đa số người khi được khuyên nên nghe kinh,
nghe
pháp, họ đều nói là công việc quá bề bộn, không có
thì giờ rảnh. Nhưng họ lạy
say sưa nghe những khúc nhạc
hiện đại suốt ngày, không bao giờ
cảm thấy uổng
phí
thời gian... Càng nghe họ càng thấy
tinh thần càng
đam mê ưa thích nên
trong kinh gọi là “nghiệp chướng sâu nặng”.
* Thệ
tỷ căn
thanh tịnh:
Tỷ căn dùng để
phân biệt hương trần. Nếu dùng mũi để ngửi
giới
hương,
định hương, lẽ đương nhiên rất tốt. Nhưng nếu dùng mũi để ngửi các mùi
hương
thế tục thì không được.
Nên lại phát thệ
rằng: “Khi tôi dùng mũi ngửi
hương trần thì thà lấy trăm nghìn lưỡi dao cắt bỏ
mũi mình, khiến tôi phải
thọ sự thống khổ hết sức nặng nề. Tôi nguyện sẵn sàng
thọ nhận vô
điều kiện, quyết không đem tâm
phá giới này ngửi các
mùi thơm thế
tục”.
Kinh văn nói
“các mùi thơm” ở đây là chỉ các thứ nước hoa ở
thế gian mà
nam nữ thường dùng
để
cám dỗ và
mê hoặc người khác phái. Khi bạn ngửi những thứ nước hoa ấy,
tự
nhiên sẽ bị nó
lôi cuốn rồi vô tình
tùy thuận theo nó. Cho nên dùng tâm
phá
giới ngửi các thứ nước hoa
tuyệt đối là không được,
cần phải nhất quyết tránh
xa, để khỏi phải vì nó mà trái
phạm giới cấm của
Như Lai.
* Thệ
thiệt căn
thanh tịnh:
Thiệt căn dùng để
phân biệt vị trần, khả năng
phân biệt này rất
nhạy, nên được dùng để
thọ dụng các thứ uống ăn. Khi nếm vị ngon thì thích ăn
nhiều, nếm vị dở không ngon thì ăn ít. Tất cả
mọi người trên
thế gian, có thể
nói, thông thường đều như vậy, nhưng với người
Phật tử đã biết thì không được
như vậy.
Cho nên lại phát
thệ rằng: “Khi tôi dùng
thiệt căn đối với
vị trần, thà lấy trăm nghìn lưỡi dao
cắt đứt lưỡi mình, tuy là
hết sức đau đớn, nhưng tôi nguyện sẵn lòng thọ nhận
sự
đau khổ ấy, quyết không dám đem tâm
phá giới này ăn các thứ
tịnh thực của
người cúng dường”.
Phải biết rằng:
Ăn uống cốt là để
duy trì sự sống, thế nên chỉ cần
ăn uống để trợ giúp cho thân
này
mạnh khỏe là đủ. Không nên dùng tâm
trái với giới hạnh,
phân biệt thức ăn
ngon dở mà
thọ dụng.
* Thệ
thân căn
thanh tịnh:
Thân căn dùng để
phân biệt các
cảm giác đối với
xúc trần. Khi
tiếp
xúc với
ngoại cảnh tốt đẹp,
thỏa mãn ý thích của mình, thì
khởi tâm ưa muốn;
nếu ngược lại thì sanh lòng
chán ghét. Đây cũng là một thông bệnh của
mọi
người. Nhưng đối với
Phật tử thì
nhất quyết không được.
Cho nên lại phát
thệ rằng: “Khi tôi dùng
thân căn đối với
xúc trần, thà lấy búa bén chặt chém
thân thể của mình, chịu các thứ
đau khổ không tả xiết, nhưng tôi nguyện sẵn
sàng nhẫn thọ, quyết không dám đem tâm
phá giới này tham mặc đồ tốt”.
“Đồ tốt” là chỉ
cho những loại
y phục, mền, nệm v.v... bằng hàng lụa, sa, tố, gấm, vóc mềm mịn,
êm ái. Bất cứ người nào khi
va chạm vào chúng đều sanh tâm
ưa thích, không muốn
xa rời. Đấy cũng là một thông bệnh của người đời, nhưng đối với
Phật tử đã biết
sự
tai hại của nó,
cần phải tránh xa.
Như trên đã nói
về năm căn
tiếp xúc với năm trần, tức là
cảnh giới ngũ dục. Người
Phật tử đối
với
cảnh giới ngũ dục nếu có tâm
nhiễm trước thì
hoàn toàn bất lợi cho chính
mình, vì nó là nguồn gốc tạo các
tội ác.
Nên trong kinh
Di Giáo,
Đức Phật dạy: “Giặc
ngũ căn có thể làm cho
chúng sanh bị khổ nhiều
đời, nhiều kiếp.
Tai hại ấy rất lớn, thế nên
cần phải thận trọng cho
lắm!”
Ở đây vì muốn
chặt đứt nguồn gốc
tội ác này, khiến cho các
thiện căn công đức được
tăng
trưởng, cho nên Phật dạy phải phát ra những điều thệ này để không phải
tùy
thuận theo nó, không bị nó cuốn lôi.
Ở đây có người
hỏi rằng: Nói là “thệ sáu căn
thanh tịnh không ô nhiễm”, tại sao không thấy nói
đến ý căn?
Vì
ý căn là pháp
vô hình
vô tướng, còn
pháp trần là
cảnh sở duyên của nó, cũng không thể nắm
cầm, sờ mó được. Thế nên không thể nói giống như năm căn kia. Hơn nữa, ở trong
những lời phát thệ trên, lời thệ nào cũng đều có câu: “Không đem tâm
phá giới
này...” như vậy, tâm ở đây chính là Ý, do đó, đã bao hàm
Ý căn trong đó rồi
vậy. Cho nên không cần nói riêng.
Nếu lúc năm căn
tiếp xúc với năm trần mà
tâm không nhiễm trước,
phá giới, thì là đã được sáu
căn
thanh tịnh. Do đó, giới này gọi là thệ sáu căn
thanh tịnh, không
nhiễm
ô.
5. Thệ vì
hóa độ
chúng sanh:
Lại
phát nguyện:
“Nguyện cho tất cả
chúng sanh đều được thành Phật".
Bồ Tát đã
phát nguyện
lập thệ như trên, không phải để mong cầu sự
an lạc cho
cá nhân mình, mà chính
là vì
hóa độ tất cả
chúng sanh trong
pháp giới, khiến cho tất cả
chúng sanh đều
được
thành Phật.
Điều
đại thệ:
“Nguyện cho tất cả
chúng sanh đều được thành Phật” này có thể nói là nó
thể
hiện tính chất chân chính trong
bản hoài độ sanh của
Bồ Tát.
Nếu không có điều
thệ nguyện này
hồi hướng cho mình và người đồng
thành Phật đạo, thì những lời
thệ nguyện kia,
nếu không thành tựu được
phước báo nhân thiên,
thế gian thì
cũng chỉ được mức
thành tựu thánh quả xuất thế của
Tiểu Thừa mà thôi. Nếu muốn
hoàn thành vô thượng Phật quả thì không thể được.
Có
lập thệ phát
nguyện như vậy mới gọi là vị
Bồ Tát chân chính.
Trái lại, nếu làm một vị
Bồ Tát
không phát những điều thệ này thì phạm
khinh cấu tội.
Nếu đem
Tam Tụ
Tịnh Giới phối hợp với giới này thì có sự
tương ứng như sau:
- Nghiêm
trì
giới cấm của Phật thuộc về
Nhiếp Luật Nghi Giới.
- Phát các
thệ
nguyện thuộc về
Nhiếp Thiện Pháp Giới.
- Nguyện cho tất
cả
chúng sanh đều được
thành Phật thuộc về
Nhiếp Chúng Sanh Giới.
Cho nên nghiêm
trì giới này là đầy đủ
Tam Tụ Tịnh Giới của
Bồ Tát,
trái lại,
phạm giới này tức
là hủy phạm
Tam Tụ Tịnh Giới của
Bồ Tát vậy. Vì thế,
Phật tử không được viện
bất cứ
lý do gì để không phát thệ.
Về
phương diện
Tánh và Giá tội, nên chỉ có
trường hợp ngăn cấm mà không có
trường hợp khai
miễn. Giới này cả
thất chúng Phật tử đều phải tuân giữ,
tu học. Nhưng năm
chúng
xuất gia đều tiếp
thọ sự cúng dường của
thí chủ nên tương đồng, còn hai
chúng
tại gia vì không có việc thọ nhận sự
cúng dường nên không đồng với
chúng xuất
gia.
Riêng đối với
hoằng thệ thứ năm: “Thệ
hóa độ chúng sanh”, thì cả hai chúng
Bồ Tát xuất gia và
tại gia đều tương đồng. Vì
Bồ Tát dù
xuất gia hay
tại gia đều phải
lập thệ hóa
độ chúng sanh.
Về
phương diện
khác nhau giữa
hành giả Đại Thừa và
Tiểu Thừa, đối với hoằng
nguyện độ sanh,
hành giả Đại Thừa nếu không phát
hoằng thệ này
nhất quyết không được. Trong khi
hành giả Tiểu Thừa chỉ cốt chuyên lo
tu học để cầu
giải thoát cho cính mình,
nên không lập hoằng nguyện này thì cũng không
trái với giới hạnh của
mình.
Giới trước Phật
dạy phát tất cả nguyện: nguyện phải
hiếu thuận với
cha mẹ,
sư tăng v.v... Giới
này,
cuối cùng Phật dạy: “Thệ
nguyện độ tất cả
chúng sanh đều được thành Phật”,
có thể nói, trước sau đều dạy đủ. Đây thật là sự lưu lộ
từ tâm đại từ bi của
Đức Phật. Cho nên
hành giả Bồ Tát đã phát
đại Bồ Đề tâm, quyết phải
vâng theo
lời
Đức Phật đã
từ bi chỉ dạy. Dùng mười
đại nguyện làm người
dẫn đường đi
trước, dùng năm
đại thệ làm người đi sau
thúc đẩy, để
hoàn thành đại hạnh tự
lợi,
lợi tha của
Bồ Tát vậy.