KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương III:
CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.1.1.44. VỌNG NGỮ GIỚI (giới vọng ngữ)
Kinh
văn:
1. Phiên
âm:
Từ câu “Nhược
Phật tử...” cho đến câu “...thị Bồ Tát Ba La Di”.
2. Dịch nghĩa:
Nếu Phật tử tự
mình nói vọng ngữ, bảo người nói vọng ngữ, phương tiện vọng ngữ, duyên vọng
ngữ, cách thức vọng ngữ, nghiệp vọng ngữ, nhẫn đến không thấy nói thấy, thấy
nói không thấy. Hoặc thân vọng ngữ, hoặc tâm vọng ngữ. Là Phật tử lẽ ra phải
luôn luôn chánh ngữ, chánh kiến và cũng làm cho tất cả chúng sanh có chánh ngữ,
chánh kiến, mà trái lại làm cho mọi người tà ngữ, tà kiến, Phật tử này phạm Ba
La Di tội.
Lời giảng:
Từ “vọng ngữ”
hằng ngày Phật giáo đồ chúng ta thường nghe nói đến như thầy dạy đệ tử: “Các
con không được vọng ngữ, các con không nên tùy tiện nói vọng ngữ”. Như thế,
vọng ngữ là nhất định không được, vì chỉ có tổn mà không có ích. Cho nên trong
Phật pháp nhận chân vọng ngữ là một tội ác và cực lực ngăn cấm.
Nói vọng ngữ
là như thế nào?
- Lời nói không
hợp với sự thật là Vọng.
- Lời nói làm
cho người lãnh hội là Ngữ.
Đối với người
phải thành thật, đó chẳng những là điều tối yếu nhập đạo mà làm người chính
đáng ở đời cũng phải thành thật. Vọng ngữ là giả dối, không phải đạo đức.
Vọng ngữ là tự
mình biết rõ điều ấy không thật, vì muốn dối gạt, mê hoặc người nên nói không
chút nể sợ. Tuy thấy là dối gạt người, nhưng nhìn sâu vào trong cốt tủy chính
là tự dối gạt mình.
Như thế giữ thái
độ thành thật không phải là việc rất tốt hay sao? Tại sao lại nói lời giả dối,
gạt người?
Xét kỹ nguyên
nhân ấy không ngoài vọng cầu danh lợi, tham đồ lợi dưỡng, là một việc không
tốt, nên cần cực lực ngăn cấm. Nói vọng ngữ để cầu danh dự lợi dưỡng là thuộc về
tội ác, mà chính sự tùy tiện nói quàng, nói xiên, nói bậy bạ không ngăn chặn
khẩu nghiệp cũng là một điều quyết định không được.
Khi Phật còn tại
thế, La Hầu La sau khi xuất gia, vì tuổi nhỏ không biết cẩn thận giữ gìn khẩu
nghiệp. Như khi Phật tử đến hỏi: “Hôm nay đức Thế Tôn có trong tịnh xá không?”
La Hầu La biết
có Đức Phật, nhưng cứ tùy tiện nói dối là không. Đến khi Đức Phật đi hoằng hóa
nơi khác, Phật tử đến hỏi, sa di lại nói là có. La Hầu La nói dối như vậy nhiều
lần, có người bạch lên Phật.
Một hôm, Đức
Phật đi khất thực mang bát về, bảo La Hầu La đem nước đến cho Ngài rửa chân.
Rửa xong, Ngài hỏi La Hầu La rằng: “Nước này có thể dùng nấu trà, nấu cơm được
không?”
La Hầu La đáp
rằng: “Kính bạch Thế Tôn! Không được, vì pha trà, nấu cơm phải dùng nước trong
sạch mới được. Nước này đã rửa chân rồi, thành ra dơ bẩn, đâu có thể dùng
được”.
Đức Phật dạy:
“Đúng thế! Ông cũng như vậy. Ông thường nói lời giả dối với người như nước đã
rửa chân nhơ bẩn không thể dùng pha trà, nấu cơm. Ông thường nói dối thì không
thể tu đạo vô lậu”.
Phật dạy như vậy
rồi lại bảo La Hầu La đổ nước và đem bồn úp lại chỗ cũ. La Hầu La vâng lời,
Phật lại bảo La Hầu La đem nước đổ lên bồn, nước chỉ lưu lại một chút ít trên
đáy bồn.
Phật biết rõ,
nhưng cố ý hỏi rằng: - Nước đổ vào bồn sao lại không có?
La Hầu La bạch:
- Kính bạch Thế Tôn! Nước không còn trong bồn vì bồn đã úp lại cất.
Bấy giờ, Phật
mới nghiêm khắc quở trách rằng: “Ông là người không có tâm hổ thẹn, do tội vọng
ngữ che lấp tâm tánh như nước không chảy vào bồn, ông không thấm đạo cũng như
thế”.
La Hầu La được
sự giáo huấn của Phật, biết vọng ngữ là điều quyết không được làm. Từ đấy về
sau không bao giờ nói một lời vọng ngữ.
Đại Trí Độ Luận
nói: “Người vọng ngữ trước tiên là tự dối gạt mình, rồi sau mới dối gạt người.
Cho thực là hư, cho hư là thực. Hư thực điên đảo thì không thể nào lãnh thọ
thiện pháp, như cái bình úp, nước không chảy vào được. Người nói vọng ngữ tâm
không biết hổ thẹn, đóng bít con đường nhân thiên và cửa ngõ đi đến Niết Bàn. Quán
biết tội lỗi này rồi, thế nên đừng nói vọng ngữ”.
Trong kinh dạy:
Xưa có một tỳ kheo tên Ha Đa rất có tài tuyên thuyết chánh pháp và thường bố
thí chánh pháp. Công đức vĩ đại này đáng lẽ được quả báo tốt đẹp, nhưng bất hạnh
thay! Tỳ kheo này sau khi xả thân đọa vào địa ngục chịu các kịch khổ, lý do vì
sao? Có trái với luật nhân quả hay không?
Đức Phật bảo các
tỳ kheo rằng: “Tỳ kheo Ha Đa đọa địa ngục không phải do tuyên thuyết chánh
pháp, mà do thường nói vọng ngữ”. Tai hại của vọng ngữ thấy rõ nơi đây!
Quý vị không nên
cho rằng tùy tiện nói vọng ngữ chút ít không quan hệ chi. Nên biết tội sát
sanh, trộm cắp, tà dâm đã giảng, phần nhiều do vọng ngữ trợ thành. Vì thế lúc
chúng ta nói vọng ngữ, chư thiên, quỷ thần đều thấy biết. Các Ngài vốn muốn ủng
hộ chúng ta, nhưng vì chúng ta nói vọng ngữ mà các Ngài xa lánh, không muốn ủng
hộ nữa.
Thử tưởng tội
vọng ngữ tổn thất cho chúng ta lớn biết chừng nào. Cho nên trong kinh, Đức Phật
khai thị rằng: “Thà nên hy sinh thân mạng của chính mình, không nên phạm giới
vọng ngữ”.
Nói lời thành
thật lắm lúc bị thiệt thòi, bị khinh nhục hoặc bị kết tội, với tự mình đó là sự
hy sinh rất lớn. Tuy vậy, đối với Phật pháp vẫn cần phải nói lời chân thật. Không
thể vì mình bị bất lợi mà không nói lời thành thật.
Trong luận Bồ Đề
Tư Lương nói: “Dù do nói lời thành thật mà phải bị chết, bị mất địa vị Chuyển
Luân Vương cùng chư thiên vương, nhưng cũng phải nói lời thành thật”. Sự quý
báu của lời chân thật, lời đứng đắn, hoàn toàn thấy rõ nơi đây.
Trái ngược với
lời vọng ngữ là lời thành thật, chân thành phát xuất từ nội tâm. Người làm đến
mức độ chân thành chính là chân thực không khi người, không bao giờ nói lời hoang
đường để gạt người. Cho nên dù đối với Phật pháp hay với Nho gia, chân thành
vẫn là tối trọng yếu. Chân thành chẳng những là chánh nghĩa không thể thiếu giữa
người với người tương xử với nhau, mà cũng là một nhân tố xây dựng tín tâm với
nhau.
Chân thành chẳng
những phát xuất từ nơi chân lý mà cũng là biểu lộ từ nơi chân tình. Chân thành
lại còn là sức thúc đẩy rất lớn đối với con người, có thể làm cho con người trở
nên dũng cảm, không sợ điều gì, có khả năng tồi phá đến mức không có thứ cứng
rắn nào chịu đựng được, giữ được.
Nên cổ nhân
Trung Hoa có nói: “Tinh thành sở chí, kiên thạch vi khai” (tinh thành đi đến
đâu thì mọi thứ dù cứng rắn như vàng đá, cũng phải vỡ tan), chính là ý nói trên
vậy.
Lại nữa nhân
loại chung sống với nhau, cùng xây dựng nền tảng trên hai chữ Chân Thành. Nếu
không có chân thành thì nhân loại làm sao chung sống? Tại sao người quân tử
nhìn nhận Chân Thành là điều hết sức quý giá?
Vì chân thành là
tuyền nguyên duy nhất của đạo đức (tuyền nguyên là nguồn của suối, tức cội gốc
của dòng nước, dùng danh từ này ám chỉ chân thành là nguồn cội của đạo đức).
Chánh tâm tu
thân của mỗi cá nhân nương nhờ nơi sự chân thành. Sự đối xử lẫn nhau giữa mình
và người được duy trì cũng nhờ sự chân thành. Cho nên cần phải thể hiện đến mức
độ chân thành mới là đạo lý làm người.
Lại nữa, chỉ có
những người thật sự chân thành trong thiên hạ mới có thể đem hết năng lực phát
huy bổn tánh của chính mình. Khi dùng sự chân thành tiếp đãi với người, tự
nhiên người sẽ tiếp thọ sự cảm hóa của mình và lại có ý rất thích được đồng hóa
với mình.
Do đây, ta thấy
sức mạnh vĩ đại của sự chân thành mà những kẻ tầm thường không thể hiểu được.
Cho nên nói: “Thành ý là tiền đề của chánh tâm, là cơ sở của tu thân, là điều
tất cả các tôn giáo đều nhu dụng, là điều kiện tiên quyết của người tu hành cần
phải đủ”.
Phật giáo xem
tội vọng ngữ là căn bổn trọng tội nên càng xem trọng sự chân thành, cho chân
thành là đạo làm người. Nếu không chân thành thì không đủ tư cách làm người.
Đức Phật lại đối với đại chúng dạy rằng: “Nếu là một Phật tử, làm vị Bồ Tát lẽ
ra phải dùng tâm chân thành mà cảm hóa chúng sanh. Vì chỉ có sự chân thành mới
khiến chúng sanh tiếp thọ sự giáo hóa của mình. Nếu không làm như vậy, lại
thường nói những lời hư giả, một ngày nào đó, khi chúng sanh biết được thì còn
ai tin lời nói của mình nữa? Cho nên bất luận tự vọng ngữ, giáo vọng ngữ,
phương tiện vọng ngữ, đều không thể được, nên phải triệt để ngăn cấm, chừa
bỏ”.
* Thế nào là tự
vọng ngữ?
Là chính mình
đối với người, nói là mình đã chứng đắc pháp thượng nhơn, là pháp sở tu sở
chứng của bậc thánh hiền. Pháp sở tu gồm 37 phẩm Bồ Đề phần và các môn tam muội;
pháp sở chứng bao gồm các địa vị trong Tam Hiền, Thập Thánh.
Nói đại vọng ngữ
là nói như thế nào?
Là tự nói mình
đã chứng đắc Thập Địa, Bích Chi, Tứ Quả, Tứ Hướng, Tứ Thiền, Tứ Không, thành
tựu pháp quán Bất Tịnh, pháp quán Sổ Tức, Lục Thông, Bát Giải Thoát; chư thiên
long đến thưa hỏi, quỷ thần đến vấn đáp với mình. Hoặc nói rằng chính mình đã
đoạn kiết sử, đã vĩnh viễn xa lìa tam đồ... Những việc trên đều hư giả không
chân thật, chỉ có tâm mong cầu danh dự lợi dưỡng, nên gọi là “đại vọng
ngữ”.
Trong Luật dạy,
khi nói rằng mình đã tu đắc các pháp kể trên mới kể là hoàn thành căn bổn trọng
tội. Phàm bực tu hành đã chứng đắc thì pháp sở tu hay sở chứng chỉ tự mình biết
lấy, như người uống nước nóng, lạnh tự mình hay biết.
Cổ đức có dạy:
“Hữu đạo, vô đạo, tự kỷ tri chi” (có đạo hay không có đạo, tự mình biết lấy,
không cần nói với người). Không được nói vọng ngữ là mình đã chứng đắc, trong
trường hợp nếu mình thật sự đã chứng đắc, cũng không nên nói với người.
Do nguyên nhân
nào mà nói vọng ngữ, không chân thật?
Bệnh căn lớn
nhất là do tham cầu danh dự, lợi dưỡng. Vì nhiều người ở đời rất ưa thích cung
kính, cúng dường những bậc đã chứng đắc thiền định, thần thông, đạo quả. Nếu
chúng ta bày tỏ với mọi người rằng mình đã chứng đắc những pháp ấy, thì danh
dự, lợi dưỡng sẽ tấp nập đưa đến.
Quả thật, nhìn
bên ngoài thì thấy được vô số danh dự, lợi dưỡng, nhưng thật sự chúng ta đã tự
tạo vô biên tội nghiệp. Tại sao vậy?
Nên biết rằng,
việc đó không nên tùy tiện nói bậy, vì lời nói không tương xứng với sự thật. Do
đó, danh dự lợi dưỡng sẽ bị mất đi nhanh chóng, lại còn mang tội đại vọng ngữ,
não hại người đời, gây một ấn tượng xấu xa cho Phật pháp, làm thối mất tín tâm
của chúng sanh đối với Phật pháp. Thử hỏi việc này đối với Phật pháp tổn hại
biết chừng nào?
Thế nên vọng ngữ
đối với bản thân mình đã không lợi ích, cũng không làm lợi ích cho Phật pháp,
thì tại sao ta có thể tùy tiện nói bậy bạ? Như người ban đêm bắn tên, không chắc
trúng ai, trở lại hại mình?
* Thế nào là
giáo nhân vọng ngữ?
Giáo nhân vọng
ngữ (bảo người nói vọng ngữ), loại này gồm hai thứ:
- Bảo người đối
với người khác nói vọng ngữ rằng vị ấy thật là bậc tu hành đạo đức cao siêu, đã
chứng đắc pháp thượng nhân... hoặc là bảo người tuyên dương mỹ đức của chính
mình; hoặc bảo các đệ tử đi các nơi rao nói sư phụ tôi là một bậc tu hành đạo
đức cao siêu, hoặc nhờ bằng hữu đối đáp lẫn nhau truyền nói: Vị ấy là bậc đại
đức duy nhất đương thời, có các thứ thần thông diệu dụng. Nhờ đó mà được danh
dự, lợi dưỡng tức là đã phạm căn bổn trọng tội.
- Bảo người ấy
đối với kẻ khác nói rằng; Ông nên đi rao truyền với mọi người rằng ông đã chứng
được pháp thượng nhơn, có khi ông cùng với chư thiên quỷ thần đàm thoại, lắm
lúc ông cùng long vương đàm đạo. Có khi quỷ thần đến chỗ ông nêu ra nhiều vấn
đề thưa hỏi. Ông đều có đủ khả năng giải đáp cho các vị ấy rất ưa thích, sau đó
từ biệt...
Nhờ nói như vậy
mà người kia thu được nhiều danh dự lợi dưỡng, tự mình hoàn toàn không được
chút gì. Người kia đến nơi nào cũng rao nói như vậy. Vì nguyên nhân xúi biểu
người, cho nên dù không kết thành căn bổn trọng tội, nhưng không tránh khỏi
phạm tội khinh cấu.
Vì thế, một Phật
tử chơn chánh, chẳng những không nên tùy ý tuyên dương mỹ đức của mình, hoặc
bảo người khác tuyên dương mỹ đức của họ để tự mong cầu lợi dưỡng.
* Thế nào là
phương tiện vọng ngữ?
Là lúc muốn nói
vọng ngữ, trước tiên, phải mượn những lời xảo trá, quỷ quyệt như nói rằng: “Tôi
tu hành, một ngày nọ đương lúc tọa Thiền hay niệm Phật, tụng kinh có thiên hoa
từ hư không rải xuống” khiến người nghe sanh tâm tín thọ.
Tự mình phương
tiện nói vọng ngữ như vậy sẽ phạm căn bổn trọng tội, còn sai khiến người khác
đi các nơi rao nói như thế, hay viết thư gởi các nơi biểu dương đức hạnh của mình,
hoặc dùng tay, chân... ra dấu, hoặc làm một động tác dụng ý làm cho người nhân
đó mà hiểu, cũng đều phạm căn bổn trọng tội.
Lại bên ngoài
giả mượn ngôn thuyết tán thán kẻ khác, nhưng sự thật bên trong tự ẩn ý khen
mình là người đức hạnh... Còn có những trường hợp quái gở khác như: trước hết dùng
mật thoa lên thân một cây đại thọ, do đó hấp dẫn nhiều ong mật bay đến, rồi
không biết hổ thẹn, đối với người nói rằng: “Tôi có thể chiêu dẫn những đàn ong
mật bay đến”, để dối gạt người... đều phạm căn bổn trọng tội.
Ngoài ra, còn
mượn cơ quỷ thần, thiên tiên... những pháp mê tín nói là thỉnh thần tiên, hoặc
nói đại tiên này lâm đàn dạy chúng ta phải làm thế này, thế kia. Hoặc nói Tế
Công Hòa Thượng lâm đàn, Ngọc Hoàng Đại Đế lâm đàn, thậm chí nói là Quán Thế Âm
Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát... lâm đàn. Những loại hội môn, đạo môn, những đoàn thể
mê tín, phong kiến vào các thời đại trước thường lợi dụng những việc ấy để dối
gạt người.
Vì mượn cớ quỷ
thần, tiên, Phật lâm đàn nói thế này, thế khác, bảo người phải phụng hiến một
số kim tiền đại lượng. Tất cả những việc đó, Phật pháp quy vào tội phương tiện
vọng ngữ và xem là một tội ác rất lớn.
Thông thường người
đời không biết đây là một lối lừa gạt kẻ mê tín, cho là việc thực có mà không
liễu giải được chân tướng của nó, lại còn cho đó là sự việc trong Phật pháp.
Như thế, không thể không nói là một tai hại vô vọng ở trong Phật pháp (vô vọng
ở đây phản nghĩa với hư vọng; nghĩa có thật, rõ ràng trong thực tế, không phải
không có). Vì thế, người Phật tử chánh tín tuyệt đối không được đi cầu cơ. Nếu
mê tín cầu cơ để mong cầu danh dự, lợi dưỡng đều phạm căn bổn trọng tội.
Kinh Bồ Tát
Thiện Giới nói: “Nếu Bồ Tát được người tán thán là đã chứng đắc Thập Trụ, A La
Hán... mà yên lặng lãnh thọ, tức phạm căn bổn trọng tội. Nếu là người tăng
thượng mạn, tuy không có tâm dối gạt, nhưng cũng phạm tội khinh cấu, vì người
ấy chỉ sở đắc chút ít, đã tự cho mình là thật chứng!”
Người tăng thượng
mạn là thế nào?
Nghĩa là thông
thường chưa được mà nói được, chưa chứng mà nói chứng. Thật ra không phải người
tăng thượng mạn không có công phu tu hành, nhưng dụng công tu hành của họ vừa
hơi tương ứng chánh pháp, đã vội tự cho mình thật sự đã đắc pháp gì, hoặc chứng
quả vị gì... Tuy sanh khởi tâm tăng thượng mạn như vậy, nhưng nội tâm hoàn toàn
không phải cố ý muốn dối gạt người để cầu danh dự lợi dưỡng. Cho nên dù đối với
người nói được pháp gì, chứng quả vị gì... chỉ phạm tội khinh cấu, không phạm
căn bổn trọng tội.
Kết thành tội
vọng ngữ phải hội đủ bốn điều kiện: nhân, duyên, pháp, nghiệp như sau:
- Vọng ngữ nhân
(nhân vọng ngữ): do chủng tử tham lam từ vô thỉ trở lại dối gạt. Nay phát sanh
tâm muốn nói dối gạt người để mong được nhiều danh dự, lợi dưỡng. Ấy là nhân
vọng ngữ.
- Vọng ngữ duyên
(duyên vọng ngữ): người hiện đang ở trước mặt để dối gạt là cái duyên rất tốt,
hỗ trợ cho việc vọng ngữ. Hoặc dùng những phương tiện khác như nói, im lặng,
động, tịnh, qua, lại, đi, đứng, hiện oai nghi tề chỉnh... chứng tỏ mình là
người có thánh đức. Tất cả đều là duyên vọng ngữ.
- Vọng ngữ
pháp (cách thức vọng ngữ): Các pháp tắc dùng vận dụng lúc nói vọng ngữ. Có chỗ
giải thích pháp vọng ngữ là chỉ cho Thập Địa, Tứ Quả...
- Vọng ngữ
nghiệp (nghiệp vọng ngữ): do ba việc trên hợp lại thành tội vọng ngữ, có chỗ
giải thích là từ trong miệng thốt ra lời nói rõ ràng, khiến cho người đối diện lãnh
hội được, thế gọi là vọng ngữ.
Cho nên kết
thành tội vọng ngữ không phải là đơn giản, phải có đủ điều kiện hợp thành.
Chẳng những tội đại vọng ngữ như trên không nên tùy tiện nói bậy, mà các tội
vọng ngữ khác cũng không nên tùy ý muốn nói thế nào thì nói.
Vì thế, kinh dạy
tiếp theo: “Nãi chí bất ngôn kiến, kiến ngôn bất kiến, thân tâm vọng ngữ” (cho
đến không thấy nói thấy, thấy nói không thấy, thân tâm đều vọng ngữ). Những thứ
tiểu vọng ngữ này cũng không nên nói.
* Thế nào gọi là
không thấy nói thấy?
Như chính mình
chưa từng thấy người kia làm những việc không chính đáng hoặc tội ác. Như vì
mình đối với những người ấy có mặc cảm không tốt, hay có chút phiền hà trong
lòng, rồi tự đi nói: “Chính mắt tôi trông thấy người ấy làm những việc tội ác
như vậy...” Cố ý ghép người vào tội ác như thế, gọi là “không thấy nói
thấy”.
* Thế nào gọi là
thấy nói không thấy?
Như chính mình
thấy người ấy làm những việc thiện, hữu ích cho nhân quần, xã hội. Nhưng vì
mình đối với người ấy không có thiện cảm, hoặc bị tâm tật đố sai khiến, muốn che
đậy thiện hạnh của người mà moi móc tội ác của người, rồi tự đi nói: “Chính tôi
chưa từng thấy người ấy làm những việc gì tốt...” gọi là thấy nói không
thấy.
Ngoài việc đã
nói trên, còn có những thứ vọng ngữ khác như:
- Không nghe nói
nghe, nghe nói không nghe.
- Không giác nói
giác, giác nói không giác.
- Không biết nói
biết, biết nói không biết.
- Thật có nói là
không, thật không nói có.
- Pháp nói là
phi pháp, phi pháp nói là pháp...
Tóm lại, vọng
ngữ có rất nhiều, khi nào tương vi (trái với) tâm mà nói đều thuộc về vọng
ngữ.
Vọng ngữ là lời
nói không thật thốt ra từ nơi miệng, còn hành động của thân tâm biểu hiện như
thế nào mà thành vọng ngữ?
- Thân vọng ngữ:
như thân hành động hoặc biểu hiện một thái độ cho người biết một sự việc nào
đó. Chẳng hạn như có người hỏi bạn đã chứng được quả vị ấy hay chưa? Dù bạn
không nói nhưng gật đầu và người kia hiểu là bạn muốn nói là đã chứng.
- Tâm vọng ngữ:
lại như hỏi bạn tu hành đã đến mức thân tâm thanh tịnh phải không? Bạn không
đáp lại, nhưng vì muốn tỏ ra mình đã được thân tâm thanh tịnh, bạn yên lặng, đồng
nghĩa với sự thừa nhận và người trước mặt đã hiểu ý bạn.
Những loại như
vậy, do có tâm dối gạt biểu hiện ra những thân tướng, khiến người đối diện lãnh
hội dụng ý của mình. Dù không mở miệng một lời hay một câu nào, nhưng nghiệp vọng
ngữ đã kết thành. Trường hợp này gọi là thân vọng ngữ và tâm vọng ngữ.
Dù là đại hay
tiểu vọng ngữ, đúng lý mà nói, đều không thể tùy tiện nói bướng. Trên thực tế,
đại vọng ngữ không nhiều, tiểu vọng ngữ thì thật nhiều. Nhất là trường hợp giả
dối làm nhân chứng cho người ở thời này rất nhiều.
Chẳng hạn một
người vốn không trộm lấy đồ vật, nhưng bất hạnh cho anh khi đi đến nơi có người
bị trộm và nhân viên trị an đang lùng bắt kẻ trộm. Khi cảnh sát hỏi một người bên
cạnh: “Có phải người đang đi này trộm đồ vật hay không?” Người này chính là oan
gia đối đầu của người đi đường. Vì muốn trả thù cho hả dạ, tuy biết người này
không từng lấy trộm, nhưng cứ làm chứng bướng và quả quyết rằng chính người này
lấy trộm. Nên người đi đường bị bắt về bót, mang phải tai nạn thật nguy hiểm và
chịu đau khổ thảm não vô cùng. Trong Phật pháp, giả dối làm chứng cho người như
vậy là một tội ác rất lớn, không thể dung thứ.
Cho nên làm
người, đặc biệt là một hành giả Bồ Tát, chẳng những tự mình phải thường sanh
chánh ngữ, chánh kiến, không được lầm lộn nói phàm là thánh, hư vọng cho chánh
là tà, đồng thời cũng cần phải sanh chánh ngữ, chánh kiến cho tất cả chúng
sanh, mới tỏ rõ bổn hoài lợi sanh của Bồ Tát.
- Chánh ngữ: lời
nói chính xác, còn gọi là lời thành thật, không nói những lời hư vọng, không
chân thật, nên gọi là Chánh Ngữ.
- Chánh kiến: sự
kiến giải chính xác, là chủ trương kiên định bất di bất dịch. Với hành giả tu
học Phật pháp, mục đích duy nhất là tự mình mong cầu thoát ly sanh tử và làm
lợi ích cho tất cả chúng sanh. Có kiến giải như vậy gọi là Chánh Kiến.
Nếu hành giả tu
học Phật pháp mà mong cầu lợi dưỡng, tính toán mưu cầu quyền lợi, địa vị cho
chính mình, điều đó chứng tỏ tri kiến của bạn không thích đáng. Như thế, Chánh Ngữ
biểu hiện bên ngoài, Chánh Kiến súc tích bên trong, nên không bao giờ dám nói
phải thành trái, trắng thành đen, tà nói chánh, ác nói thiện, cho đến đem phàm
nhân nói thành thánh giả.
Tự mình thường
sanh chánh kiến, chánh ngữ là phần tư lợi, giúp người sanh chánh ngữ, chánh
kiến là lợi tha. Có đầy đủ tự lợi, lợi tha như thế mới đúng phong cách của một vị
Bồ Tát. Không thực hành đúng theo tinh thần chân chánh của một hành giả Bồ Tát,
trái lại còn khiến cho chúng sanh khởi sanh tà ngữ, tà kiến, tà nghiệp, lẽ tất
nhiên, Phật tử này phạm Bồ Tát Ba La Di tội.
Tại sao vậy?
Vì do tà kiến
sách động ở bên trong, tự nhiên thốt ra những tà ngôn vọng ngữ bất tam, bất tứ,
không việc gì ra việc gì, tạo ra tội ác tà nghiệp bên ngoài. Do hành vi tội ác tà
ngữ, tà nghiệp này sẽ chiêu cảm quả khổ đời vị lai.
Bồ Tát hóa độ
chúng sanh, chủ ý muốn cho chúng sanh xa lìa tất cả khổ não, được đến cảnh Niết
Bàn an vui. Nếu hiện tại đã không thể hiện được mục đích ấy, trái lại còn làm
cho tất cả chúng sanh phải chịu đại thống khổ thì không phải là hành vi nên có
của một vị Bồ Tát.
Một cử chỉ, một
việc làm, một lời nói của Bồ Tát đều phải làm gương mẫu cho chúng sanh biết và
noi theo. Nếu chính bản thân Bồ Tát có những hành vi trái phép, khiến những Phật
tử mới phát tâm cảm thấy hoang mang, mất chỗ nương tựa, không biết hướng về nơi
đâu để tiến tu. Như thế là “khi phàm dối thánh, mê hoặc nhân tâm”, trên thì
phạm tội với chư Phật, dưới thì lầm loạn chúng sanh, tội này trọng đại biết
chừng nào! Vì thế, nên phạm căn bổn trọng tội.
Cổ nhân Trung
Quốc nói: “Nhứt ngôn ngộ tận, thiên hạ thương sanh” (một lời nói nhầm lẫn có
thể làm khắp bá tánh thiên hạ bị tổn hại). Ý nghĩa này chứng tỏ sự trọng yếu
của lời nói mà đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni cùng các thánh triết trong thế gian
đều đã răn dạy chúng ta phải hết sức thận trọng.
Giới vọng ngữ
cũng có đủ Tam Tụ Tịnh Giới:
- Thân tâm không
vọng ngữ thuộc về Nhiếp Luật Nghi Giới.
- Thường sanh
chánh ngữ và chánh kiến thuộc về Nhiếp Thiện Pháp Giới.
- Khiến cho
chúng sanh có chánh ngữ và chánh kiến thuộc về Nhiếp Chúng Sanh Giới.
Vì thế nếu Bồ
Tát nói vọng ngữ thì với Tam Tụ Tịnh Giới hoàn toàn hủy phá. Vì thế, tư cách
của Bồ Tát cũng bị mất hẳn. Như vậy, Phật tử đã phát tâm tu Bồ Tát hạnh, lẽ nào
không nên thận trọng lời nói?
Vọng ngữ mà
thành trọng tội cũng không phải đơn thuần, mà phải có đủ 5 duyên, phân biệt sơ
lược như sau:
1. Thị chúng
sanh (là chúng sanh): phân làm 3 phẩm: