KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương III:
CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.2.1.3. DÂM GIỚI (giới dâm)
Kinh
văn:
1. Phiên
âm:
Từ câu “Nhược
Phật tử tự dâm, giáo dâm” cho đến câu: “Vô từ bi tâm dã thị Bồ Tát Ba La Di
tội”.
2. Dịch nghĩa:
Nếu Phật tử tự mình dâm dục, bảo người dâm dục với tất cả phụ nữ, các loài cái, loài mái, cho đến thiên nữ, quỷ nữ, thần nữ, cùng phi đạo mà hành dâm dưới mọi hình thức: nhân dâm dục, duyên dâm dục, cách thức dâm dục, nghiệp dâm dục. Là Phật tử, đối với tất cả mọi đối tượng trên, không được cố ý dâm dục và phải có lòng hiếu thuận, cứu độ tất cả chúng sanh, đem pháp thanh tịnh răn dạy người; trái lại, không có tâm từ bi, làm cho mọi người sanh việc dâm dục, không phân biệt súc sanh cho đến mẹ con, chị em trong lục thân cũng hành dâm. Phật tử này phạm Ba La Di tội.
Lời giảng:
Dâm tức là dâm
dục, nghĩa là giữa nam nữ có tâm ái nhiễm, đắm trước với nhau, tức là tâm tình
đối với sắc dục thiên trọng không thể xa lìa nên gọi là dâm sắc, là hoang
dâm.
Cổ thi Trung
Quốc có câu: “Nội tác sắc hoang, ngoại tác cầm hoang” (bên trong hoang mê theo
sắc dục, bên ngoài làm việc hoang mê theo cầm thú). Trong Phật pháp, dâm dục
gọi là “bất tịnh hạnh”, là do ái dục làm nhiễm ô nội tâm của chính mình, nên
gọi là “bất tịnh”; bằng những việc làm phi pháp, giới phẩm thanh tịnh, gọi là
“hạnh”, bị nhiễm ô; còn gọi là “phi phạm hạnh”.
Người tu học
Phật pháp phải tu diệu hạnh thanh tịnh, nhưng vì làm việc giao cấu ô uế, bỉ ổi,
hư lậu thật đáng hổ thẹn nên gọi là “phi phạm hạnh” vậy.
Người làm việc
phi phạm hạnh, bên trong làm nhơ thể tánh của mình, bên ngoài làm nhơ bẩn tâm
địa của người khác. Trong kinh thường nói dâm dục là chánh nhân sanh tử, cội
gốc luân hồi. Tại sao vậy?
Vì cội gốc dâm
dục không đoạn trừ vĩnh viễn, không mong gì thoát ly sanh tử luân hồi. Kinh
Lăng Nghiêm dạy: “Dâm tâm bất trừ, trần bất khả xuất. Túng hữu đa trí, thiền
định hiện tiền, như bất đoạn dâm, tất lạc ma đạo” (tâm dâm dục không đoạn trừ,
không dễ gì ra khỏi trần lao. Dù có đa trí thiền định ngay hiện tại, dâm dục
không đoạn tuyệt, chắc chắn lạc vào ma đạo).
Theo kinh dạy
trên, chúng ta thấy đối với người tu học Phật pháp, vấn đề dâm dục rất trọng
đại. Những ai không muốn lặn ngụp trong bể dục, nổi chìm trong sông ái, cần
phải làm thế nào đoạn trừ dâm dục cho kỳ được. Đây là công phu đứng đầu.
Có người cho
rằng quan hệ nam nữ chỉ có song phương đồng ý với nhau, ngoài ra không làm tổn
hại đến người khác, không làm não loạn chúng sanh, tại sao lại xem dâm dục quá quan
trọng đến như vậy?
Nên biết, việc
dâm dục nếu chưa bị tiêm nhiễm thì thôi, khi đã bị tiêm nhiễm rồi thì bị nó
trói cột rất chặt. Chừng ấy muốn thoát ly nó, hoặc muốn cắt đứt dây ái dục,
thật không phải đơn giản, nên Đại Trí Độ Luận của tổ Long Thọ dạy: “Dâm dục tuy
bất não chúng sanh, hệ phược cố vi đại tội” (dâm dục dù không não hại chúng
sanh, nhưng có sức trói cột, nên tội ác rất lớn).
Ví như lao ngục
ở thế gian, vì sợ tù nhân chạy trốn nên bắt mỗi người phải mang gông vào cổ,
lấy xiềng sắt còng tay chân lại. Nhưng đối với lao ngục sanh tử trong tam giới,
gông cùm, xiềng xích tròng trói chúng sanh lại chính là ái dục vô hình.
Tất cả hữu tình
bị dây ái trói cột rất chắc chắn, muốn thoát ly lao ngục tam giới rất là khó.
Càng rất khó! Nên trong nhiều kinh, Đức Phật cực lực quở trách việc dâm dục
không chỗ nào sót.
Trong kinh có
nói: Vào thời quá khứ có vị tiên nhân đã đắc ngũ thông, dùng thần thông bay vào
cung vua. Các cung nga, thể nữ xúm nhau lễ bái, rờ rẫm, vuốt ve. Lúc ấy tiên
nhân khởi sanh tâm dục nhiễm khiến thần thông tự nhiên tiêu mất. Vì không thể
dùng thần túc thông bay ra khỏi vương cung, tiên nhân phải đi bộ từng bước trở
về thâm sơn, cùng cốc.
Chúng ta thử
nghĩ tai họa của dâm dục lớn biết chừng nào! Nên trong luật Tăng Kỳ nói: “Khả
úy chi thậm vô quá nữ nhân, bại chánh hoại đức mạc bất do chi!” Nghĩa là: Những
việc đáng sợ nhất không gì hơn người nữ; chánh pháp bại hoại, đạo đức suy đồi,
tất cả đều do nơi người nữ. Nếu không tin hãy xem trên thế gian này nhiều việc
thương phong bại đức, đâu có việc nào chẳng do nữ nhân mà ra.
Cho nên dù là
một chánh nhân quân tử hay dù là một cao tăng đạo đức đến độ nào, nếu nội tâm
chưa ly dục, một mai bị nữ nhân cột trói rồi, chánh nhân quân tử có thể thành
hư ngụy tiểu nhân, cao tăng đạo đức có thể thành phá giới tỳ kheo. Nữ nhân thế
đấy, không đáng ghê sợ hay sao?
Kinh Chánh Pháp
Niệm Xứ đối với vấn đề này lại càng kêu gọi thống thiết:
Thế gian nan đắc
khổ,
Giai do ư nữ
phụ.
Phi thiểu, phi
trung niên,
Mạc bất do thử
nhân.
Nữ nhân hoại thế
gian
Linh thiện tất
diệt tận.
Thiên trung đại
hệ phược,
Mạc quá ư nữ
sắc.
Nữ nhân phược
chư thiên,
Tương chí tam ác
đạo.
Dịch:
Đều do bởi nơi
phụ nữ,
Không luận thiếu
niên hay trung niên,
Không ai chẳng
do nguyên nhân này.
Nữ nhân phá hoại
thế gian,
Làm cho thiện
pháp tiêu diệt hết.
Triền phược lớn
nhất ở thiên giới.
Không có gì hơn
là nữ sắc,
Nữ nhân trói cột
hàng chư Thiên,
Dẫn dắt đi vào
tam ác đạo.
Tai hại của nữ
nhân là một thứ cực trọng, lời kinh dạy ở trên có thể nói đã thổ lộ tường tận.
Kinh Tạp A Hàm, quyển 36 cũng nói: “Nữ nhân phạm hạnh cấu, nữ tắc lụy thế gian”
(người nữ làm nhơ phạm hạnh, người nữ làm lụy thế gian).
Tất cả tội ác
tánh dục đều đem đổ cho nữ giới. Nếu nói nghiêm cẩn hơn, việc dâm dục đâu phải
là thứ nhu yếu đơn phương của nữ giới? Tất cả nam giới chưa ly dục, đối với vấn
đề này lại không phải là một thứ nhu cầu đồng như nữ giới hay sao? Tại sao
trong kinh phần nhiều chỉ chuyên quở trách nữ sắc?
Vấn đề này trong
bộ Phật Pháp Khái Luận của Ấn Thuận Luật Sư có nói: “Vì Phật pháp phần nhiều là
vì tỳ kheo mà Phật thuyết pháp, cho nên tánh dục đối với nam nữ, thiên trọng
quở trách nữ sắc”.
Lại nói tiếp:
“Kỳ thật, nếu Đức Phật vì nữ chúng thuyết pháp thì lại dạy là ‘nam nhân phạm
hạnh cấu, nam tắc lụy thế gian’.
Cả nam lẫn nữ
đối với vấn đề dâm dục này đều có tâm tiêm nhiễm đắm say. Nên bao nhiêu tội ác
có quan hệ đến tính dục, cả nam lẫn nữ phải cùng gánh trách nhiệm, không thể
hoàn toàn quy lỗi về cho nữ chúng một cách đơn phương”.
Vì thế cả nam
lẫn nữ, đối với sự sinh hoạt dâm dục đều phải tiết chế hoàn toàn, cho đến tuyệt
đối đoạn tuyệt, không nên túng tình phóng đãng.
Nếu dâm dục vô
độ, buông lung, chẳng những tự mình gặp nhiều việc khó khăn, lại phá hoại tín
tâm của người đối với mình, đồng thời gây ra việc hủy báng cho nhiều người. Dĩ
nhiên là tự mình bất lợi trước nhất.
Trên đây là nói
riêng về Phật tử tại gia, vì với kẻ xuất gia thì hoàn toàn đoạn tuyệt dâm dục
nên không đề cập. Cổ đức dạy: “Một người hành dâm có thể hủy hoại thế gian, cho
đến các chú thuật và việc hòa hợp các phương thuốc chế luyện cũng không thành.
Lại có thể hủy hoại tất cả giới hạnh, thiền định, giải thoát và tất cả thiện
căn xuất thế của tam thừa”.
Luận Du Già nói:
“
- Tợ lạc thật
khổ (tợ hồ vui nhưng thực sự là khổ): Nam nữ ở đời vì sao đều ưa thích việc ái
dục? Vì đều lầm cho ái dục là đại lạc của nhân sinh. Đối với Phật pháp, việc
nhiễm dục tợ hồ vui, nhưng sự thực là khổ não, hoàn toàn khổ chứ không
vui.
Giống như một
người mắc bệnh ghẻ ngứa hay lác. Lúc quá ngứa ngáy khó chịu, phải cào gãi không
ngớt thật là khổ não, nhưng người ấy cảm thấy khoái lạc, dễ chịu. Với người không
mắc bệnh, thấy kẻ ấy cào gãi, chẳng những không cho là vui, lại nhận là rất
khổ.
Cũng thế, người
đã ly dục thấy tính dục giữa nam nữ hoàn toàn khổ chứ chẳng vui. Sự khoái lạc
của dâm dục thực sự không phải vui, tính nó hoàn toàn hư ngụy. Nhưng nó có một
sức mạnh, có khả năng dối gạt, mê hoặc chúng sanh, khiến chúng sanh tự động
tiến vào ái dục như con phi nga (thiêu thân) gieo mình vào lửa, để rồi bị lửa
thiêu thân.
Đại Trí Độ Luận
nói: “Xưa kia có một dâm nữ đến trong miễu Thiên Thần hẹn hò với một nam nhân;
nhưng nam nhân ấy không đến. Dâm nữ không được toại ý, lửa dục bồng bột bèn đốt
cháy cả miễu Thiên Thần”. Như thế không lạ gì thế nhân bị lửa dục thiêu đốt, tất
cả đều không nghĩ tưởng đến sự tác hại, chỉ tìm cầu ái dục cho kỳ được, quyết không
thôi. Quả thật đó là lấy lửa tự thiêu đốt mình, không một chút gì tốt đẹp, cho
nên cổ đức nói:
Sĩ đao nhân chi
mật,
Tham độc hoa chi
sắc,
Tổn hại chư
chúng sanh
Thị ma chi ý
nguyện.
Dịch:
Liếm chút mật
trên dao bén,
Tham sắc đẹp của
hoa độc,
Làm tổn hại
chúng sanh,
Đấy là ý nguyện
của ma.
Sắc dục mới xem
qua dường như rất đẹp, nhưng đụng đến không được vì trong ấy có chất độc. Nếu
động đến nó, chắc chắn bị chất độc làm hại, có thể táng thân mất mạng, nên nói
tợ hồ vui nhưng thật sự là khổ.
- Tợ vị thật tai
(tợ hồ thú vị nhưng thật sự là tai nạn): Thông thường thế nhân đối với việc dâm
dục đều cảm thấy thú vị vô hạn. Một thứ tư vị rất nồng nàn. Nhưng trong Phật
pháp lại thấy dâm dục là một thứ rất nhiều tai hại, hoàn toàn không thú
vị.
Trong kinh nêu
một thí dụ: Những La Sát nữ lúc mới gặp người liền thân thiết vô cùng. Sau khi
đã thân cận với người, nó liền ăn tươi nuốt sống người ấy.
Như vậy thử hỏi
đối với người, La Sát nữ có thú vị gì? Là những kẻ oan gia đối đầu muốn đến hại
chúng ta, nên tỏ ra vô cùng thân thiết, thương mến chúng ta, để chúng ta không
đề phòng; đến lúc chúng ta lọt vào trong vòng của họ rồi, khi phát giác được
thì chúng ta đã bị họ làm hại rồi. Lúc bấy giờ, không có phương chi cứu vãn
được nữa...
Nên biết tai hại
của dâm dục như thế. Thường đối với những người có sức cám dỗ, mê hoặc, người
khác rất ưa thích vì thấy nơi đó thú vị vô cùng. Nhưng đến lúc người đã thật
tiêm nhiễm nó rồi thì tán thân hoại thể. Đây cũng chỉ là việc nhỏ. Việc lớn lao
là bị nó đoạn tuyệt Pháp Thân huệ mạng, chẳng những làm chướng ngại khiến người
không đến được cảnh an lạc Niết Bàn, lại còn chịu vô lượng sự thống khổ. Nên
kinh Bồ Tát Tạng, quyển 10, nói:
Tập cận dục
thời,
Vô ác bất
tạo;
Thọ bỉ quả
thời,
Vô khổ bất
thọ.
Dịch:
Trong khi gần ái
dục,
Không tội ác nào
chẳng tạo tác.
Đến khi thọ quả
báo của ái dục,
Không thống khổ
nào chẳng lãnh thọ.
Hay:
Trong khi ái dục
cận kề,
Bao nhiêu tội ác
chẳng nề tạo gây.
Đến khi quả báo
đã đầy,
Làm sao thoát
khỏi trùng vây khổ sầu.
Hoặc:
Ái hà dục
hải,
Phiêu nịch vô
ngạn,
Tứ sanh chi
ba,
Trường lưu bất
tuyệt,
Nhất thiết oán
hại,
Giai tùng dục
sanh.
Dịch:
Sông ái biển
dục,
Nổi chìm không
bờ,
Sóng lớp sanh
tử,
Chảy hoài chẳng
dứt,
Tất cả oán
hại,
Đều từ dục
sanh.
Hay:
Sông biển mênh
mông ái dục đầy,
Bến bờ chìm nổi
ngút chân mây,
Tử sinh lớp lớp
không ngừng nghỉ,
Oán hại đều nơi
ái dục này.
Chúng sanh ở
trong đêm dài sanh tử thường cảm thọ những nỗi thống khổ biệt ly, không phải
đều do dâm dục mà ra hay sao? Vì thế, nói dâm dục tựa hồ thú vị mà thật ra
nhiều tai nạn.
- Tợ tịnh thật
uế (tợ hồ sạch sẽ, nhưng thật sự ô uế): Nhục thân của chúng sanh tất cả đều
toàn là những thứ bất tịnh. Dù cho tắm hết nước trong bể cả cũng không thanh
tịnh được mảy may. Vì sanh mạng nhục thể là do bao nhiêu xương thịt hợp thành,
bên ngoài bọc một lớp da mỏng, bên trong là huyết nhục, đại tiện, tiểu tiện...
nhơ bẩn không kham nổi.
Nếu lột lớp da
mỏng ra thì thật hôi thối không thể chịu được. Còn ở các miền nhiệt đới, nếu
một ngày không tắm gội thì thân thể có mùi khó chịu vô cùng. Việc này ai cũng
biết, nhưng mọi người đều dễ bị lớp ngụy trang bên ngoài giả hiện dường như
thanh tịnh dối gạt, khiến những hạng tầm thường thích ưa nhục thể thối hôi, nhơ
bẩn này, tâm không chút nhàm chán. Đấy không phải là chúng sanh quá điên đảo là
gì?
Vấn đề này trong
kinh thường nêu thí dụ: như các con heo người đời nuôi dưỡng, suốt ngày đêm
chúng lăn lóc trong bùn sình, phẩn tiểu bất tịnh, nhìn thấy rất dơ bẩn. Nhưng
những con heo kia tâm chúng lại rất ưa thích, ở mãi trong ấy. Nếu có người muốn
dắt chúng ra, chúng lại không ưa thích. Nên có bài tụng này:
Nhục thân tuy
bất tịnh,
Tợ tịnh cuống
ngu phu.
Nhạo uế nhi vô
yểm,
Tợ trư nhạo ứ
uế.
Dịch:
Với nhục thân
này dù bất tịnh,
Tợ hồ thanh tịnh
gạt kẻ ngu,
Ưa thích nhơ bẩn
không biết chán,
Nào khác loài
heo thích bùn sình.
Nhất là nữ giới
vì muốn dối gạt, cám dỗ nam nhân nên trang điểm dung nhan, lại còn dùng nước
thơm thoa xức, khiến người ta sa vào lưới ái tình. Khi đã vướng vào lưới rồi,
thì không phương gì xé rách để thoát ly. Nên trong Đại Trí Độ Luận, tổ Long Thọ
nói:
Xảo sát nhân
ý,
Nữ nhân vi
trí.
Dịch:
Khôn khéo quan
sát tâm ý của người,
Ấy là mưu trí
của người nữ.
Ở lãnh vực này,
quả thật nữ giới có khả năng; nhưng nếu có thể quán thân bất tịnh, dù thấy mỹ
nhân dường như thiên nữ hay tiên nữ, cũng không bao giờ sanh khởi dục
niệm.
Đức Phật dạy: “Nếu
là một Phật tử đã thọ giới Bồ Tát rồi, bất luận là tự dâm hay giáo nhơn dâm đều
vi phạm Luật Nghi Giới của Bồ Tát”.
Điều ấy lược
giải như sau:
* Tự dâm: tự
thân mình làm hạnh ô uế, tức sự giao cấu nam nữ, quyến luyến triền trược lẫn
nhau.
* Giới nhơn dâm:
bảo người làm hạnh ô uế, khiến sa vào lưới ái tình, không thể nào giải thoát.
Việc tự dâm và giáo nhơn dâm ở Đại Thừa và Tiểu Thừa giải thích có những điểm
bất đồng.
Thanh Văn thừa
cho rằng: tự dâm phạm căn bổn trọng tội mà thành nghiệp đạo. Theo pháp Bồ Tát
thì chẳng những tự dâm mà cả giáo nhơn dâm đều phạm căn bổn trọng tội mà thành nghiệp
đạo.
Vì vậy, Phật
giáo Đại Thừa quan niệm tự mình hay bảo người khác làm tội vẫn đồng nhau, không
có sự sai khác khinh - trọng. Vì Bồ Tát hành Bồ Tát hạnh, hóa độ chúng sanh, phải
đem pháp thanh tịnh dạy bảo, dẫn dắt chúng sanh, khiến chúng sanh đi trên con
đường thanh tịnh, mới là hợp đạo lý, đâu nên bảo người làm hạnh bất tịnh? Nếu
bảo người làm hạnh ô uế, khiến chúng sanh chìm đắm trong sông ái, dĩ nhiên phạm
giới luật nghi của Bồ Tát.
Câu “nãi chí
nhất thiết nữ nhân bất đắc cố dâm” là nói đối với tất cả phụ nữ, không luận
sang, hèn, già, trẻ, lớn, nhỏ; bất luận xấu, đẹp, thân, sơ, chủ yếu là nữ nhân
thì không được cố ý cùng họ hành dâm. Đối với hai chúng tại gia và xuất gia có
sự sai khác. Chúng xuất gia tuyệt đối cấm chỉ hành dâm. Chúng tại gia thì chỉ
được chánh dâm, không được tà dâm.
Trong bộ Thành
Phật Chi Đạo, Ấn Thuận Luật Sư thuyết minh:
“Nếu nam nữ đồng
ý được cha mẹ cùng người bảo hộ đồng ý, không trái với luật pháp quốc gia và
trải qua hôn lễ, kết thành phu phụ. Đây là chánh dâm, là yếu tố tổ hợp thành
tựu gia đình, là việc cần yếu để có con cháu nối giòng, là việc chánh đáng
không tội.
Trái lại, nam nữ
Phật tử tại gia dù hai bên đồng ý, mà trong Phật pháp cấm ngăn (lúc thọ Bát
Quan Trai Giới), hay luật pháp quốc gia không cho phép, hoặc thân nhân cùng
người bảo hộ không đồng ý, đều thuộc về tà dâm. Cần phải ngăn cấm! Việc ấy là
ác hạnh, phá hoại sự hòa vui trong gia đình, nhiễu loạn trật tự của xã
hội”.
Tiếp theo xin
giải thích câu “không được cố ý dâm dục”. Chữ “cố” không phải là trường hợp bị
sự cưỡng bức của kẻ bạo lực, cũng không phải vô tâm làm hạnh bất tịnh, mà là
hữu ý khởi tâm làm việc ấy. Nghĩa là sự hành dâm không phải do vô tình, lầm lỡ;
vì hữu ý dĩ nhiên không phải là lầm lỡ. Trường hợp gặp phải nạn duyên đặc biệt,
bị sự cưỡng bức của kẻ ác, tự mình không tự chủ được nên bị người làm hạnh
nhiễm ô. Trường hợp này không thể nói là “cố ý dâm dục”.
Nhưng cần phân
biệt là trong trường hợp bị cưỡng bức như thế, nếu nội tâm hoàn toàn không chút
ưa thích thì không phạm tội. Trong Luật dạy, khi bị người cưỡng bức mà không có
ý ưa thích là thế nào?
Là lúc ấy cảm
thấy như bị người dùng sắt nóng nung vào thân, không có một niệm ưa thích. Nếu
lúc ấy có một niệm ưa thích là phạm tội. “Có niệm ưa thích” là thế nào? Là như
đói được thức ăn, khát gặp nước uống. Cho nên trong Phật pháp, trường hợp bị
cưỡng bức này phân tách rất nghiêm cẩn, chu đáo.
Ở đây, có người
nêu lên một vấn đề để đàm luận: nước Ấn Độ có nói đến việc dùng bùa chú để dâm
dục, như trường hợp Ma Đăng Già nữ niệm chú Tiên Phạm thiên để nhiếp lấy A Nan
tôn giả. Tôn Giả nhờ vào sự cứu hộ của đức Phật mà giữ gìn giới thân được thanh
tịnh. Nhưng nếu Ma Đăng Già nữ nhiếp lấy chúng sanh khác thì không thể không
hoàn thành dâm sự. Tại sao trong kinh đây không cấm chế?
Phải biết dâm
dục tiến hành là ý muốn của song phương, không có gì trở ngại, nên đâu cần gì
phải dùng chú thuật mới thành tựu việc ưa thích? Nên trong kinh, đối với việc
dùng bùa chú dâm dục được bỏ qua, không nói đến.
Dâm dục sở dĩ
trở thành việc dâm dục không phải là việc đơn giản, cần phải hội đủ bốn điều
kiện: nhân, duyên, pháp, nghiệp mới thành tựu việc dâm dục. Bốn điều kiện ấy
lược giảng như sau:
- Dâm nhân (nhân
dâm dục): tập khí, chủng tử tham nhiễm dâm dục có sẵn trong tạng thức từ vô thỉ
trở lại. Do đó, hiện tại mới danh khởi tâm niệm dâm dục. Ấy gọi là dâm
nhân.
- Dâm duyên
(duyên dâm dục): sau khi sanh khởi một niệm dâm dục, tâm niệm ấy tương tục không
gián đoạn. Bấy giờ, đối với đối phương lưu tâm liếc ngó, đi theo gần gũi, dùng
nhiều cách cho thành việc gặp gỡ giữa nam nữ. Đấy gọi là dâm duyên.
- Dâm pháp (cách
thức dâm dục): khi hai bên tiếp cận nhau, có những thái độ luyến ái với nhau,
như má tựa, vai kề, lại tán thán thuật ái tình cùng với tác dụng, phương tiện, tư
cụ, pháp tắc... Đấy gọi là dâm pháp.
- Dâm nghiệp
(nghiệp dâm dục): do ba điều kiện nhân, duyên, pháp hòa hợp. Bấy giờ, tùy ý
khiến hai căn của đôi bên giao tiếp. Bất luận có xuất tinh hay không, chủ yếu
là sự tiếp xúc, tiến vào chừng như hạt mè để thành tựu việc dâm dục. Đấy là dâm
nghiệp.
Như giới sát
sanh, trộm cắp, việc hành dâm cũng đủ ba chướng:
- Sanh khởi một
tâm niệm ham muốn dâm dục là phiền não chướng.
- Thành tựu sự
ưa muốn của việc dâm dục là nghiệp chướng.
- Chiêu cảm lấy
quả khổ trong luân hồi sanh tử là báo chướng.
Như trước đã
nói, dâm dục là chánh nhân sanh tử, là cội gốc của luân hồi. Người tu học Phật
pháp, bất luận tại gia hay xuất gia, muốn thoát ly sanh tử luân hồi, điều kiện tối
yếu là cần phải đoạn trừ dâm dục. Nếu không đoạn trừ dâm dục thì ước muốn siêu
thoát luân hồi là chuyện vô hy vọng.
Nói một cách
nghiêm khắc hơn, chẳng những với nữ nhân trong nhân đạo, mà là đối với tất cả
giống nữ, không được sanh khởi nhiễm tâm cùng với họ hành hạnh bất tịnh, nên kinh
dạy: “Nãi chí súc sanh nữ, chư thiên nữ, quỷ thần nữ, cập phi đạo hành dâm”
(cho đến các loài cái, loài mái, thiên nữ, quỷ nữ, thần nữ cùng phi đạo mà hành
dâm). Nếu có hành vi ấy đều là phạm trọng tội.
Việc hành dâm
giữa người và súc sanh cái tuy ít thấy, nhưng không phải là không có. Kinh Lăng
Già nói: Xưa kia có một vị quốc vương vào rừng săn bắn, ngựa sợ rong chạy vào
rừng sâu. Bấy giờ, quốc vương gặp một sư tử cái, bèn cùng với sư tử làm hạnh
bất tịnh, sau sanh ra con.
Theo trên, chứng
tỏ trên thế gian này đã từng có những việc như vậy. Vì muốn ngăn chặn nhân vi
tế dần đi đến sự thật, Đức Phật đặc biệt chế định điều này để tránh việc phi
pháp như vậy phát sanh.
Lại như chư
thiên nữ, quỷ nữ, thần nữ, những nữ tử này vốn không phải là kẻ hành dâm của
thế nhân, chẳng qua có khi các nữ nhân ấy hóa hiện thân người, nên người đời
không biết là nữ của chư thiên và quỷ thần nên mới cùng họ sanh phát ái
nhiễm.
Tuy không phải
là việc thông thường, nhưng đều không được đối với thiên nữ, quỷ thần nữ hành
dâm. Với người thế tục, thông thường việc hành dâm chánh thức giữa nam nữ nơi
hai căn kết hợp, ấy là chánh dâm. Nếu về phi đạo hành dâm đều gọi là tà
dâm.
Kinh Thiện Sanh
nói: “Nếu ở phi thời, phi xứ, phi nữ, xử nữ, tha phụ, hoặc tự thân mình đều gọi
là hạnh tà dâm” vì những thứ hành dâm trên đây đều không thuận với đạo lý thế
gian, lại trái với tự nhiên tính, nên gọi là phi đạo.
Thế nào gọi là
phi thời?
Như hành dâm lúc
ban ngày, hoặc ngày lục trai trong mỗi tháng, ba tháng trường trai trong một
năm, hoặc thê thiếp trong khi có thai nghén hay sau thời gian sanh sản, hoặc
lúc con còn bú, lúc có kinh nguyệt... đều không phải là lúc hành dâm. Nếu hành
dâm tức phạm tà dâm.