KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương
III: CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT
THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.2.2. BIỆT
THUYẾT KHINH GIỚI
(riêng giảng các giới khinh)
B.2.2.4. THỰC NGŨ TÂN GIỚI
(giới ăn món gia
vị cay đắng)
Kinh văn:
1. Phiên âm:
Từ câu “nhược Phật tử giả bất đắc thực ngũ tân” cho đến câu “...nhược cố thực giả, phạm khinh cấu tội”.
2. Dịch nghĩa:
Nếu là Phật tử thì không được ăn năm loại gia vị tanh nồng là hành, hẹ, tỏi, nén và hưng cừ. Năm loại này nếu bỏ vào trong tất cả các thứ thực phẩm thì đều không nên ăn. Nếu cố tình ăn thì Phật tử này phạm khinh cấu tội.
Lời giảng:
Ăn thịt
là làm thương hại sinh mạng chúng sanh. Hàng Phật tử trưởng dưỡng tâm từ bi,
đương nhiên không được ăn. Tại sao Ngũ Tân là loài thực vật, không hại đến sinh
mạng của chúng sanh, nhưng vì sao Phật tử không được ăn?
Điểm chủ yếu
chính là mùi vị hôi nồng của nó rất khó chịu. Những người sống chung trong một
tập thể, nếu ai cũng ăn nhằm loại cay hôi này thì tự nhiên họ không cảm thấy
khó chịu.
Nho thi có
câu: “Ở lâu trong chỗ hôi thối sẽ không còn nghe mùi hôi thối”. Vì thế, nếu
đông người cùng sống với nhau như vậy thì dường như không có điều gì chướng
ngại. Trái lại, nếu trong tập thể ấy, chỉ có một hay thiểu số người ăn Ngũ Tân,
những người khác khi ngửi thấy mùi vị của nó sẽ cảm thấy kỳ lạ khó chịu, thậm
chí hơi cay nồng của ngũ tân đôi lúc làm cho họ bị nôn mửa.
Cho nên, muốn
giữ sự hòa vui trong tập thể, muốn cho đa số người chung sống không cảm thấy
khó chịu, Đức Phật đặc biệt chế định ra điều giới này.
Trong các thứ
rau, cổ đức phân ra làm bốn loại như sau:
- Có thứ hôi mà
không cay như A Hùng.
- Có thứ cay mà
không như gừng.
- Có thứ vừa cay
lại vừa hôi như ngũ tân.
- Có thứ chẳng
cay, chẳng hôi như ngũ cốc, rau cải v.v...
Trong bốn loại
trên, Phật tử không được ăn các loại trong nhóm ngũ tân vừa cay vừa hôi.
Ngoài mùi vị khó
chịu của nó, nó còn có nguyên nhân khác như trong kinh Lăng Nghiêm Đức Phật
dạy: “Năm thứ rau cay nồng này ăn chín thì phát sanh dâm niệm; ăn sống thì tăng
trưởng lòng sân hận”.
Vì sao ăn chín
lại phát sanh dâm niệm?
Vì ngũ tân có
tác dụng làm cho can hỏa vượng, nên dâm niệm phát sanh.
Vì sao ăn sống
lại tăng trưởng sân hận?
Vì ngũ tân làm
động can khí nên sân hận dễ phát sanh.
Đức Phật biết rõ
ngũ tân có tác dụng tai hại rất lớn như vậy, nên Ngài đặc biệt ngăn cấm cả Đại
Thừa lẫn Tiểu Thừa đều không được ăn.
Về các loại
trong ngũ tân, nhiều kinh luật nói không giống nhau. Nhưng đa số nói: hành,
tỏi, hẹ, kiệu, hưng cừ. Trong kinh Phạm Võng này gọi là Đại Toán, Cát Thông, Từ
Thông, Lan Thông, Hưng Cừ.
1. Đại Toán: còn
gọi là Hồ Thông. Tương truyền rằng, xưa ở Trung Hoa không có Đại Toán (củ tỏi
lớn), đến triều Hán, ông Trương Kiên đi sứ nước Đại Uyển rồi đem từ nước Hồ về
(là thứ tỏi hiện nay). Theo bộ Bổn Thảo (bộ sách nói về các loại thực vật), thì
Hồ Thông (một loại hành ở nước Hồ) có điểm giống với loại hành người ta thường
ăn. Cọng lá của nó nhỏ mà ngắn như Kim Đăng, lại giống như Đại Toán, nhưng hình
dáng nhỏ hơn một chút.
2. Cát
Thông: tức là hành, còn gọi là Sơn Thông, vì mọc ở vùng núi non và đầm lầy.
Cọng nhỏ, lá lớn, nên cũng gọi là Cát Sơn Thông, có thể dùng làm thuốc. Có chỗ
nói rằng: Cát Thông là rau củ kiệu.
3. Từ Thông: còn
gọi là Củ Thông, vì cọng lá của nó rất nhỏ và mềm mại, mùa Xuân mọc rất nhiều,
sang đến Hạ, Thu, Đông thì tàn lụi.
4. Lan Thông:
còn gọi là Giả Sanh, là một thứ Tiểu Toán (tỏi nhỏ), có chỗ nói là lá hẹ. Lá
của nó hẹp và dài, nhỏ. Ngoài ra còn có nhiều loại khác như Mộc Thông, Đại
Quang Thông, Thủy Thông, Đông Thông, Hán Thông, Lâu Thông, Long Giác Thông,
hoặc Long Trảo Thông (vì lá nó có tám khía giống như sừng hoặc móng con
rồng).
5. Hưng Cừ: ở
Trung Hoa không có thứ này, chúng thường mọc ở vùng Bắc Ấn Độ và nước Y Lan. Đó
là loại thảo mộc sống nhiều năm, cao độ hai, ba thước. Gốc của nó giống như củ
cải.
Mới mọc khỏi đất
bùn nó đã có hơi cay hôi. Để sống hay nấu chín mùi vị rất nồng nặc. Mùa Đông,
bông lá đều rụi, có thể dùng làm thuốc. Lá nó giống như Vũ Tinh (trong tự điển
gọi là rau cải thìa).
Bộ Huyền Ứng Âm
Nghĩa nói: “Hưng cừ nước của nó giống như mủ cây đào. Người trong hai nước Y
Lan và Bắc Ấn rất thích ăn” (Đoạn này đối với những đại sĩ không đọc bổn Hán
văn thì thấy dài dòng khó hiểu, vì bổn Việt văn chỉ nói: hành, hẹ, tỏi, nén,
hưng cừ. Nhưng sở dĩ phần giải thích này dịch giả phải dài dòng như vậy vì y
theo các danh từ trong bổn Hán văn).
Đức Phật lại đối
với đại chúng dạy rằng: “Nếu là một Phật tử đã thọ Bồ Tát giới, tuyệt đối chẳng
được ăn loại ngũ tân”. Ngũ tân: đại toán, cát thông, từ thông, lan thông, hưng
cừ.
Loại ngũ tân này
chẳng những không nên ăn riêng, mà “gia vào trong tất cả các thứ thực phẩm cũng
đều không được ăn”.
Chẳng hạn như
đem tỏi bỏ vào trong rau cải khác mà nấu, hoặc dùng hành xào với đậu hũ v.v...
đều không được ăn.
Tại vì sao? Như
trong kinh dạy: “Nếu Phật tử ăn ngũ vị tân thì phạm tội uế trược ngôi Tam Bảo.
Sau khi xả thân bị đọa vào địa ngục Thủy Phẩn”.
Bộ Khảo Tín Lục
quyển hai, trích dẫn trong kinh Tạp A Hàm nói: “Tội nhân trong địa ngục này,
lúc làm người ăn ngũ tân, làm nhơ uế ngôi Tam Bảo, khi thoát khỏi địa ngục,
phải bị đọa vào súc sanh làm chồn rừng, chó, heo v.v... Khi chuyển sanh làm
người, thân thể tanh hôi, mọi người đều nhờm gớm”.
Ăn ngũ tân có
tai hại lớn như vậy, nhưng đa số Phật tử tu học Phật pháp, vì không hiểu rõ tội
ăn ngũ tân rất sâu nặng nên thường thích ăn ngũ tân cho ngon miệng. Hậu quả thật
đáng sợ!
Vì thế, ở bất cứ
trường hợp nào, là Phật tử xuất gia lẫn tại gia, đều không ăn ngũ tân. “Nếu cố
ý ăn, Phật tử này phạm khinh cấu tội”.
Trong kinh Lăng
Già, Đại Huệ Bồ Tát thỉnh vấn Đức Phật rằng:
“Rượu, thịt cùng
hành tỏi v.v... nếu uống ăn thì như thế nào? Cúi xin Thế Tôn vì chúng con chỉ
dạy tội phước của sự ăn và không ăn”.
Đức Phật dùng kệ
đáp rằng:
“Thịt và hành,
hẹ, tỏi...
Những thứ rượu
buông lung,
Người tu nên xa
lánh,
Uống ăn sanh
buông lung
Buông lung sanh
tà giác,
Tà giác sanh
tham dục,
Tham dục tâm si
mê,
Si mê sanh ái
dục.
Không thoát khỏi
sanh tử,
Rượu, thịt,
hành, hẹ, tỏi,
Đều là chướng
Thánh Đạo.