KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương
III: CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT
THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.2.2. BIỆT
THUYẾT KHINH GIỚI
(riêng giảng các giới khinh)
B.2.2.22. KIÊU MẠN BẤT THỈNH PHÁP GIỚI
(Giới kiêu mạn
không thỉnh pháp)
Kinh văn
1. Phiên âm:
Từ câu “nhược Phật tử sơ thỉ xuất gia...” cho đến câu “...phạm khinh cấu tội”.
2. Dịch nghĩa:
Nếu Phật tử mới xuất gia chưa thông hiểu kinh luật, mà tự ỷ mình là trí thức, thông minh, hoặc ỷ mình là cao quý, lớn tuổi; hoặc ỷ mình là sang giàu, con nhà quyền quý, hoặc ỷ mình học rộng, phước to, nhà lớn v.v... rồi sanh lòng kiêu mạn mà không chịu học hỏi kinh luật với các vị Pháp Sư học đạo trước mình. Vị Pháp Sư ấy dù thuộc giòng dõi thấp kém, con nhà hạ tiện, tuổi trẻ, nghèo nàn, cùng khổ, hay có tật nguyền, nhưng lại thật có đức hạnh, thông hiểu nhiều kinh luật. Hàng tân học Bồ Tát không được căn cứ vào gia thế, giòng dõi của vị Pháp Sư mà không chịu đến học đạo lý Đại Thừa với vị ấy. Phật tử nếu như vậy thì phạm khinh cấu tội.
3. Lời giảng:
Giới trước
giảng về việc đối với oán cừu nếu khởi niệm trả thù, lẽ dĩ nhiên, không phải là
một biện pháp tốt để giải quyết vấn đề.
Hiện tại, giới
này nói về vấn đề đối với bậc có đức mà không kính trọng, thì cũng không phải
là sự hữu ích cho chính mình.
Nhân vì đối cảnh
sanh tâm oán hận, chẳng những không có được biện pháp giải quyết cho vấn đề,
chỉ làm tăng gia hoặc nghiệp cho chính mình. Như vậy thử hỏi việc làm ấy có ý
nghĩa gì?
Đối với bậc có
đức, nếu không kính trọng thì chẳng những bản thân không có chỗ tốt đẹp mà lại
còn tạo thêm lỗi khinh mạn chánh pháp. Nên biết một hành giả mới xuất gia, nhất
là một vị Bồ Tát mới xuất gia, không phân biệt trường hợp tự hành hay hóa tha,
đối với chánh pháp của Như Lai đều phải tận tâm tận lực cầu học, không nên lựa
chọn người hoặc thời gian hay địa điểm. Cốt yếu là chỗ cầu học phải thuộc về
Phật pháp. Vì chỉ có sự hiểu rõ tất cả chánh pháp của Như Lai một cách không
điên đảo, mới là điều tối trọng yếu của người học Phật.
Nếu thể hiểu rõ
chánh pháp của Như Lai thì thử hỏi bạn lấy cái gì để tự hành? Vì thế làm một vị
Bồ Tát xuất gia, đối với chánh pháp đương thời của Đức Phật cần phải thấu suốt
thông đạt.
Phải biết rằng
ngôn giáo của Đức Phật giảng nói là cốt dạy rõ cho người tu hành phải tu như
thế nào để chứng đắc quả vị tối cao và không bị điên đảo. Vì thế, một Bồ Tát
khi đã theo gót Phật Đà, thì bất cứ khía cạnh nào cũng đều phải tinh tấn tìm
cầu chánh pháp của Như Lai, không được lười biếng, mỏi nhác.
Đầu tiên, Bồ Tát
cần phải biết rằng, muốn hóa độ chúng sanh không phải dùng một phép thuật đặc
biệt nào, mà chỉ hoàn toàn nương theo chánh pháp của Như Lai. Vì thế, nếu tự
mình không có sự hiểu biết thông suốt chánh pháp một cách chắc chắn, thì lấy gì
để tuyên thuyết, giáo hóa, dẫn dắt chúng sanh?
Cho nên sự hiểu
rõ toàn bộ Phật pháp là thành tựu tất cả phương tiện cho việc lợi sanh của Bồ
Tát. Đức Di Lặc Bồ Tát từng dạy rằng:
“Những Bồ Tát có
tâm muốn cầu việc lợi ích cho chúng sanh, do nơi Đạo Chủng Trí mà được thành
tựu tất cả sự lợi ích cho thế gian”.
(Đạo Chủng Trí
là một trong ba trí. Đại Trí Độ Luận nói: “Đạo Chủng Trí là trí của Bồ Tát, học
tập tất cả đạo pháp để tế độ chúng sanh”. Trí này trong Tam Đế thuộc về Trí
Quán Giả Đế hay Tục Đế).
Do đó, nếu không
hiểu tường tận về Phật pháp thì không thể hóa độ các loại chúng sanh. Nên kinh
Hoa Nghiêm dạy về tinh thần hy sinh vì đại pháp rằng: “Bồ Tát Ma Ha Tát vì muốn
cầu chánh pháp của Như Lai, nguyên do vì chánh pháp hết sức khó được. Khi Bồ
Tát cầu pháp sẽ có người nói như vầy:
- Nếu ông có thể
gieo mình vào trong hầm lửa bảy nhẫn, ta sẽ nói pháp cho ông nghe (nhà Châu ở
Trung Hoa ngày xưa ấn định một Nhẫn bằng ba mét Tàu).
Bồ Tát vừa nghe
lời nói ấy, hoan hỷ vô cùng, suy nghĩ như vầy: “Ta hôm nay vì cầu chánh pháp
của Như Lai. Nếu cần phải sanh trong A Tỳ đại địa ngục, cùng các ác thú thọ vô
lượng thống khổ, cũng phải vào để cầu pháp, huống chi chỉ vào trong hầm lửa
nhỏ, sức nóng ở nhân gian chỉ chút ít mà được nghe pháp (vì lửa ở A Tỳ địa ngục
rất nóng. Rắn như sắt đá, khi bỏ vào cũng phải tiêu ra tro bụi. Nên lửa ở nhân
gian so với lửa ở địa ngục chẳng bằng một phần nhỏ). Lạ lùng thay! Quý hóa
thay! Chánh pháp của Như Lai rất là dễ được! So với sự thọ vô lượng thống khổ ở
địa ngục thì không bằng một phần. Chỉ vào trong hầm lửa ở nhân gian chịu nóng
chút ít mà được nghe chánh pháp, là việc làm hoàn toàn không khó vậy. Cúi xin
ngài nói pháp cho tôi nghe, tôi sẽ vâng lời, gieo mình vào hầm lửa”.
Cũng trong kinh
Hoa Nghiêm dạy rằng: “Nếu có người nào vì tôi giảng một câu chánh pháp, khiến
cho Bồ Tát hạnh của tôi nhờ đó mà được thanh tịnh thì dù phải gieo mình vào
biển lửa lớn đầy cõi tam thiên đại thiên thế giới, tôi cũng nguyện từ cõi Phạm
thiên gieo mình vào biển lửa ấy, cũng không cho là khó”.
Thế nên, người
mới phát tâm xuất gia, nhất định phải nương theo một vị thiện tri thức tài đức
kiêm toàn, để tu học chánh pháp của Như Lai, hầu có được sự nhận thức chín chắn
về tất cả đạo lý làm thế nào để được thành Phật, cũng như về tất cả các phương
pháp độ sanh. Vì tất cả những phương tiện có thể thành tựu được trên con đường
giải thoát và tất cả những lợi lạc hiện tại cũng như nhiều kiếp lâu xa trong
tương lai, chỉ có thể tìm được trong giáo lý Phật Đà, ngoài ra không tìm đâu có
được.
Ở thế gian hiện
tại này, duy chỉ có Đại Thánh Phật Đà mới có thể khai thị tất cả những yếu
nghĩa của thủ xả hoàn toàn không sai lầm. Ngoài ra, không có bất cứ một vị giáo
chủ nào khác có thể làm được.
Đức Phật đối với
đại chúng dạy rằng: “Nếu có Phật tử đã thọ Bồ Tát giới mà Phật tử ấy lại là Bồ
Tát xuất gia. Vì mới xuất gia nên chưa được sự huân đào sâu rộng trong Phật
pháp. Lẽ đương nhiên, đối với kinh luật chưa thông hiểu một cách chính
xác”.
Nói một cách
khác, người Phật tử mới xuất gia, chưa được thân cận nhiều với thiện tri thức,
nên đối với giáo lý Đại Thừa cũng như Tiểu Thừa, cố nhiên chưa học tập được
hoàn bị, ngay đến giáo pháp Bồ Tát của mình cần phải học cũng không rành rẽ.
Như thế, Phật tử này tiến tu trong đại đạo Bồ Đề không tránh khỏi những tình
trạng nguy hiểm. Vì giáo lý không thông sẽ dễ đi vào con đường sai lầm, khi xúc
sự mà giới hạnh không biết thì rất dễ lạc vào đường tà.
Cho nên nếu tự
nhận mình là vị Đại Thừa Bồ Tát thì cần phải học tập những phương pháp giáo
hóa, khai thị chúng sanh của Đại Thừa, không nên tự cao, tự đại, cho mình là
người hiểu biết cao thâm mà không có tâm cầu học Phật pháp. Trong kinh văn dầu
nêu rõ rằng Bồ Tát xuất gia, nhưng Bồ Tát tại gia cũng bao gồm trong ấy. Vì Bồ
Tát tại gia phải hướng về đại đạo Bồ Đề mà tiến lên. Nếu giáo lý không thông,
giới hạnh không hiểu, cũng sẽ sanh nhiều nguy hiểm.
Do đó, dù là Bồ
Tát xuất gia hay tại gia, đều phải lấy việc học chánh pháp Như Lai làm trọng.
đối với việc cầu học chánh pháp phải tinh tấn, không nên xem thường.
Cho nên cổ đức
dạy rằng: “Đem thân của vị quốc vương làm giường cho quỷ la sát, dùng thiên y
làm pháp tòa cho thú dã can, khinh thường địa vị tôn quý của thiên vương, kính
trọng quỷ thần là bậc cao quý v.v... những việc như trên đều vì tôn trọng chánh
pháp trước tiên”.
Là một vị Bồ Tát
nếu vì khinh người mà phải mất lợi ích nghe pháp thì sự tổn hại rất nặng nề.
Như đỉnh đầu là nơi tôn quý của con người, nhưng khi vì muốn cầu pháp Đại Thừa
của Như Lai, chỉ một bài kệ bốn câu mà phải đem đầu đội chân của súc sanh là
vật tối ty tiện, cũng hoàn toàn không có niệm yêu tiếc. Đó là do lòng tôn trọng
chánh pháp mà ra vậy.
Vì vậy, hành giả
Bồ Tát chân chánh, có tâm ân cần khẩn thiết, ham mộ chánh pháp của Như Lai,
tuyệt đối không được phân biệt, lựa chọn hình mạo tốt xấu, cùng chủng tánh tôn
quý hay hạ tiện.
Ở trên nói dùng
thiên y làm pháp tòa cho dã can, việc ấy trong kinh Vị Tằng Hữu mô tả như sau:
Trên non Đồ Đà tại nước Tỳ Ma, một ngày nọ có chú dã can bị sư tử rượt bắt ăn
thịt... Dã can sợ hãi chạy trốn, bất hạnh thay, bị sa xuống giếng sâu suốt ba
ngày đêm, không cách nào lên được.
Tự biết mình
không bao lâu sẽ chết, tâm dã can buồn khổ, bùi ngùi than rằng: - Trên thế gian
này đều là vô thường, chính sanh mạng này cũng không lâu dài. Tại sao ta không
cung cấp cho sư tử một bữa ăn no, lại đem thân mạng mong manh, bại hoại này vào
trong giếng nước của người. Về phần sư tử đã nhọc công rượt mà không kịp. Phần
mình cũng chỉ tổn hại mà thôi. Lúc sống đã nghèo cùng khốn khổ, không công cán
gì với nhân gian. Khi chết rã mục như cỏ cây, không ích lợi gì cho nhân quần,
lại còn làm ô nhiễm nước uống ăn của dân chúng, thật là tội lỗi biết bao! Hiện
giờ đã biết sự lỗi lầm của mình, nhưng không phương cách chi để cứu vãn, chỉ
còn hướng về chư Phật mười phương chí thành, khẩn thiết, cầu ai sám hối!
Dã can tự ca
thán mấy lời trên, rồi lại phát nguyện rằng: “Nguyện chư Phật mười phương từ bi
thương xót, phóng quang đến chiếu soi tâm con, khiến bao nhiêu ác nghiệp con đã
gây tạo trong đời quá khứ, trong đời này, con nguyện trả cho sạch hết cả, không
còn sót một mảy may. Con nguyện từ nay trở đi thường gặp bậc minh sư chỉ bảo,
dẫn dắt cho con tu học Phật pháp, để cuối cùng được chứng đắc quả vô thượng Bồ
Đề”...
Lúc ấy, Thiên Đế
Thích nghe những pháp ngữ trên, liền cùng với tám vạn thiên chúng, đồng bay đến
bên giếng nói với dã can rằng:
- Thiên chúng
chúng tôi từ lâu ở chốn tối tăm, lâu lắm rồi không được nghe thánh giáo của Như
Lai. Vừa rồi được nghe những pháp ngữ của ngài tuyên thuyết, khác nào như được
uống nước Cam Lồ, cầu xin ngài nói lại lần nữa cho chúng tôi được nghe thì công
đức ấy vô lượng vô biên.
Dã can đáp lại
rằng:
- Quý vị muốn
tôi giảng nói Phật pháp, điều ấy không thành vấn đề. Nhưng Pháp Sư thuyết pháp
ở dưới, còn người nghe pháp ở trên cao thì với việc nghe pháp, quý vị trong tâm
không có một điểm cung kính, thì làm sao có thể nghe được chánh pháp của Như
Lai?
Trời Đế Thích
vừa nghe xong liền đưa dã can lên khỏi giếng. Đoạn dùng thiên y của mình cùng
tám vạn thiên chúng làm pháp tòa, thỉnh dã can ngồi, rồi mới đối trước dã can
chí thành cầu xin sám hối nghe pháp. Chỉ có hết lòng ân cần cung kính như vậy
mới có thể chân chánh được nghe Phật pháp.
Nếu như không
thực hành như vậy, mà tự ỷ mình là trí thức thông minh, không chịu nhất tâm
thỉnh cầu chánh pháp, là điều tuyệt đối sai lầm. Là Phật tử đáng lý phải chuyên
cần học tập chánh pháp Đại Thừa. Nếu hoàn toàn chưa được thấy nghe giáo lý Đại
Thừa thì phải sanh tâm hổ thẹn, đã không ý thức được như vậy, sao trở lại sanh
tâm kiêu mạn?
Nhưng người đời
thì ngược lại, vì chưa thâm nhập Phật pháp sâu xa, vì chưa được chánh giải do
được nghe pháp Đại Thừa, nên dễ sanh tâm kiêu mạn. Tự cho trên xã hội này mình
là một người hiểu cao không thể tưởng tượng, cho rằng mình đã học qua tất cả
các học thuyết trên đời. Với những kiến thức học vấn thông thường, ta đây đều
có thể thông đạt, Phật pháp có gì khó mà phải học tập? Lại cần phải thỉnh giáo
nơi người để làm gì?
Trong tâm đã
sanh những động niệm cao ngạo như thế nên mới cho mình là người trí thức, thông
minh, mà khinh thường pháp Đại Thừa thâm diệu của Như Lai, không chịu tiếp thọ.
Do tâm kiêu căng, ngạo mạn nên không hết lòng kính trọng người. Do ỷ mình là
người trí thức thông minh, nên không có ý nguyện cầu học chánh pháp của Như Lai
cho được lợi ích.
Hoặc có người ỷ
địa vị mình cao quý, nếu không phải là viên chức cao cấp quan trọng của quốc
gia thì cũng là một bậc hào thế trong xã hội, hay thuộc về giai cấp lãnh đạo
tối cao trong nước. Khi đã có tâm tự ỷ như vậy, thì thấy mình cao hơn người mấy
bậc, mặc dầu mọi cái mình cũng đều không hiểu biết cho lắm. Nhưng vì ở hoàn
cảnh thù thắng, được ở địa vị cao, muốn giữ thể diện cá nhân và nhất là bị con
ma “tôn vinh” sai sử, núi ngã mạn cao chọc trời nên không thèm cầu học với
người thông hiểu Phật pháp. Cho rằng thỉnh cầu Phật pháp với một vị Hòa Thượng
thông thường hay với một vị cư sĩ tầm thường thì thật là một sự mất sĩ diện vô
cùng.
Trường hợp này ở
thế gian có thể nói là rất nhiều. Nhiều nơi thường có những người có địa vị,
rất muốn biết chút ít về Phật pháp, nhưng lại không muốn thỉnh cầu các vị xuất
gia khai thị. Vì họ cho rằng nếu làm như vậy sẽ tổn thương đến địa vị hiện tại
của cá nhân mình, nên thà chịu dốt Phật pháp còn hơn. Như thế là tạo chướng
ngại đối với Phật pháp cho chính mình.
Phật pháp là
pháp thậm thâm vi diệu, trăm kiếp ngàn đời thật khó gặp. Nay đã gặp được mà lại
bỏ qua, thật là ngu xuẩn biết chừng nào! Đáng thương biết bao! Nên biết rằng
Phật pháp là Phật pháp, địa vị là địa vị, không nên vì địa vịa mà xa lìa Phật
pháp.
Hơn nữa, nếu bạn
chân thành cầu học Phật pháp, chẳng những địa vị cao quý của bạn không hề bị
tổn thương; trái lại, còn giúp cho sự tăng gia tính chất cao thượng ở địa vị
của bạn.
Hoặc có người tự
ỷ mình cao kỳ túc (bản Việt văn dịch là “lớn tuổi”), đối với Phật tử tại gia tự
cho mình là bậc kỳ niên tôn túc, còn đối với Phật tử xuất gia thì tự cho mình
là Tăng lạp hơn người.
Nên Trung Hoa
xưa có câu: “Hữu trí bất tại niên cao, vô trí không tưởng bách tuế” (có trí
không cần lớn tuổi. Không trí, dù có trăm tuổi, chỉ là người già suông mà
thôi).
Tục ngữ Việt
Trong Phật pháp,
có một vị thượng tọa gọi là trí huệ thượng tọa, tức là vị có trí thức, có học
vấn, hay có một kiến giải tương đương, một sự nhận thức chu đáo đối với Phật
pháp. Điều ấy không luận lớn tuổi hay nhỏ tuổi.
Dù niên kỷ của
bạn già đến bực nào, nếu bạn không có sự nhận thức chính xác đối với Phật pháp,
thì phải ân cần cầu thỉnh sự chỉ giáo của người thông hiểu Phật pháp. Nếu bạn ỷ
mình già hoặc đứng tuổi, nhưng vô dụng, thì xin nói một cách thẳng thắn không
nhân nhượng là: Nếu bạn là người mà vấn đề gì cũng hoàn toàn không biết thì chỉ
là già suông mà thôi. Tuy nhiên, trong Phật pháp điều này không có nghĩa là
không kính trọng bậc cao niên, trưởng thượng.
Nên trong giới
luật, Đức Phật đặc biệt dạy: “Tôn thượng tọa”, là đối với bực thượng tọa phải
hết lòng cung kính. Ở đây, chỉ nói trường hợp những người lớn tuổi, tự mình đã
không hiểu Phật pháp, mà không chịu thỉnh cầu Phật pháp. Tức là vì tuổi già mà
sinh tâm kiêu mạn, đối với những vị sơ tâm, nhưng thông đạt Phật pháp, thì coi
không ra gì. Đây là điều sai lầm và không nên làm.
Hoặc ỷ mình
thuộc dòng dõi sang trọng, con nhà quyền quý, nghĩa là ỷ mình chủng tánh cao
thượng, gia tộc cao sang. Đây chỉ dòng dõi Sát Đế Lợi và Bà La Môn ở Ấn Độ thời
xưa. Còn ở Trung Hoa và các quốc gia khác ở Á Đông, thì chỉ những nhà nhiều đời
làm quan, gia đình cao sang, tài bảo vô lượng, đương thời được suy tôn là vọng
tộc. Muốn cho những người ấy cầu học Phật pháp với những người trong chủng tộc
Tỳ Xá (buôn bán), hoặc Thủ Đà La (làm ruộng) thì thật là khó khăn muôn
vàn.
Vì chủng tộc Bà
La Môn và Sát Đế Lợi xem chủng tộc Thủ Đà La là một chủng tộc vô cùng hạ tiện,
không thể đụng đến. Nên khi họ đi đường, nếu chân họ đạp phải bóng của người
thuộc chủng tộc Thủ Đà La thì họ cho là việc không lành.
Vì thế, muốn
chủng tộc Bà La Môn và Sát Đế Lợi mọp đầu lễ bái với người thuộc chủng tộc Thủ
Đà La để cầu học Phật pháp là một việc không thể được. Đó là nói về bốn giai
cấp ở Ấn Độ ngày xưa. Còn ở Trung Hoa thì hàng cao môn vọng tộc, không bao giờ
có ý muốn qua lại với những người trong cảnh nhà tranh, vách lá. Nên không bao
giờ họ cầu học Phật pháp với những người nghèo khổ ấy.
Hoặc có người tự
ỷ mình học rộng. Nghĩa là tự nhận mình học vấn uyên thâm, bất cứ môn học nào
trên thế gian đều đã tham khảo một cách sâu sắc. Mọi lãnh vực khoa học, triết
học, y học, sinh lý học, tâm lý học, luận lý học, động vật học, thực vật học,
cơ giới học, pháp luật học, chính trị học, tôn giáo học v.v... không một thứ
nào mà họ chẳng tinh thông.
Nếu người ấy là
một hành giả trong Phật pháp, nhất là Phật pháp Tiểu Thừa thì cũng sẽ tự ỷ mình
đã có sự hiểu biết đầy đủ trong Phật pháp. Người tự ỷ học vấn thế gian có thừa,
thậm chí đối với những chỗ sai lầm của ngoại điển có thể biện biệt rõ ràng, đối
với Phật pháp Tiểu Thừa và ngoại điển đều thông đạt như vậy, muốn cho người ấy
học tập Phật pháp Đại Thừa, thật là một chuyện không dễ dàng.
Vì thế người có
trình độ học thức cao, hiểu biết rộng, đại đa số đều tự xem mình rất cao. Dù có
những chỗ chính mình không hiểu rõ, cũng không bao giờ chịu thỉnh giáo với
người khác.
Hoặc có người tự
ỷ mình có đủ phước to, nghĩa là tự nhận phước đức của mình rộng lớn phi thường,
hoặc ỷ mình ở trên thế gian này đã từng làm phước hạnh rất lớn, giúp đỡ rất
nhiều người, biết bao người đã được sự lợi ích do mình, nên khi đi đến nơi nào
đều có vô số người hoan nghinh tiếp rước.
Hoặc có người tự
nghĩ: Phước đức của ta đã lớn dường ấy thì cần phải cầu học Phật pháp để làm
chi? Ta ở trên thế gian hiện thực này một đời hưởng thọ không hết, cần chi phải
cực khổ đi cầu học Phật pháp?
Trong kinh Tứ
Thập Nhị Chương nói: “Phú quý học đạo nan” chính là ý ấy. Vì thế, ở các nơi
việc tu học Phật pháp, nhất là việc nghe kinh pháp dùng không phải là không có
những vị Phật tử phước to, tiền của nhiều, nhưng có thể nói là rất ít! Vì có
thể nói tâm lý của đại đa số những người bình thường đều giống nhau.
Trên thế gian
này có những người ỷ mình phước to mà sanh tâm kiêu mạn là đa số. Họ không biết
rằng phước đức là điều không thể tựa nương. Vì khi đã hưởng hết phước báo rồi,
họ mới biết thế gian này toàn là đau khổ!
Nên học được
Phật pháp thì thành một hột giống đạo pháp, vĩnh viễn nương nhờ nơi đó, tương
lai sẽ được giải thoát cho đến lúc thành Phật. Thế mà không chịu đi học Phật
pháp, thật là một việc đáng tiếc biết chừng nào!!!
Hoặc có người tự
ỷ mình giàu lớn, đồ thất bảo rất nhiều. Con người sống trên thế gian, nếu nhìn
theo góc độ thế gian, thì sang giàu có nhiều thất bảo và các tài vật, đương
nhiên là một điều thật lý tưởng. Vì muốn gì được nấy. Nhưng đứng về quan điểm
của Phật pháp, thì giàu có lớn không phải là lý tưởng, vì không thể nương vào
tài bảo là của năm nhà. Hôm nay nó là tài vật của bạn, ngày mai có thể trở
thành của người.
Nhìn vào thế
gian này, người giàu lớn thì tiền bạc, của cải rất nhiều, nhưng chỉ trong một
đêm có thể trở thành kẻ rất nghèo cùng. Đây là sự thật rất thường thấy, không
phải bịa đặt, cũng không phải là ít có.
Do đó, thử hỏi
rằng tài bảo có gì vững chắc để tựa nương? Nếu bạn biết mình là người giàu có,
của cải nhiều, nhờ đó không bị khó khăn về cuộc sống, vậy hãy nương theo duyên
tốt ấy mà chuyên tâm tu học Phật pháp. Đấy mới là con đường chánh đáng cần phải
đi của kiếp người. Nhưng rất đáng tiếc cho thế nhân, không hiểu được điều ấy,
họ thường thấy mình giàu lớn, của tiền vô lượng rồi sanh tâm kiêu mạn, để đến
nỗi mất hẳn cơ hội tích tụ Thất Thánh Tài trong Phật pháp. Thật là một sự việc
rất đáng tiếc!
Như trên đã nói,
về việc tự ỷ có bảy loại là:
1. Trí thức
thông minh.
2. Cao
quý.
3. Lớn
tuổi.
4. Giàu sang,
con nhà quyền quý.
5. Học
rộng.
6. Phước
to.
7. Giàu
lớn.
Bảy loại này là
điều quý trọng thông thường của người thế gian. Trái lại, đối với Phật pháp,
các thứ ấy hoàn toàn không quan trọng, vì đi ngược đường với việc tu trì trong
Phật pháp. Do đó, muốn đi trên con đường Phật pháp thì đối với những thứ ấy,
không nên có tâm tự ỷ. Nếu có chỗ tự ỷ thì không thể nào đúng theo pháp tiến
bước trên con đường rộng lớn và quang minh của Phật pháp.
Thông thường,
các hành giả sơ phát tâm tu học Phật pháp không nhận rõ bảy loại trên là nhân
duyên chướng đạo, mà trái lại, đối với các điều thù thắng ấy lại sanh tâm kiêu
mạn hết sức.
Do tâm kiêu mạn
này xúi giục bên trong, nên không chịu học hỏi kinh luật với các Pháp Sư học
đạo trước mình. Như thế, đối với Phật pháp mà mình phải phụng hành là một sự tổn
thất rất lớn. Nên biết các Pháp Sư học đạo trước mình thông đạt được các kinh
luật không phải là một việc dễ dàng mà phải trải qua thời gian trường kỳ mới tu
tập được. Nếu chúng ta theo các ngài học tập, sẽ được kết quả gấp bội, điều đó
giúp chúng ta tiến rất nhanh trong Phật pháp.
Nếu tự ỷ những
chỗ đắc thắng của mình để núi ngã mạn cao chọc trời thành ra không chịu thỉnh
cầu những điều lợi ích trong Phật pháp nơi những bậc thông kinh luật. Đó là tự
mình làm trở ngại bước tiến của mình. Vì một tấc bước không dời thì vĩnh viễn
không thể thâu hoạch được lợi ích vĩ đại trong Phật pháp. Như thế không phải là
tự mình chuốc lấy tổn thất là gì?
Hai chữ “kiêu
mạn” thông thường đi chung với nhau, nhưng thật ra nghĩa của chúng khác biệt
nhau. Trong Duy Thức Học giải thích:
- Chữ Mạn là một
thứ Căn Bổn Phiền Não.
- Chữ Kiêu là
một thứ trong Tiểu Tùy Phiền Não.
Người kiêu căng
vì đối với học vấn, đức hạnh, địa vị, tài sản v.v... của mình sanh tâm nhiễm
trước quá sâu. Do đó, khi ở trước mặt người khác thường tỏ thái độ huênh hoang,
ngạo nghễ. Đây là tự thể của Kiêu phiền não. Chính niệm say sưa trong kiêu căng
này không làm phát sanh tâm ý hướng thượng, tiến thủ, mà làm nhiễm ô các thiện
pháp. Đây là nghiệp dụng của kiêu phiền não. Một khi đã có tâm lý như vậy thì
gây bất lợi cho mình về mọi phương diện.
Người ta sở dĩ
sanh tâm kiêu mạn là do cảm thấy mình so với người khác, điều gì cũng cao hơn
một bậc. Vì thế sanh khởi tâm khinh khi, ngạo mạn đối với mọi người, xem dưới
mắt không còn ai. Đây là thể tánh của mạn phiền não.
Do tâm lý ngạo
mạn, những người này tự làm tổn hại đức khiêm cung, hòa nhã của mình, do đó mà
bị trầm luân trong bể khổ sanh tử, không có kỳ hạn được thoát khỏi. Họ luôn bị
sự tập tích của các khổ não. Đây là nghiệp dụng của mạn phiền não.
Khi núi ngã mạn
cao ngất trong nội tâm thì làm sao có thể thâu hoạch, được lợi ích trong Phật
pháp?