KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương
III: CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT
THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.2.2. BIỆT
THUYẾT KHINH GIỚI
(riêng giảng các giới khinh)
B.2.2.16. VỊ LỢI ĐẢO THUYẾT GIỚI
(giới cấm vì lợi
mà nói pháp điên đảo, lộn lạo)
Kinh văn:
1. Phiên âm:
Từ câu “nhược Phật tử ưng hảo tâm tuyên học Đại Thừa oai nghi kinh luật...” cho đến câu “...phạm khinh cấu tội”.
2. Dịch nghĩa:
Nếu Phật tử tận tâm học kinh luật oai nghi Đại Thừa, thông hiểu nghĩa lý, khi thấy có hàng tân học Bồ Tát từ xa trăm nghìn dặm đến cầu họckinh luật Đại Thừa, Phật tử này nên đúng như pháp, giảng giải tất cả khổ hạnh: hoặc đốt thân, đốt cánh tay, đốt ngón tay. Nếu không đốt thân hay cánh tay, ngón tay cúng dường chư Phật, thời không phải là hạng Bồ Tát xuất gia. Nhẫn đến xả thịt nơi thân mình cùng tay chân mà bố thí cho tất cả những cọp sói, sư tử đói cùng tất cả loài quỷ đói. Rồi sau đó mới căn cứ theo từng căn cơ của mỗi người mà tuần tự giảng pháp cho hàng tân học ấy được mở thông tâm trí. Nếu Phật tử vì quyền lợi cá nhân, trường hợp nên dạy mà không dạy, lại giảng kinh luật một cách điên đảo, văn tự lộn xộn, không theo thứ tự trước sau, thuyết pháp có tính cách hủy báng Tam Bảo, Phật tử này phạm khinh cấu tội!
Lời giảng:
Giới “giảng
nói pháp tà tịch” phía trước là nói về trường hợp nên giảng dạy mà không chịu
dạy, hoặc không nên dạy mà lại dạy. Giới “vì lợi giảng pháp lộn xộn” này là lỗi
xan lẫn chánh pháp, mong cầu tài lợi, không ứng hợp theo thời nghi mà giảng
nói, cho nên Đức Phật cấm.
Là một hành giả
Bồ Tát, lẽ ra nên học tập tất cả những điều cần phải học tập để tạo cho mình
được đầy đủ tri kiến. Khi đã có đủ khả năng giáo hóa người thì phải đem tất cả
chỗ hiểu biết của mình đã học tập ra để dạy bảo dẫn dắt người, không nên giữ
lại mảy may nào, hầu giúp cho mọi người đều được hưởng thọ sự lợi ích của chánh
pháp Như Lai.
Nhưng nếu vị Bồ
Tát vì tham tâm quá mức, chẳng những không chịu tự mình vì người giảng nói
chánh pháp, mà người khác đến thỉnh cầu chánh pháp cũng không chịu vì người mà
giảng nói trong tinh thần vô điều kiện. Nói hẳn ra, tức là cần phải có sự thỏa
thuận giá cả mới chịu giảng nói. Tham tài lợi, xan lẫn chánh pháp dường ấy, làm
cho những người có khả năng kinh tế bị kém thiếu, mất hẳn cơ hội nghe chánh
pháp, nên không thể tiến lên thực hành Bồ Tát đạo, làm đoạn tuyệt hột giống của
chư Phật. Tội lỗi này lớn biết dường nào!
Đức Phật
đã nhận thức điều này một cách thấu suốt, nên đặc biệt, Ngài vì chư vị Bồ Tát
phát tâm độ sanh, chế lập giới này để chư vị đồng vâng giữ, sao không cho trái
với Bồ Tát đạo, và cũng giúp cho Phật chủng không bị đoạn diệt.
Nếu vì mong cầu
tài lợi mà giảng nói chánh pháp lộn xộn, chẳng những không hợp với phương pháp
giáo hóa mà cũng trái với bổn nguyện hoằng hóa. Cho nên vì lợi mà thuyết pháp
là điều Đức Phật tuyệt đối không cho phép, huống chi việc giảng nói chánh pháp
của Như Lai một cách lộn lạo?
Trong kinh Phật
Tạng, Đức Phật dạy: “Ta quyết định không cho phép một người nào vì cầu lợi mà
thuyết pháp. Ta chỉ cho phép tỳ kheo trì giới thanh tịnh, ngồi trên tòa cao
thuyết pháp. Nếu đối với chánh pháp có tâm xan lẫn, chỉ nghĩ đến tiền bạc, vật
dụng, rồi dần dà biếng nhác, không đúng như pháp mà thuyết pháp đều quyết định
không được.
Là một vị Bồ Tát
chân chánh, phát Bồ Đề tâm, đối với đại chúng nghe pháp, không nên có tâm hy
vọng và mong cầu một mảy may gì về quyền lợi. Cần phải thường suy nghĩ như vầy:
ta vì chúng sanh giảng nói chánh pháp, hoàn toàn không mong cầu một cái gì cả.
Chỗ mong cầu duy nhất của ta là muốn cho chính mình cùng tất cả chúng sanh
tương lai đồng thành Phật đạo. Nếu như đạt được mục đích ấy, thì công đức
thuyết pháp của ta thâu được chính là “tự cụ an lạc” bậc nhất, ngoài ra, ta
không mong cầu gì khác. Nếu có chỗ mong cầu nào khác là mất hẳn tư cách của
người làm công tác sư phạm.
Cổ đức cũng dạy
rằng: “Nếu không lo lót riêng thì không truyền trao chánh pháp, có thâu hoạch
được tài lợi thì mới đem hết chỗ hiểu biết của mình giảng nói. Đó là lối buôn bán,
đâu phải là bản hoài hoằng pháp độ sanh của bậc đại sĩ?”
Chẳng những không
phải là bản hoài của Đại Sĩ, mà so với tinh thần nghiệp vụ của một thầy giáo
bình thường ngoài xã hội cũng không bằng. Như vậy còn nói gì đến việc hoằng pháp
lợi sanh?
Vì nhiếp hộ hàng
tân học Bồ Tát khiến vào chánh pháp Đại Thừa, đồng thời chánh hạnh có chỗ y
chỉ, nên Đức Phật chế lập giới điều này.
Vì muốn hộ trì
chánh pháp của Như Lai, cũng như việc truyền đăng không bị đoạn tuyệt, Đức Phật
chế lập điều giới này khiến cho những vị thuyết pháp cùng người nghe pháp đều
thành chủng tánh Đại Thừa.
Vì muốn bảo hộ
những giới cấm cùng giới pháp trong thập giới trọng, khiến cho hàng Bồ Tát nhận
thức nên vì chúng sanh thuyết pháp, không giữ lại riêng mình một pháp nào, dù
nhỏ đến mảy may, nên Đức Phật chế lập giới điều này.
Đại Thừa lấy
việc lợi tha làm cơ bản, mà phương tiện tối thắng của việc lợi tha không gì hơn
việc phát tâm hoan hỷ, sốt sắng, khoái lạc để giảng nói chánh pháp của đức Như
Lai đã chứng đắc cho chúng sanh nghe, không bao giờ sanh tâm nhàm chán, biếng
nhác, khiến chúng sanh từ trong việc nghe pháp được thọ dụng Phật pháp, cuối
cùng thành quả vô thượng Bồ Đề tối cao.
Đức Phật đối với
đại chúng dạy rằng: “Nếu là một vị Phật tử đã thọ giới Bồ Tát, đáng lẽ phải có
hảo tâm học hỏi kinh luật oai nghi Đại Thừa, rộng khai nghĩa vị” (hai câu này
dịch ra Việt văn là: “Phải tận tâm học kinh luật oai nghi Đại Thừa, thông hiểu
nghĩa lý”).
Kinh văn nói:
“Hảo tâm” là điều kiện đầu tiên của việc học Phật pháp, động cơ phải thuần
chánh. Ngược lại, nếu dùng động cơ không thuần chánh tu học Phật pháp, thì không
bao giờ có kết quả tốt. Nói rõ hơn, đó là sự ôm ấp tâm niệm lợi dưỡng mà học
Phật pháp.
Nên kinh Lăng
Nghiêm dạy: “Nhân địa không chân chánh thì kết quả bị cong vạy” là ý này.
Trong Phật pháp,
nói đến hảo tâm là nói tâm thượng cầu hạ hóa, tự tha kiêm lợi.
Sau khi phát hảo
tâm như thế rồi, việc cần làm trước tiên là cần học kinh luật, oai nghi Đại
Thừa, riêng hành giả Tiểu Thừa cũng cần phải học tập kinh luật, oai nghi của Tiểu
Thừa.
Theo trong kinh
giải thích:
- Kinh là thuyên
giải về Định học, thực hành theo đó có thể thành tựu được các thiện pháp.
- Luật là thuyên
giải về Giới học, thực hành theo đó có thể biểu hiện oai nghi phép tắc. Đối với
hành giả tu học Phật pháp, oai nghi là vấn đề hết sức trọng yếu.
Học Phật là một
đại sự siêu phàm nhập thánh. Nếu một người oai nghi không nghiêm chỉnh và đầy
đủ, chẳng những không thể biểu hiện những nét đặc sắc của người Phật tử, lại
còn tưởng muốn sự tự đi sâu vào Phật pháp, tự tu để đạt đến chỗ chứng đắc thì
không thể được.
Trường hợp hai
chữ “oai nghi”, cổ đức giải thích như sau:
- Có oai đáng
sợ, có nghi đáng kính.
Hành giả tu học
Phật pháp, muốn được sự kính sợ của quần chúng, điều kiện tiên quyết là tự mình
phải có oai. Nếu hành vi, hoạt động của bạn tự tiện tùy ý thì rất khó có được
sự kính sợ của quần chúng.
Muốn nhứt cử
nhứt động của bạn có thể làm mô phạm cho người, điều kiện tiên quyết là hạnh
nghi của bản thân bạn phải theo đúng quy, đúng củ. Trái lại, nếu không như vậy
thì rất khó khiến người bắt chước theo.
Theo kinh luật
Đại Thừa, tu học cần phải có oai nghi. Nhưng đó chỉ là thể hiện hành vi tốt đẹp
bên ngoài, chứ không thể sánh bằng sự hiểu biết Phật pháp bên trong.
Tiến lên một bực
nữa, người Phật tử phải cầu học để hiểu rõ kinh luật Đại Thừa:
- Kinh luật
là văn tự năng thuyên, chỉ thú sở thuyên là nghĩa lý. Trong nghĩa lý chứa đựng
pháp vị vô cùng, đó là vị. Đối với nghĩa thú, pháp vị này, cần phải cầu cho
hiểu thật rõ, và hiểu một cách rộng rãi. Cho nên kinh văn nói: “Rộng khai giải
nghĩa vị” (dịch là: “Thông hiểu nghĩa lý”).
Có chỗ giải
thích rằng Khai là ý thông đạt vô ngại, chữ Giải là khế ngộ không nghi; chữ
Nghĩa là Sự và Lý trong kinh luật; chữ Vị chỉ chỗ nhiệm mầu, uyên áo bên
trong.
Khế ngộ tông thú
của kinh luật, thông đạt ý vị sâu xa của nghĩa lý, rồi sau mới đem chánh pháp
lợi ích quần sanh. Như thế mới thấy được sự lợi ích của chánh pháp.
“Học oai nghi
Đại Thừa” là để nghiêm giữ thân tâm mình. Bên trong thì chứa đức sư tử, bên
ngoài thị hiện oai nghi tượng vương, hoàn thành tịnh hạnh cho chính mình.
“Rộng khai
nghĩa vị” là chứng tỏ sự hiểu biết không phải nông cạn, mà là thông suốt giáo
điển Tam Tạng, minh đạt yếu nghĩa của các bộ kinh mà đại khai viên giải chơn
thường (chỉ sự hiểu biết trọn vẹn đầy đủ rộng sâu, không có chướng ngại).
Hạnh và Giải
tương ưng như thế mới có thể làm sư phạm cho hàng hậu học.
Vì vậy, làm một
vị Bồ Tát hóa độ chúng sanh, không phải đơn giản như thế nhân thường tưởng
tượng, mà cần phải có đủ Hạnh Giải song toàn mới xứng đáng với tư cách của vị
sư phạm.
Nếu có Giải mà
không có Hạnh vẫn không đáng làm thầy người. Trái lại, chỉ có Hạnh mà không
Giải cũng khó thực hành việc giáo hóa. Cho nên muốn cầu hạnh lợi mình, lợi người,
điều trước tiên là phải kiện toàn đức hạnh và học vấn. Oai nghi kinh luật là
phép tắc mô phạm hóa đạo của Đại Thừa. Thông hiểu nghĩa lý là cửa ngõ tiến tu
của Đại Thừa. Vì thế, Bồ Tát muốn cầu việc tự hành hóa tha, trước tiên phải lo
học tập cho hoàn bị.
Một vị Bồ Tát
phát Bồ Đề tâm, nếu đối với oai nghi, kinh luật Đại Thừa và sự thông hiểu nghĩa
lý, sanh lòng xem thường, thì chẳng những không thể làm tốt đẹp cho hạnh lợi
sanh mà ngay chính việc tự lợi cũng không thành. Chúng ta hãy xem trong các kinh
điển Đại Thừa, tất cả các vị Bồ Tát hành Bồ Tát đạo, không có vị nào mà không
thành tựu oai nghi cũng như tinh thông Phật pháp.
Ở trong Phật
pháp, mình là người tu học, trước nhất cần phải từ những kinh nghiệm thực tế để
thể hội vào những chỗ sâu xa, hạnh giải không nên riêng bỏ. Nếu đã được như
vậy, hiện tại nếu thấy “hàng tân học Bồ Tát từ trăm nghìn dặm đến cầu kinh luật
Đại Thừa, nên đúng như pháp mà giảng giải tất cả khổ hạnh”.
Kinh văn gọi
“hàng tân học Bồ Tát” là chỉ cho hàng Bồ Tát mới phát tâm, tức là những người
mới vào cửa đạo, chưa hiểu tí gì trong Phật pháp, nhất là kinh luật Đại Thừa. Hiện
tại, quý vị ấy không nề cực nhọc, khổ sở, có người từ phương xa hàng trăm dặm,
có người từ nghìn dặm, đến nơi bạn thỉnh cầu học kinh luật Đại Thừa. Do đó, chúng
ta có thể thấy rõ tâm chân thiết cầu pháp của các vị ấy.
Là một vị Bồ Tát
đã hiểu rõ kinh luật Đại Thừa, phụng hành Phật pháp, bạn cần phải quán xét căn
cơ của mỗi người, đem chỗ hiểu biết của mình dạy bảo, dẫn dắt cho quý vị ấy
hiểu rõ ý nghĩa nội dung và phụng hành theo oai nghi của kinh luật Đại Thừa, để
thành một vị Bồ Tát danh phù hợp với thật.
Muốn như thế thì
phải giảng nói những pháp gì?
Trước tiên là
phải đúng theo pháp giảng nói tất cả những hạnh khổ khó làm của hàng Đại Thừa
Bồ Tát cần phải thực hành.
Tại sao trước
tiên lại vì hàng tân học giảng nói những khổ hạnh khó làm, mà không giảng nói
một đạo lý nào khác? Đối với những người mới phát tâm, nếu giảng nói những khổ
hạnh, có làm cho quý vị ấy thối thất tâm đạo hay không?
Không! Chính vì
muốn cho tâm chí của quý vị ấy được kiên cố, nên mới giảng nói những khổ hạnh
khó làm, nghĩa là có thâm ý dạy bảo cho hàng tân học biết rằng: pháp Đại Thừa của
Như Lai không phải dễ cầu, hay muốn cầu thì sẽ có ngay liền (vấn đề này cần nên
nhớ lại tích của tổ Huệ Khả cầu pháp với tổ Đạt Ma thì rõ).
Do đó, phải hết
sức tôn trọng chánh pháp, tôn trọng đến mức hy sinh thân mạng của mình cũng
không bỏ cơ hội cầu pháp. Nếu không có ý chí quyết liệt như vậy thì trên bước đường
cầu học kinh điển Đại Thừa của bạn, nếu gặp duyên thuận lợi thì bạn có thể
trường kỳ tu học.
Trái lại, nếu
gặp hoàn cảnh trái nghịch khó khăn thì bạn dễ thối thất tâm ban đầu. Nhưng nếu
ý chí cầu pháp của bạn cương quyết phi thường thì dù gặp những hoàn cảnh khó khăn
đến đâu, bạn cũng đều dũng cảm thẳng tiến.
Nói “tất cả khổ
hạnh” là gồm những gì?
Việc ấy nói ra
thì rất nhiều, nhưng nói một cách đơn giản và trọng yếu thì theo trong kinh dạy
như sau: “Hoặc đốt thân, đốt cánh tay, đốt ngón tay” để cúng dường chư Phật. Nên
lưu ý, cúng dường bằng những khổ hạnh khó làm này không có nghĩa là chư Phật
muốn thọ sự cúng dường ấy của bạn, hay cố ý muốn cho bạn phải thọ sự thống khổ tột
độ như vậy. Nhưng chính vì muốn bạn chứng tỏ tâm thượng cầu Phật đạo của mình
đến mức tuyệt đỉnh.
Lại nữa, nên
biết nghiệp chướng của bạn thời quá khứ rất sâu rộng. Hiện tại, nếu muốn cầu
học kinh luật Đại Thừa, muốn nghe pháp cho tâm ý được sáng tỏ, điều kiện tiên
quyết là phải tiêu trừ nghiệp chướng thâm trọng từ vô thỉ ấy. Muốn tội nghiệp
được tiêu trừ, thì không việc làm nào có thể nhanh chóng hơn là đốt thân, đốt
cánh tay. Những việc này không phải là khó khăn đến mức độ hoàn toàn không thể
thực hiện được. Đức Dược Vương Bồ Tát đốt cánh tay. Đức Hỷ Kiến Bồ Tát thiêu
thân. Cho đến chính ngay đức Bổn Sư Thích Ca đốt đèn trên thân để cầu một bài
kệ v.v... là những bằng chứng hết sức hùng hồn và cụ thể.
Một điểm cần
phải biết nữa là việc đốt thân, đốt cánh tay, ngón tay, không có nghĩa muốn bạn
phải hy sinh thân mạng tức khắc, mà là giúp cho tâm chí của bạn được mở rộng, và
làm cho thệ nguyện của bạn thêm kiên cường mà thôi.