KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương
III: CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT
THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.2.2. BIỆT
THUYẾT KHINH GIỚI
(riêng giảng các giới khinh)
B.2.2.7. BẤT VÃNG THÍNH PHÁP GIỚI
(giới không đi
nghe pháp)
Kinh văn:
1.
Phiên âm:
Từ câu “nhược
Phật tử nhứt thiết xứ hữu giảng pháp Tỳ Ni kinh luật...” cho đến câu “nhược bất
chí thính thọ tư vấn giả phạm khinh cấu tội”.
2. Dịch
nghĩa:
Nếu Phật tử,
hàng tân học Bồ Tát, phàm nơi nào, chốn nào có giảng kinh luật, phải mang kinh
luật đến chỗ Pháp Sư để nghe giảng và thưa hỏi. Hoặc nơi núi rừng, trong vườn
cây, chùa, nhà... tất cả những chỗ có thuyết pháp đều phải đến nghe học. Nếu
Phật tử không đến nơi ấy để nghe pháp, cùng thưa hỏi thì phạm khinh cấu
tội.
Lời
giảng:
Giới “không cúng
dường, thỉnh pháp” ở trước là nói về tội Pháp Sư đến địa phương của mình mà
không thỉnh pháp. “Giới không đi nghe pháp” này nói về tội ở nơi khác có thầy
nói pháp mà không chịu đi nghe.
Vấn đề
nghe pháp đối với người Phật tử mới học Phật pháp, nhất là hàng Bồ Tát sơ phát
tâm vô cùng quan trọng. Vì Bồ Tát sơ phát tâm đối với Sự và Lý trong Phật pháp,
những việc trì, phạm... của giới hạnh, tất cả đều không hiểu rõ, nên thường
phải mang kinh, luật đến các nơi tham học để thành tựu đạo hạnh cho chính
mình.
Hiện tại,
nếu bạn biết nơi nào có thầy giảng dạy kinh luật mà không chịu đến nghe. Đối
với Phật lý đã mờ mịt, việc trì phạm cũng không thông, thế mà bạn vẫn mặc kệ,
không cần biết. Suốt ngày chỉ dạo chơi các nơi để thưởng ngoạn, tìm thú vui,
không lo tu học, lám tổn hại giới hạnh thanh tịnh, đi sai con đường tu hành,
luống thọ dụng của thí chủ thì tội lỗi biết chừng nào! Đức Phật thấy như thế
nên đặc biệt chế định giới điều này.
Hành giả
Bồ Tát lấy vô thượng Bồ Đề làm chỗ mong cầu, mà vô thượng Bồ Đề là lấy Trí Huệ
làm gốc. Có trí huệ thậm thâm vi diệu mới có thể phát sanh các pháp Ba La Mật.
Vì thế phải làm thế nào để có được một Trí Huệ chính xác, cao siêu là một vấn
đề vô cùng trọng yếu.
Nếu làm
một người hướng dẫn mà trí huệ tối tăm sẽ sanh khởi những việc sai lầm, bất
chính. Do đó, mọi người bị sai lầm tất cả. Thật vô cùng nguy hiểm và tai
hại!
Vì thế, Tiểu
Thừa xem trọng chánh kiến, Đại Thừa xem trọng Bát Nhã, nguyên nhân chính là
vậy. Nên trong kinh có bài tụng như sau:
Huệ ư chư thiện
hạnh,
Như thuyền tiếp
sở trì,
Bách thiên manh
thất lộ,
Do nhất nhãn đắc
tồn.
Dịch:
Trí huệ đối với
các thiện hạnh,
Cũng như mái
chèo giữ chiếc thuyền.
Trăm ngàn người
mù bị lạc đường,
Nhờ người sáng
mắt mà được sống.
Như thế, chúng
ta thấy trí huệ thật vô cùng trọng yếu, nhưng tại sao trong kinh Hoa Nghiêm có
bài kệ rằng:
Thí như bần cùng
nhân
Nhựt dạ sổ tha
bảo,
Tự vô bán tiền
phần,
Đa văn diệc như
thị.
Dịch:
Ví như có người
rất nghèo cùng,
Ngày đêm đếm của
báu cho người.
Tự mình không có
phân nửa tiền,
Những kẻ đa văn
cũng như vậy.
Như thế việc
nghe kinh, luật hoàn toàn không lợi ích chi, tại sao lại phải đi nghe?
Câu hỏi trên
thật sai lầm vô cùng! Trong kinh sở dĩ nói: “Người đa văn như kẻ đếm của báu
cho người” ấy là Phật quở trách nnhững người cho Đa Văn là rốt ráo, chỉ một mặt
chuyên nghe mà không biết quy y theo chỗ đã được nghe để tu trì. Do đó, mới bị
quở trách và ví như người nghèo đếm của báu đã được cho người.
Nếu từ Đa Văn mà
được Văn Huệ, từ Văn Huệ mà tư duy, từ tư duy mà tu tập, từ tu tập mà vô lậu
trí huệ được khai phát. Như thế là được Đức Phật vô cùng tán thán và hứa khả.
Như trong kinh có bài kệ sau:
Thiết mãn thế
giới hỏa,
Tức quá yếu văn
pháp.
Niệm đương thành
Phật đạo,
Quảng tế sanh tử
lưu.
Dịch:
Giả sử thế gian
đầy lửa đỏ,
Muốn nghe pháp
phải đi qua.
Tự nghĩ nghe
được pháp thành Phật.
Khắp độ chúng
sanh thoát sanh tử.
Lại nữa, trong
kinh nói rằng: “Trong vòng trăm do tuần đầy lửa dữ đang cháy phừng phừng. Nếu
nơi ấy có người giảng nói chánh pháp, cũng phải đi qua chỗ lửa dữ ấy, đến nơi
người nói pháp mà nghe pháp”.
Chúng ta thấy rõ
tính trọng yếu của việc nghe pháp đến mức độ nào!
Đức Phật dạy đại
chúng rằng: “Nếu là Phật tử thọ giới Bồ Tát, ở tất cả chỗ, nghĩa là bất luận
nơi nào, nếu có Pháp Sư hoặc Luật Sư tuyên giảng pháp Tỳ Ni kinh luật, hàng tân
học Bồ Tát đều phải tìm cách đi nghe cho kỳ được. Lại còn có những nơi do quốc
vương, đại thần và các vị đàn việt hộ pháp có thỉnh Pháp Sư giảng pháp, trong
chốn đại trạch xá (giới bổn Việt văn dịch là “nhà”), là cung điện của vua, dinh
thự của quan, nhà của các Phật tử tại gia... Hàng tân học Bồ Tát không được một
chút do dự, mà phải mang kinh luật đến chỗ Pháp Sư nghe giảng và thưa
hỏi”.
Ở đây nói pháp
Tỳ Ni, kinh, luật theo nghĩa:
- Pháp là chỉ
cho Kinh Tạng đã biên tập, thông thường hợp lại gọi là Pháp Tỳ Nại Da. Pháp là
để thực hành theo chân lý cùng đạo đức.
- Tỳ Nại Da là
trừ diệt những pháp hư vọng và trái đạo đức (chỉ cho phiền não, ác nghiệp...)
Về nội dung vốn đồng nhất, nhưng về phương diện “hiển chánh trừ tà” chia làm
hai: Pháp và Tỳ Ni, chẳng phải Pháp, chẳng phải Tỳ Ni. Danh từ tương đối này ở
trong kinh, luật rất phổ biến, hoàn toàn không mang nghĩa thực sự bất đồng, nên
kinh này gọi là “pháp Tỳ Ni kinh luật”.
Tỳ Ni là tiếng
Ấn Độ, Trung Hoa có chỗ dịch là Luật, có công năng xử đoán các tội khinh, trọng
của việc phạm giới và phân định rõ thế nào là khai, giá, trì, phạm để chúng ta
giữ gìn giới hạnh một cách đúng đắn, nghiêm túc và linh động giống như pháp
luật trong thế gian luôn phải công bằng xử đoán mọi việc.
Lại có nơi dịch
là Diệt, nói theo Đại Thừa là có thể triệt để diệt trừ tất cả phiền não. Nói
theo Tiểu Thừa, hữu lậu mộc xoa có thể diệt trừ bảy thứ tội ác của thân khẩu
nghiệp (thân có ba nghiệp, khẩu có bốn nghiệp). Nếu căn cứ vào Định Cộng Giới
và Đạo Cộng Giới (1) thì có thể diệt trừ chín mươi tám sử (2). Lại có chỗ nói
tội ác của ba nghiệp thân, khẩu, ý của chúng ta như lửa đương cháy rất mãnh
liệt, chỉ có giới luật mới có thể ngăn chặn, dập tắt, nên gọi là Diệt.
Lại có chỗ dịch
là Điều Phục, nghĩa là các học xứ (tức là những chỗ nên học, cần học, tức là
giới luật) có công năng điều hòa ba nghiệp thân, khẩu, ý, hàng phục tất cả
nghiệp bất thiện, nên gọi là Điều Phục.
Có người không
biết pháp là kinh, Tỳ Ni là Luật, mà nói kinh, luật đều gọi là Tỳ Ni thì thật
là hoàn toàn không đúng pháp. Trong kinh văn nói: “Tân học Bồ Tát" chỉ
những Bồ Tát sơ phát tâm, hàng đại sĩ mới thọ tâm địa giới pháp. Vì các vị này
thuộc về hàng tân học, học nghiệp chưa thành tựu, không biết rõ sự khinh trọng
của giới hạnh, không biết rõ thế nào là Khai, Giá, Trì, Phạm, thế nào là dụng
công tu hành, thế nào là phương tiện độ sanh v.v...
Vì thế, khi nghe
có người giảng giải kinh, luật, phải mau chóng đến nơi ấy học tập, để được hiểu
rõ chính xác nội dung trong kinh, luật, và để khỏi sa vào trường hợp kẻ đui dắt
người mù, không đến nỗi lầm lẫn cho phạm giới là trì giới mà tạo ra nhiều việc
phi pháp, phi luật.
Vì muốn tránh
khỏi sự sai lầm của tư tưởng và hành vi của chính mình, hàng tân học Bồ Tát sơ
phát tâm nếu biết nơi nào có người giảng kinh luật, phải nhanh chóng mang kinh
luật đến nơi Pháp Sư, chuyên tâm nhất ý lắng nghe, lại phải dùng tâm thức lãnh
thọ giáo pháp. Nếu trong ấy có chỗ nào không hiểu rõ thì nên cung kính thủ lễ
đối với Pháp Sư để thưa hỏi những điểm nghi ngờ trong tâm mình. Khi khối nghi
ngờ được băng tiêu, biết rõ sự tu học phải như vậy, cần phải y theo đó tu trì
để mong được ngộ nhập pháp môn tâm địa Đại Thừa.
Nếu có chỗ giảng
nói kinh - luật mà không chịu đi nghe thì thâm tâm của bạn không được sự tươi
nhuận của nước pháp, hoặc đi nghe pháp mà không thưa hỏi những chỗ nghi ngờ
trong tâm, thì chủng tử Phật pháp trong thân tâm bạn sẽ không được tăng
trưởng.
Vì muốn cho hàng
tân học Bồ Tát biết trọng pháp, không thối thất tâm đạo.
Vì muốn sách lệ
hàng tân học Bồ Tát tăng tiến trên đường tu học.
Vì muốn phòng
ngừa hàng tân học Bồ Tát không tự sanh giải đãi, kiêu mạn.
Nên Phật dạy khi
có chỗ nào thuyết pháp giảng luật, phải đi nghe học, thưa hỏi. Nếu không, sẽ
mất lợi ích không được nghe đại pháp và sự tu hành sẽ không do nơi đâu mà thắng
tấn.
Chẳng những
trong chốn đại xá trạch như cung vua, dinh thự của quan, nhà các đàn việt như
trên đã nói, mỗi khi có Pháp Sư giảng kinh - luật, hàng tân học Bồ Tát cần phải
đi nghe, mà ngay đến trong chốn núi rừng, dưới cội cây, trong chùa tăng, những
nơi tịch tịnh A Lan Nhã hoặc Tăng Già Lam, chỗ của chúng tăng cư ngụ, nếu có
Pháp Sư thuyết pháp, đều phải đến nghe học. Nếu không đến những chỗ ấy nghe học
kinh - luật, thưa hỏi lý nghĩa, ban đầu chỉ có lỗi biếng nhác, mạn pháp, nhưng
về sau thì không tội ác nào chẳng tạo nên. Cuối cùng kinh dạy: “Phật tử này
phạm khinh cấu tội”.
Nghe pháp, học
luật là có lợi ích cho bản thân mình mà không chịu nghe học thì làm sao tránh
khỏi trở thành một người tội ác? Vì thế nên không tránh khỏi tội khinh
cấu!
Vì sao nghe
kinh, học luật là sự kiện trọng yếu của hàng tân học Bồ Tát như thế?
Nên biết bể Phật
pháp mênh mông, càng vào càng sâu. Nếu bạn cứ ngồi yên bất động thì làm sao có
thể thâm nhập Kinh Tạng? Nên trong luận Du Già quyển tám mươi, giải thích chữ
“nghe” như sau:
“Nghe là như thế
nào? Là chính trong lúc Pháp Sư giảng nói chánh pháp, người nghe pháp phải an
trụ nơi chỗ của Pháp Sư, chí thành cung kính, chuyên chú nghe pháp, nội tâm
không điên đảo”.
Phải biết người
nào có tâm chân thật cung kính nghe pháp, hiện tiền được sự lợi ích an lạc như
xa lìa tam ác đạo, được sanh vào cảnh giới lành nhân thiên, và là nhân tương
lai đến Niết Bàn. Được ba sự lợi ích trên đều do lòng cung kính nghe đại pháp,
nên Du Già Luận có bài tụng:
Đa văn năng tri
pháp,
Đa văn năng viễn
ác.
Đa văn xả vô
nghĩa.
Đa văn năng đắc
Niết Bàn.
Dịch:
Đa văn biết các
pháp,
Đa văn lìa ác
đạo.
Đa văn lìa bất
lợi.
Đa văn được Niết
Bàn.
Căn cứ chính nơi
ý này có thể nói một cách quả quyết rằng: Tất cả các công đức trong Phật pháp,
không một công đức nào thành tựu mà không phải do từ nghe pháp mà thu hoạch
được.
Vì thế, tất cả
các giới Phật tử đối với việc nghe kinh - luật chớ nên khinh thường. Nếu tất cả
các pháp đều không được nghe, thì chẳng những pháp thậm thâm không hiểu rõ, mà
ngay cả những pháp thông thường như Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện, Tam Bảo
v.v... cũng đều không hiểu rõ.
Như trường hợp
Thiện Tài đồng tử mà đa số Phật tử đều biết, vì cầu thiện tri thức để nghe đại
pháp mà triển chuyển đi qua phương Nam, trải qua một trăm mười thành để tham
phỏng với các đại thiện tri thức. Cuối cùng mới được chứng đắc tâm yếu trong
Phật pháp.
Nếu Thiện Tài
đồng tử đương thời bấy giờ cứ ngồi yên bất động, sợ nhọc và làm biếng, thì thử
hỏi làm sao lọt vào được lâu các của đức Di Lặc Bồ Tát và việc tham học làm sao
được hoàn thành?
Thiện Tài đồng
tử ở tại Phước Thành, trong đó có một vị trưởng giả có năm trăm đồng tử mà
Thiện Tài là một trong số đó.
Vì sao đồng tử
được đặt tên là Thiện Tài? Vì lúc đồng tử mới sinh ra, có rất nhiều tài bảo quý
lạ tự nhiên ở dưới đất hiện ra. Đó là do Thiện Tài đồng tử có phước báo rất
lớn.
Chú thích:
1. Định Cộng
Giới và Đạo Cộng Giới:
Định Cộng Giới
là một trong ba thứ giới, còn gọi là Tịnh Lự Sanh Luật Nghi; nghĩa là lúc nhập
các pháp Thiền Định ở Sơ Thiền và Nhị Thiền v.v... thì giới thể cùng Thiền Định
đồng sanh, nên tự nhiên có công năng ngăn dứt mọi lỗi lầm và tội ác, nên hai
nghiệp thân, khẩu hoàn toàn khế hợp với Luật Nghi nên gọi là Tịnh Lự Luật Nghi.
Vì Tịnh Lự tức là Định.
Đạo Cộng Giới là
do các bậc thánh nhân trong Tam Thừa khi nhập Vô Lậu Định ở Sắc giới mà phát
sanh. Tức là giới thể cùng với vô lậu trí huệ ở trong thân tự nhiên phát sanh
công năng ngăn dứt lỗi lầm và tội ác. Đạo Cộng Giới còn gọi là Vô Lậu Luật Nghi
vì thuộc về Luật Nghi Vô Lậu, cùng với Vô Lậu đồng sanh và đồng diệt.
2. Chín mươi tám
sử: còn gọi là chín mươi tám tùy miên. Hai danh từ này là biệt danh của phiền
não.
Tại sao gọi là
Sử? Tại sao gọi là Tùy Miên?
Sử nghĩa là sai
khiến, nghĩa là phiền não sai khiến chúng sanh tạo ác nghiệp để phải chịu khổ
quả. Có chỗ gọi là Kiết Sử vì Kiết là trói cột, tức là chúng sanh bị phiền não
sai khiến tạo tội ác, rồi lại bị khổ quả như tội nhân do tạo tội mà bị hành
phạt.
Tùy Miên: chữ
Tùy nghĩa là theo. Miên là ngủ. Nghĩa là phiền não luôn luôn theo bên mình,
không rời một bước nên gọi là Tùy. Những phiền não ấy rất u vi, khó nhận biết,
thường ẩn núp trong nội tâm, cũng như người nằm ngủ không hay biết gì cả nên
gọi là Miên. Chín mươi tám sử này lấy Thập Sử làm căn bản. Thập Sử: tham, sân,
si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ.
Trong 10 sử lại
chia ra làm hai loại:
- Năm thứ trước
gọi là ngũ độn sử.
- Năm thứ sau
gọi là ngũ lợi sử.
Nơi mười sử này
phối hợp với tam giới thì cõi Dục Giới có có ba mươi sáu thứ, Sắc Giới có ba
mươi mốt thứ, và Vô Sắc Giới có ba mươi mốt thứ. Tổng cộng ba cõi có chín mươi
tám sử. Ở đây chỉ nói sơ lược, muốn biết rõ phải xem các bộ luận A Tỳ Đạt Ma
Phát Trí quyển năm, Đại Tỳ Bà Sa quyển bốn mươi sáu, Câu Xá Luận quyển mười
chín...