KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương
III: CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT
THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.2.2. BIỆT
THUYẾT KHINH GIỚI
(riêng giảng các giới khinh)
B.2.2.25. BẤT THIỆN HÒA CHÚNG GIỚI
(giới trị chúng
vụng về)
Kinh văn
1. Phiên âm:
Từ câu “Nhược Phật tử, Phật diệt độ hậu...” cho đến câu “..phạm khinh cấu tội”.
2. Dịch nghĩa:
Nếu Phật tử sau khi Phật nhập diệt làm Pháp Sư, giảng sư, luật sư, thiền sư, thủ tọa trị sự, tri khách, phải có lòng từ bi, khéo hòa giải trong chúng, khéo giữ gìn tài vật của Tam Bảo, chớ dùng vô độ như của riêng mình, lại thêm khuấy chúng gây gổ, hiềm khích, kình chống, hoang phí của Tam Bảo. Nếu làm các việc trên, Phật tử này phạm khinh cấu tội.
Lời giảng
Giới trước
thuyết giảng về lỗi trái với chánh pháp Đại Thừa của Như Lai.
Giới tiếp theo
này giảng về việc xâm phạm tài vật của Tam Bảo, gây sự bất ổn trong tăng chúng,
làm tổn công đức của chính mình.
Làm người lãnh
đạo đại chúng trong tăng đoàn, điều tối yếu là phải thống lý đại chúng theo
cách nào để đại chúng được hòa hợp, không sanh việc tranh cãi. Nếu không khéo
điều hòa đại chúng, lại khiến cho đại chúng phát sanh việc kình chống, gây gổ,
thì khả năng của người thống lý đại chúng không thể gọi là “nhứt thiết vô
ngại”.
Một vị phát tâm
xuất gia tu học Phật pháp, đối với mọi người cùng nhau chung sống một chỗ, luôn
phải lấy sự hòa hợp làm căn bản. Tuyệt đối không nên vừa động đến đã phát sanh
ra việc tranh chấp không cần thiết. Giữa người với người tương xử với nhau
không thể hoàn toàn tránh khỏi những mối bất hòa nhỏ nhặt. Điều cốt yếu là phải
nhường nhịn nhau thì không bao giờ xảy ra điều gì lớn lao mà không giải quyết
được.
Trong luật Tứ
Phần, quyển bốn mươi ba nói:
“Một độ nọ, quý
tỳ kheo sanh ra bất hòa với nhau, Đức Phật nhóm chúng khuyên rằng: - Tỳ kheo!
Các ông là người xuất gia hành đạo, cùng chung một thầy, đồng học một giáo lý,
đồng một tư tưởng, như nước với sữa hòa chung. Các ông phải an vui chung sống
với nhau trong Phật pháp, sẽ được nhiều lợi ích. Thôi đi! Thôi đi! Quý tỳ kheo!
Các ông đừng gây gổ, tranh chấp với nhau nữa. Đừng mạ nhục, phỉ báng tìm chỗ
hay dở của nhau nữa. Phải hòa hợp vui sống với nhau, phải an vui thì mới được
sự lợi ích trong Phật pháp”.
Khi Phật còn tại
thế, Ngài khuyên nhủ, hòa giải cho đệ tử như vậy. Còn người xuất gia thời nay,
cùng chung sống với nhau, vừa hơi có ý bất đồng liền nói: “Tôi vĩnh viễn không
hòa hợp với thầy, thầy là thầy, tôi là tôi. Phần ai nấy giữ, không quan hệ gì
với nhau. Tôi với thầy nếu muốn cùng nhau vui sống chỉ chờ đến kiếp lai
sinh...” Vì thế cho nên thời này gọi là thời Mạt Pháp!
Một đoàn thể, sở
dĩ phát sanh việc gây gổ, kình chống, không ngoài tư tưởng bất đồng, ý kiến
chia rẽ và sự phân chia tài vật không đồng đều nhau.
- Vấn đề tư
tưởng bất đồng, Đức Phật có dạy: “Kiến hòa đồng giải”.
- Về sự phân
chia tài vật, Đức Phật dạy: “Lợi hòa đồng quân”.
Thế nên người
lãnh đạo trong tăng đoàn, ngoài việc khéo léo điều hòa nhân sự, không nên để
cho trong đại chúng phát sinh việc tranh chấp, kình chống vô lý. Còn đối với
tài vật của Tam Bảo, phải hết sức thận trọng, giữ gìn không được lãng phí, tiêu
xài vô độ. Hơn nữa, một vị Bồ Tát đối với đại chúng cần phải có tâm từ bi nhiếp
hộ, vỗ về. Đối với tài vật của Tam Bảo phải khéo léo giữ gìn. Được như thế mới
có thể làm cho chánh pháp của Như Lai không đoạn tuyệt.
Vì vậy, đối với
vai trò người lãnh đạo, điều này trọng yếu vô cùng. Tuy nhiên, nói thì dễ,
nhưng thực hành cho đúng, không phải là vấn đề dễ dàng. Nên tục ngữ có câu: “Bá
nhân, bá tánh”, thật là câu nói xác thực và đầy kinh nghiệm. Người lãnh đạo đại
chúng, dù khéo léo đối xử với đại chúng không thiên lệch cách nào, và đại chúng
tuy biết vị thầy rất từ bi, nhưng sự tranh chấp, kình chống nhau vẫn tiếp tục
phát sanh một cách tự nhiên, đôi khi lại rất bất ngờ, khiến cho vị thầy không
cách nào điều hòa trong chúng, lại còn cảm thấy khổ não vô tận. Sự việc này
thường xảy ra trong tăng đoàn rất nhiều.
Người lãnh trách
nhiệm điều khiển Tăng đoàn không phải là việc dễ dàng, huống gì một vị Bồ Tát
vì chúng sanh, thường phải tiếp xúc với quảng đại quần chúng, muốn khéo léo
điều hòa trong đại chúng là một việc càng khó hơn nhiều. Vì chúng sanh ở thế
giới Ta Bà này, đại đa số rất khó điều phục. Nếu không khéo điều phục họ thì
rất khó tiếp tục thực hiện công việc độ sanh của mình một cách liên tục, không
gián đoạn.
Khi Đức Phật còn
tại thế, Ngài dạy chư Bồ Tát rằng: “Các ông cần phải năng hành nan hạnh”, nghĩa
là phải thường làm được những việc khó làm.
Đức Phật dạy lời
trên là muốn chư Bồ Tát phải khéo léo điều ngự đại chúng một cách vô ngại. Nếu
như không biết mình, biết người, thậm chí làm cho đại chúng sanh ra lộn xộn,
kình chống, tranh chấp thì trái với tư cách mô phạm của vị đạo thủ, lại còn
phát sanh ác nghiệp, thật là một tội rất lớn! Đức Phật thấu suốt vấn đề ấy, cho
nên mới chế lập giới điều này.
Đức Phật dạy đại
chúng rằng: Nếu làm Phật tử đã thọ Bồ Tát giới, lúc Ngài còn tại thế, tất cả
các đệ tử bản thân thừa hành pháp hóa. Dù có đi các nơi giáo hóa chúng sanh,
nhưng đều tôn Đức Phật làm thầy, nên không bao giờ tự dám buông lung để sanh ra
việc lộn xộn, kình chống nhau.
Nhưng sau khi
Đức Phật nhập diệt, vì thời gian xa cách Phật đã quá lâu, dù hàng Phật tử tất
cả đều đồng y theo lời Phật dạy, nhưng trên thực tế, mỗi người đều đã riêng lập
môn đình và tự làm chủ. Nhưng tại sao phải làm chủ? Vì muốn hộ trì chánh pháp
của Như Lai để lại, nên cần phải duy trì được sự hòa hợp đại chúng. Trong khi
đại chúng nếu không có người đứng ra làm chủ sự thì lâu ngày, chánh pháp có thể
bị quên mất. Vì vậy, trong số các đệ tử của Đức Phật, đặc biệt có các vị được
đề cử đảm nhiệm các chức vị đạo thủ khác nhau, để duy trì mọi lề lối sinh hoạt
trong Tăng đoàn. Các chức vụ ấy bao gồm sáu nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
1. Hành chủ
thuyết pháp (vị Pháp Sư): Vị truyền dương thánh giáo, hoằng truyền đạo pháp.
Giáo pháp của đức Bổn Sư Thích Ca tuyên thuyết trong thời đại Ngài còn tại thế,
muốn được lưu truyền cửu trụ ở thế gian, tránh tình trạng người đi, pháp cũng
không còn, hoàn toàn nương nhờ vào hạng đệ tử của Phật. Đặc biệt là hàng Đại
Thừa Bồ Tát. Vì thế người làm chủ phải khéo léo, phải có tâm từ bi nhiếp hộ đại
chúng, truyền dạy giới pháp không thiếu sót.
Nên biết một vị
Pháp Sư hoằng truyền đạo pháp rất quan trọng và cũng không phải là một việc dễ
dàng. Vì cần phải khéo lép hiểu biết chỗ thông tắc của Tam Tạng thánh giáo một
cách vô ngại và tự tại, mới có thể vì đại chúng khai thị một cách hoạt bát và
sống động.
Kinh Hoa Nghiêm
dạy: “Phật pháp vô nhân thuyết, tuy huệ mạc năng liễu” (Phật pháp mà không có
người giảng giải, dù có trí huệ cũng không dễ gì hiểu rõ). Vì thế, muốn cho
Pháp Luân của Như Lai thường chuyển thì không thể nào thiếu vị chủ thuyết pháp
được vậy.
2. Hành chủ hành
pháp (Luật Sư): Những vị thông đạt rành rẽ giới luật, đúng theo quy luật mà
phụng hành, nên có thể gọi đó là Luật Sư.
Vị hành chủ
thuyết pháp không phải là không thực hành giới luật, nhưng chẳng qua nhiệm vụ
chính yếu của chư vị là thuyết pháp. Còn vị hành chủ hành pháp lấy việc nghiêm
trì tịnh giới làm chủ yếu. Không phải vị này không biết giáo lý, nhưng vị này
đặc biệt chú trọng về việc thông đạt những chỗ khai, giá, trì, phạm của giới
luật, xem đây là phần đặc sắc duy nhất của mình.
Lại có chỗ
giải thích rằng: hành chủ thuyết pháp và hành chủ hành pháp là một người. Vì
thuyết pháp là giáo hóa bằng ngôn ngữ, hành luật là thể hiện sự giáo hóa bằng
thực hành, tức là thiên trọng về sự giáo hóa thân hạnh (hạnh kiểm của thân
nghiệp). Đây là sự khác nhau giữa hai chức vụ. Vì thế, trong bộ Pháp Tạng Giới
Bổn, không có chức vụ chủ hành pháp thứ hai này.
3. Hành chủ tăng
phường (chủ tọa, trị sự): Vị lãnh trách nhiệm cao nhất trong ngôi Già Lam,
thường gọi là vị trụ trì. Làm một vị trụ trì trong ngôi đại già lam, điều trọng
yếu nhất là phải được lòng người. Nói trong phạm vi chúng xuất gia, là phải
được lòng chúng, tức là chiếm được cảm tình của chúng.
Nên cổ
Phật từng dạy: “Nhân tình vi thế chi phước điền, diệc thị đạo lý chi sở do
sanh” (tình cảm của người là phước điền trong thế gian, cũng là chỗ phát sanh
ra đạo lý).
Làm chủ trong
ngôi già lam, được đại chúng suy tôn là bậc thiện tri thức, có trách nhiệm thay
thế Phật, Tổ gánh vác Phật pháp, lẽ tất nhiên chỗ hành trì đạo pháp của ngài
phải siêu thắng hơn người. Tuy nhiên, vấn đề thọ hưởng phải tương đương với đại
chúng. Nói một cách khác, phải cùng với đại chúng đồng cam cộng khổ (cam là
ngọt, khổ là đắng). Ý nói vị trụ trì phải cùng với đại chúng sống đồng như nhau
về mọi sự hưởng thụ:
- Về mặt ăn uống
thì ngon ngọt, cay đắng đồng thọ hưởng.
- Về phương diện
việc làm thì vui khổ có nhau.
Không phải một
đàng thì thong thả suốt ngày, một đàng thì cực nhọc quanh năm. Không nên sống
một nếp sống trên cao, tạo sự cách biệt với đại chúng. Có như vậy, đại chúng
mới phục tùng.
Làm một vị chủ
trong ngôi già lam, điều cao quý nhất là ở nơi biết giữ gìn hạnh kiểm. Bản thân
mình phải thanh tịnh, khiết bạch, không có một tỳ vết chi để người khác có thể
chỉ trích. Đến như việc ứng cơ tiếp vật thì lại càng phải giữ gìn trong sự đối
đãi với hàng nạp tử (1) để có được sự tín nhiệm trọn vẹn trong bốn phương. Nếu
không như thế thì không thể làm cho người tín phục và cũng khó làm cho đại chúng
chấp nhận sự lãnh đạo của mình.
4. Hành chủ giáo
hóa (giảng sư): Vị giáo hóa người trong đạo gồm cả hàng Phật tử tại gia, khiến
cho họ tu các phước nghiệp. Như trong trường hợp kiến trúc tu viện, xây dựng
tháp Phật, và những việc thuộc về nhu yếu kinh tế của đại chúng. Những việc này
nhờ tiền quyên góp do Phật tử hiến cúng; nhưng vì Phật tử tại gia không biết
được nhu cầu thiết yếu của tăng chúng nên phải cần đến sự khuyến hóa của vị chủ
giáo hóa .
Từ xưa đến
nay, Phật giáo lưu hành trên thế gian có lúc thạnh, lúc suy bất thường. Đó là
do những nhân duyên khác nhau tạo ra. Nhưng thực tế có thể là do việc giáo hóa
mà nên. Vì thế, đối với Phật giáo. thời kỳ nào cũng không thể thiếu vị giáo hóa
được.
5. Hành chủ tọa
thiền (thiền sư): Người dạy cho Phật tử pháp môn Thiền Định. Vị này rất thông
đạt về Thiền pháp, truyền dạy phương pháp tu tập Chỉ - Quán. Việc tọa thiền, tu
định không phải dễ dàng hay tùy ý thực hành mà cần phải có người truyền trao và
chỉ dạy mới không bị lạc vào ma đạo mà không tự hay biết.
Vì thế,
nếu có vị hành giả biết rõ tất cả phương pháp tọa thiền, khi có người nào muốn
học thì phải theo vị thiền sư này học tập. Vị thiền sư phải đem tất cả kinh
nghiệm tọa thiền của mình chỉ dạy, không nên giữ lại mảy may, hầu giúp cho bạn
tu Thiền Định đúng như pháp, đồng thời thu nhiếp được sự thấy nghe của mình,
không còn buông lung theo vọng tưởng, nghe thấy những cảnh giới loạn động bên
ngoài. Nhờ đó, bạn có thể dứt trừ được những thị dục tà tịch, bỏ hẳn được quan
niệm lợi dưỡng ngoại lai. Như thế mới là chính đáng, đúng như pháp tu
Thiền.
6. Hành
chủ hành lai (tri khách): Vị có trách nhiệm tiếp đãi chúng Tăng tứ phương qua
lại, tức là các vị tri khách hoặc tri tân trong các tòng lâm.
Các tăng nhân vì
muốn tham phỏng hành đạo, nên thường hành cước các nơi. Khi có những tăng nhân
từ xa đến tự viện, bổn phận của vị Tri Khách Sư là phải tiếp đãi ân cần, tử tế,
phải đưa rước, sắp đặt chỗ ngơi nghỉ, cung cấp thức ăn uống chu đáo, không để
cho chư vị phải khổ cực vì việc sinh nhai trong thời gian tham phỏng. Luôn luôn
tạo cho chư vị cảm tưởng “tân chí như quy” (lúc mới đến cũng như lúc ra
đi).
Vì thế làm
một vị Chủ Hành Lai, điều quan trọng là phải từ bi tiếp chúng, tuyệt đối không
được tác oai, tác phúc, luôn tìm kiếm lỗi lầm của chư vị hành cước tăng nhân,
cũng không được ỷ oai quyền quở trách, đánh mắng, hoặc gây ra những sự phiền
toái cho chư vị. Đây là những điều mà một vị Chủ Hành Lai cần phải thi
hành.
Trên đây
là sáu chức vụ và những chức vụ này đều có quyền thống ngự nên gọi là Chủ. Bất
cứ người nào làm chủ phần hành nào đều phải lấy nhân nghĩa làm gốc và phải
triệt để tôn trọng. Nên kinh văn dạy người làm chủ phải có tâm từ bi đối đãi
với đại chúng.
Chú
thích:
(1) Nạp tử: danh
từ này do từ “nạp y” mà ra, dùng để chỉ cho người xuất gia. Nạp y còn gọi là
Phấn Tảo Y (phấn: chỉ cho phẩn uế; tảo: chỉ sự quét dọn rác rến trong nhà, hoặc
quét dọn những mảnh vải vụn rách. Y: những mảnh vải cũ vụn). Nghĩa chung là
nhặt lấy những vật hèn tệ mà người vất bỏ, đem về giặt giũ sạch sẽ, chằm vá may
lại thành Pháp Y. Tỳ kheo mặc nạp y là một trong mười hai hạnh Đầu Đà. Trong bộ
Thích Thị Yếu Lãm, quyển thượng nói:
“Phấn tảo y
có năm thứ (y: căn cứ theo sự giải thích ở trên):
- Y vất bỏ nơi vệ
đường.
- Y vất bỏ nơi mé
sông.
- Y vất bỏ nơi chỗ
phấn tảo.
- Y bị kiến cắn
đục hư hỏng.
- Y vụn.
Lại có năm thứ
khác:
- Y bị lửa cháy.
- Y bị nước trôi.
- Y bị chuột nhấm.
- Y bị trâu bò
nhai.
- Y của sản phụ
vứt bỏ.
Những thứ trên
đây, người Ấn Độ rất húy kỵ, nên đem vất bỏ, không xài dùng. Người xuất gia
nhặt lấy, giặt sạch, nối lại may thành pháp y, nên gọi là “phấn tảo y”.
Mặc nạp y có mười
điều lợi như trong Luật Thập Tụng nói:
- Nạp y ở vào số y
thô xấu.
- Mặc nạp y để bớt
đi sự cầu xin.
- Mặc nạp y có thể
tùy ý mà ngồi (không cần chọn chỗ sạch).
- Mặc nạp y có thể
tùy ý mà nằm.
- Dễ giặt
giũ.
- Ít bị trùng cắn
hư.
- Dễ ăn các phẩm
nhuộm.
- Khó bị hư
rách.
- Không thay đổi y
khác.
- Mặc y, đối với
việc cầu đạo sẽ không thối thất.
Tuy nhiên, có hai
trường hợp không nên mặc y:
- Khi hiện tướng
phước điền (thọ nhận sự lễ bái, cúng dường của người).
- Khi vào trong tụ
lạc.
(2) Hành cước
tăng: chỉ các vị thiền sư làm kẻ lữ hành trong giới tu hành. Trong bộ Tổ Đình
Sự Uyển, quyển tám nói:
“Sao gọi là hành
cước tăng?
Là người xuất gia
học đạo, xa lìa xóm làng, cha mẹ, bà con, quyến thuộc, thân du hành khắp trong
thiên hạ, thoát ly trần tục, vất bỏ hệ lụy, kiếm tìm minh sư, thiện hữu, để học
hỏi cầu pháp chứng ngộ, gọi là Hành Cước Tăng”.
(3) A Già Đà:
Trung Hoa dịch là Phổ Khử, là Vô Giá, Vô Bịnh hoặc Bất Tử Dược, là loại thuốc
vò thành hoàn. Trong bộ Huyền Ứng Âm Nghĩa, quyển 14 nói: “A Yết Đà dược còn
gọi là A Kiệt Đà, hay A Già Đà, Trung Hoa dịch là Hoàn Dược”.
Trong bộ Huệ Lâm
Âm Nghĩa, quyển hai mươi lăm nói:
“A Kiệt Đà
dược:
- A: Trung Hoa
dịch là Phổ.
- Kiệt Đà dịch là
Khử.
Nghĩa là vị thuốc
này khử trừ tất cả các thứ bệnh tật, nên gọi là Phổ Khử. Lại nữa:
- A còn dịch là
Vô.
- Kiệt Đà dịch là
Giá.
Có nghĩa công dụng
của thuốc này rất cao, quý giá vô lượng, nên gọi là Vô Giá”.
Trong bộ Huệ Uyển
Âm Nghĩa, quyển thượng nói:
“A dịch là Vô,
Kiệt Đà dịch là Bệnh. Nghĩa là: nếu người nào uống được thuốc này sẽ không bao
giờ mắc bệnh nên gọi là Vô Bệnh”.