KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương III:
CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.1.1.8. XAN TÍCH GIA HỦY GIỚI
(bỏn xẻn lại
thêm hủy báng)
Kinh
văn:
1. Phiên
âm:
Từ câu “Nhược
Phật tử tự xan, giáo nhân xan...” cho đến câu ‘Thị Bồ Tát Ba La Di
tội”.
2. Dịch
nghĩa:
Giới bỏn xẻn
thêm mắng đuổi. Nếu Phật tử tự mình bỏn xẻn, bảo người bỏn xẻn: nhân bỏn xẻn,
duyên bỏn xẻn, cách thức bỏn xẻn, nghiệp bỏn xẻn. Phật tử khi thấy những người
bần cùng đến cầu xin, phải cấp theo chỗ cần dùng của họ. Nếu không như thế lại
đem lòng giận ghét, cho đến không cho một mảy. Nếu có người đến cầu học giáo pháp,
cũng chẳng nói một câu, một kệ, lại còn xua đuổi quở mắng. Phật tử này phạm Bồ
Tát Ba La Di tội.
Lời giảng:
Mục đích của
giới khen mình, chê người là vì muốn mong cầu danh dự, lợi dưỡng; nhưng vì khi
mong cầu chưa được danh dự, lợi dưỡng nên sanh ra thủ đoạn khen mình, chê
người.
Giới bỏn xẻn lại
thêm hủy nhục xuất phát từ nơi lợi dưỡng đã thuộc về phần sở hữu của mình, muốn
cất chứa cho kỹ, bỏn xẻn, yêu tiếc, không chịu bố thí cho người.
Giới trước so ra
có phần thô phù, trong khi giới sau thì có phần vi tế hơn. Vì vậy, nên sắp đặt
thành thứ tự trước sau như vậy.
Trong kinh, Phật
dạy Xan (bỏn xẻn) cùng với Tham có chỗ bất đồng.
Tham là ham muốn
không biết nhàm chán. Khi lợi dưỡng chưa thuộc về mình, cần phải tìm mọi cách
làm sao cho vừa lòng thỏa ý. Thế nên luôn tìm nhiều biện pháp để cầu cho được càng
nhiều càng tốt, không bao giờ cho là vừa đủ.
Xan là bỏn xẻn,
không xả thí. Phàm những tài vật thuộc về phần sở hữu của mình, bất luận tiền
tài, tri thức hay năng lực đều tuyệt đối ôm giữ riêng cho mình. Dù bất cứ ai
đến nhờ mình trợ giúp cũng không bao giờ giúp đỡ cho họ mảy may, hoặc cho chút
ít, cũng thấy đó là mối tổn thất rất to lớn.
Trên đời này,
những hạng người tham không biết đủ thật rất nhiều. Người bỏn xẻn không xả thí
cũng nhiều như vậy và nơi nào cũng vậy. Con người chính là như vậy nên khi được
người đem tài lợi đến thì rất hoan hỷ, còn khi phải đưa ra thì lại không vui
lòng.
Đúng theo lẽ
phải, nhân loại sanh tồn trên thế gian phải giúp đỡ lẫn nhau. Đem chỗ hữu dư bổ
vào phần bất túc. Không nên chỉ biết có sự giàu sang cho mình mà không nghĩ gì
đến sự chết sống của người.
Làm một đại sĩ,
đã phát Bồ Đề tâm, trong khi nhiếp hóa chúng sanh, phải y nơi tâm từ bi của
mình, bố thí những nhu dụng cho tất cả chúng sanh, vì bố thí là cơ bản của muôn
hạnh. Hiện tại nếu người đến chỗ của bạn cầu xin hay khất cầu chánh pháp hoặc
tài vật; nếu bạn không đem hết khả năng của mình cấp cho người vật ấy thì đã là
một việc không nên làm, huống chi lại tỏ thái độ phẫn nộ, hủy nhục một cách vô
tình đối với họ, như vậy làm thế nào gọi là Bồ Tát?
Vì vậy, đối với
Bồ Tát sự bỏn xẻn và hủy nhục là tội rất nặng. Nếu chỉ bỏn xẻn mà không hủy
nhục hay chỉ hủy nhục mà không bỏn xẻn thì chỉ kết tội khinh cấu chứ không phải
là căn bổn trọng tội.
Đối với người
đến cầu xin, mà bỏn xẻn không cho là tham phiền não; đối với người đến van xin
mãi không chịu đi mà nổi giận hủy nhục họ là lỗi của sân phiền não.
Tham hoặc Sân
đều là do vô tri sai sử. Đó chính là si phiền não. Do đó, nếu hủy phạm giới này
tức là gồm đủ ba độc. Nên chẳng những Bồ Tát có thể vi phạm mà cả thất chúng
Phật tử cũng đều khó tránh khỏi. Luận giải về vấn đề này giữa Đại Thừa và Tiểu
Thừa có chỗ bất đồng:
- Theo quan điểm
của Đại Thừa, trách nhiệm của Bồ Tát là lợi tha. Dù mình với người có quan hệ
hay không thì bổn phận của mình vẫn phải giáo hóa. Nên khi có người đến cầu xin
phải bình đẳng bố thí. Nếu không bố thí lại còn hủy nhục thì trái với Tam Tụ
Tịnh Giới của Bồ Tát nên phải phạm trọng tội.
- Còn hành giả
Thanh Văn bên Tiểu thừa vì chỉ trọng nơi tư lợi, nên chỉ có trách nhiệm giáo
hóa, khai thị đối với đệ tử xuất gia của mình. Nếu không đem chánh pháp truyền dạy
đệ tử mới vi phạm giới, nhưng không phạm căn bổn trọng tội, mà chỉ phạm tội
Đột-kiết-la trong Thất Tụ.
Còn trường hợp
thầy không cấp tiền tài cho đệ tử, chưa thấy trong giới luật quy định vào tội
gì. Vì chúng xuất gia lấy việc trì bình khất thực nuôi sống nên bổn phận của
Thầy không cần phải cấp tiền tài cho đệ tử.
Riêng bên Tăng
chúng được tín đồ cúng dường, không cần phải nhờ nơi thầy. Chỉ trong trường hợp
của Ni chúng, trong khoảng thời gian mới xuất gia 2 năm đầu, vì tự mình chưa
thể tự lập, cũng không dễ dàng đi khất cầu được tài pháp, nên phải nhờ sự cung
cấp của sư trưởng. Vì thế, bổn phận làm thầy, nếu không dạy bảo chánh pháp và
cấp cho tiền tài để ni chúng an tâm tu học thì phạm Ba Dật Đề, thiên thứ ba
trong năm thiên. Sau hai năm xuất gia, ni chúng có thể tự mình dần dần tự lập.
Dù thầy không bố thí tài pháp, nhưng cũng không quan hệ lắm.
Sở dĩ Phật chế
ra giới điều này vì Bồ Tát phát Bồ Đề tâm phải lấy việc nhiếp hóa chúng sanh
làm cơ bổn. Mà bố thí tài pháp cho chúng sanh là phương tiện tối thắng cho việc
nhiếp hóa chúng sanh.
Nếu Bồ Tát thật
không có tài pháp để bố thí cho chúng sanh thì phải nhã nhặn nói với chúng sanh
rằng: “Tôi rất lấy làm hổ thẹn vì phước đức của tôi quá kém, không thể làm mãn
nguyện cho quý vị. Lỗi này không phải là lỗi của quý vị, mà thật là lỗi của
tôi. Tôi nguyện cố gắng tu trì, tương lai sẽ làm mãn nguyện cho quý
vị”.
An ủi chúng sanh
và biểu lộ ý khiêm nhường của mình như vậy rồi, nếu không bố thí cho chúng sanh
cũng không phạm tội. Nếu Bồ Tát hiểu biết chánh pháp và thật sẵn có tiền tài,
nhưng vì tánh bỏn xẻn, không lấy tâm từ bi của mình mà thực hành huệ thí, là trái
với đại đạo Bồ Đề của Bồ Tát, nên Phật đặc biệt chế thành trọng tội. Một vị Bồ
Tát nếu bỏn xẻn, không thực hành hạnh bố thí thì tổn thương cho đại hạnh của Bồ
Tát. Cho nên bất cứ trường hợp nào, Bồ Tát đều phải tìm cách bố thí mới hợp với
pháp khí của Đại Thừa.
Nhưng phải tu
tập bố thí cách nào mới là đúng pháp?
Trước tiên phải
nghĩ đến những việc sau đây:
- Sanh mạng nhục
thể này cũng như tiền tài, bảo vật của mình đều như bọt nước, không lâu dài.
Thân này theo thời gian sẽ băng hoại. Tiền tài, bảo vật cũng tùy thời bỏ chúng
ta ra đi. Ngày nay, tài bảo là sở hữu của ta, nhưng biết đâu ngày mai kia sẽ
trở thành của kẻ khác. Và những kim ngân tài bảo đó, không phải vì sự bỏn xẻn
yêu tiếc của ta mà có thể giữ gìn được bên ta vĩnh viễn. Đó là một sự thật muôn
đời, bất cứ nơi nào và bất cứ người nào, không ai có thể phủ nhận điều đó, thì
thử hỏi, bạn bỏn xẻn yêu tiếc kim ngân tài bảo, rốt lại tự mình có lợi ích
gì?
Hành giả Bồ Tát
nếu từng giờ phút tưởng đến điều ấy, tự nhiên thường ưa thích việc bố thí,
không lẫn tiếc chút mảy may.
Suy tư rằng
tài bảo ở thế gian, nhất định không phải là vật sở hữu của riêng ai, mà là vật
của năm nhà:
1. Những đứa con
bất hiếu, xài phí, phá sản.
2. Giặc nhà
vua hung bạo.
3. Giặc giặc
cướp vét sạch đem đi.
4. Khi gặp
tai nạn hỏa hoạn, của cải, tài bảo gia đình thành đống tro tàn.
5. Tai nạn
bão lụt: chỉ trong khoảnh khắc, tài sản bị trôi ra bể cả.
Như thế tại
sao trước khi năm nhà thay thế mình phân tán tài sản, tự tay mình trước không
lo đem của ra bố thí, thực hành việc công đức? Của ấy mới thật là tài bảo vĩnh cửu,
cất kỹ trong kho tàng kiên cố. Khi suy nghĩ như thế, tự nhiên hành giả sẽ rất
ưa thích thực hành công đức bố thí.
Bồ Tát vì
lợi ích chúng sanh, phải thường bố thí cho chúng sanh. Nhưng trên thực tế, nếu
không đủ khả năng bố thí, vì trong thời quá khứ không tu nhân bố thí, nên đời
đời kiếp kiếp bị khổ nghèo cùng không thể tự cứu. Hiện tại nay may mắn sinh ra
trong nhà có sẵn tài bảo, có thể đem ra bố thí mà không bố thí thì chẳng phải
là hành động làm tăng trưởng tâm bỏn xẻn, tham tiếc của cải của bạn hay
sao?
Nếu tập quán
bỏn xẻn tăng trưởng mãi không thôi, do nhân ấy sẽ bị quả nghèo cùng, không thể
tiến hành công đức bố thí rộng lớn. Như vậy làm thế nào thú hướng đến quả đại
Bồ Đề? Huống chi do nghiệp lực bỏn xẻn không xả thí của nhiều kiếp quá khứ,
chúng ta bị khổ quả bần cùng, đói khát. Chính mình ở trong cảnh khổ thì làm sao
có thể đúng như pháp làm lợi ích cho chúng sanh một cách rộng lớn.
Vì thế hiện tại,
chúng ta phải tận lực hành bố thí lợi ích cho chúng sanh. Dù cho mình phải bị
hết sức nghèo cùng, thậm chí vì bố thí mà phải hy sinh cả sinh mạng cũng quyết lòng
không để chúng sanh đến chỗ mình cầu xin phải trở về với hai tay không. Huống
chi chúng ta dù có bố thí cho chúng sanh cũng vẫn còn những tài vật dư thừa để
duy trì sự sống của mình.
Cho nên dù bố
thí mà phải bị nghèo cùng đến thế nào chăng nữa, chúng ta cũng phải nhẫn thọ
cảnh nghèo khổ, mà thực hành những hạnh bố thí cần phải thực hành.
Lại nữa, chúng
ta đã đối trước Đức Phật, đầu tiên phát đại Bồ Đề tâm, lập thệ từ đây về sau sẽ
đem cả thân tâm trong ngoài xả thí. Giờ đây, sao lại có thể vi bội bổn thệ
ấy?
Nếu chúng ta
trái nghịch với bổn thệ, tức đã phụ lòng kỳ vọng của chúng sanh đối với chúng
ta, và cũng là khinh dối mười phương chư Phật, tội lỗi này nặng biết dường
nào?!
Vì thế, bất cứ
phương diện nào, vạn vạn lần chúng ta đều phải giữ gìn lời thệ nguyện chính
mình đã phát. Chẳng những xả thí tài bảo bên ngoài, mà nếu phải hy sinh cả tính
mạng bên trong, cũng không luyến tiếc mảy may.
Tại sao vậy?
Vì nhục thân này
cùng tài bảo đều là vật mong manh, không bền chắc, như vậy chúng ta luyến tiếc
bỏn xẻn để làm gì? Thế nên cần phải đem vật mong manh, không bền chắc đổi lấy
Pháp Thân thanh tịnh, kiên cố mới hợp đạo. Bồ Tát nếu thường tư duy như thế thì
không một tài vật nào không dám xả thí, cũng không bao giờ chính mình hiểu biết
chánh pháp, lại không vì người giảng nói.
Bồ Tát thực hành
bố thí là việc thiên kinh địa nghĩa, không còn giá trị nào hơn. Nhưng vào những
trường hợp nào, Bồ Tát không bố thí mà vẫn không phạm tội?
Phải biết bố thí
chẳng những làm cho chúng sanh được an vui mà còn phải khiến cho chúng sanh
được đại lợi ích.
Nếu Bồ Tát thấy
rõ xả thí chỉ có thể khiến chúng sanh được an lạc, nhưng không giúp cho chúng
sanh được đại lợi ích, hoặc thậm chí an lạc và lợi ích cả hai đều không thì không
nên bố thí.
Hoặc nếu chúng
sanh yêu cầu một cách vô lý như họ khẩn thiết cầu xin bố thí các thứ thuốc độc
để giải quyết mạng sống của chính bản thân họ, hoặc xin gươm dao, súng ống để
hại mạng chúng sanh khác, hoặc đòi rượu thịt để ăn nhậu.... Bồ Tát dù sẵn có
những thứ ấy cũng không nên bố thí chho những kẻ đó. Nếu bố thí cho họ những thứ
trên, thì chẳng những không có công đức, lại còn trái nghịch với bi nguyện độ
sanh của Bồ Tát.
Lại như trường
hợp chúng sanh bị bệnh, đến Bồ Tát cầu xin thuốc để trị bệnh. Bồ Tát tùy theo
khả năng của mình mà bố thí thuốc cho chúng sanh. Nhưng nếu bệnh nhân xin những
vật thực không thích hợp cho sự ăn uống hoặc sử dụng, hoặc nếu họ yêu cầu những
nhu dụng quá mức, thì Bồ Tát không thể cấp thí cho.
Lại có những
hạng chúng sanh đã ăn uống quá no đủ, nhưng vì sự tham lam, thèm muốn mà cầu
xin bạn những thức ăn ngon quý. Bạn dù có sẵn, nhưng nên giữ lại để cấp cho
những chúng sanh khác đang cần hơn. Không nên ban phát cho những hạng chúng
sanh đã no đủ.
Lại nữa, là vị
Bồ Tát mới phát tâm, bạn chưa thể xả thí đầu, mắt, tủy, não, nếu có người đến
xin các thứ ấy, bạn cứ thản nhiên trả lời rằng: “Hiện tôi không thể làm những
việc khó làm ấy, trong tương lai, khi tôi đã thành thục các thiện căn ấy, tôi
sẽ bố thí không luyến tiếc mảy may nào”.
Đức Phật đối với
đại chúng dạy rằng: “Nếu Phật tử là một vị Bồ Tát phải đem tài pháp bố thí để
nhiếp hóa chúng sanh. Đấy là nhiệm vụ đầu tiên và duy nhất của Bồ Tát. Làm Bồ
Tát mà không thực hành bố thí là không phù hợp với tư cách của Bồ Tát. Cho nên,
bất luận tự xan hay giáo nhân xan đều trái với bản thệ của Bồ Tát, và làm bại
hoại Bồ Tát hạnh”.
- Tự xan: tự
mình bỏn xẻn, không đem tài pháp bố thí cho người.
- Giáo nhân xan:
dạy bảo, khuyên người bỏn xẻn, không bố thí tài pháp cho kẻ khác.
Bỏn xẻn không bố
thí là hành động không đúng với tư cách của Bồ Tát, huống chi lại thêm hủy nhục
chúng sanh?
Tục ngữ nói:
“Giúp người khi bận rộn đấy là bổn phận đồng tình, không giúp được người khác
lúc bận rộn đấy cũng là bổn phận”.
Giúp người trong
cơn bận rộn, người sẽ cảm ơn mình. Không giúp được người lúc bận rộn, người
cũng không buồn trách gì mình, nhưng tuyệt đối không nên nói với người những
lời khiếm nhã, khiến họ đau khổ, thậm chí đi đến chỗ tuyệt tình giao hảo. Người
thế gian thông thường còn phải như vậy, huống chi vị Bồ Tát có đủ tâm lượng từ
bi?
Bồ Tát đầu tiên
lúc phát đại tâm là vì muốn cứu hộ chúng sanh, phải giải quyết sự đau khổ khó
khăn cho chúng sanh. Nên nếu trường hợp bạn không đủ khả năng để thực hiện hạnh
nguyện, thì phải tự hổ thẹn, tại sao lại còn có thể chửi bới, mạ nhục những
người đến cầu xin? Chính mình hủy nhục người đến cầu xin đã là một việc không
thể chấp nhận, lại còn xúi bảo người hủy nhục chúng sanh thì còn gì là tư cách
của một vị Bồ Tát?
Bỏn xẻn thêm hủy
nhục người: cả hai trường hợp này tội trạng đồng nhau.
1. Có người đến
bạn để yêu cầu sự giúp đỡ. Bạn không muốn cho họ gì cả, nhưng kẻ ấy vẫn cứ van
nài, và bạn lúc ấy không chút kiêng dè, vị tình, trước mặt kẻ ấy mạ nhục họ một
trận để họ không còn van xin nữa.
2. Hoặc bạn
viết thư bảo người khác bỏn xẻn, mạ nhục những người đến cầu xin, khiến kẻ ấy
có thái độ không tử tế, đôi khi thốt ra những lời lẽ khiếm nhã đối với những
người đến xin giúp đỡ.
Giới này bao
gồm bốn điều kiện: nhân, duyên, pháp, nghiệp, lược giải như sau:
1. Xan nhân
(nhân bỏn xẻn): chúng sanh từ vô thỉ đã sẵn có tâm bỏn xẻn trong tạng thức.
Hiện tại khởi tâm niệm bỏn xẻn, đó chính là nhân, nên gọi là nhân bỏn
xẻn.
2. Xan duyên
(duyên bỏn xẻn): tâm niệm bỏn xẻn tiếp nối không gián đoạn, nên khi có ai đến
khất cầu tài pháp, tâm liền không vui thích, đem che giấu tài vật không cho,
hay không hoan hỷ nói pháp cho người. Đấy là duyên bỏn xẻn.
3. Xan pháp
(cách thức bỏn xẻn): nếu như có người đến, quyết tâm cầu xin. Bạn liền tìm
những phương cách khéo léo để khỏi bố thí tài pháp cho người, ấy là xan
pháp.
4. Xan nghiệp
(nghiệp bỏn xẻn): do ba thứ trên hòa hiệp lại tạo thành nghiệp bỏn xẻn.
Nói một cách
đúng lý là một vị Bồ Tát, đối với tất cả những người bần cùng đến cầu xin, đều
phải theo chỗ cần dùng của họ mà cung cấp một cách vô điều kiện. Tuyệt đối
không nên có hành động làm lưu nạn.
Tất cả những kẻ
bần cùng, nói chung là những người dù có quan hệ thân thiết với mình hay không
có mối liên quan nào cả. Cũng không phân biệt là những người gần gũi bên cạnh hay
những người ở cách xa v.v... chỉ cần những người ấy thật sự có nhu cầu, thì bổn
phận của Bồ Tát là phải đem hết khả năng của mình bố thí cho họ khiến họ được thỏa
mãn theo đúng chỗ mong cầu.
Theo Phật pháp,
người bần cùng có hai loại:
1 Thân bần cùng:
những người nghèo nàn, thiếu thốn, sự sinh sống rất khó khăn, đến nỗi ảnh hưởng
nguy hại đến sự sanh tồn của sanh mạng. Chúng ta nên biết rằng: bất cứ hạng
người nào khi đến người năn nỉ, cầu xin, đều là vạn bất đắc dĩ mới mở miệng. Vì
nếu có thể sống cho qua kiếp sống, quyết không bao giờ họ đến người cầu cạnh,
van xin. Đây là nói những người biết liêm sỉ.
Nhưng cũng có
những hạng người vô lương tâm, không liêm sỉ. Thật sự không ở trong hoàn cảnh
thiếu thốn mà vẫn giả dối cầu xin cho thật nhiều. Do đó, nếu có người đến bạn
cầu xin: Họ cần y phục, bạn nên cấp cho y phục, cần thức uống ăn nên cấp cho
thức uống ăn. Cần chỗ ở nên cấp cho chỗ ở. Cần những nhu yếu phẩm để sinh sống
nên cấp cho họ những nhu yếu phẩm để cho sinh mạng của họ được tiếp tục sinh
tồn.
2. Tâm bần cùng:
những hạng người thiếu thốn về tri thức nội tâm, tinh thần trống rỗng. Chẳng
hạn đối với lịch sử, họ mờ mịt không biết gì, là bị thiếu thốn về kiến thức
lịch sử, bị chứng bần huyết về lịch sử rất nghiêm trọng.