KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương II:
CHÁNH THÍCH KINH VĂN
(Chánh thức giải thích kinh văn)
A.2. THUYẾT PHÁP DUYÊN KHỞI
(khởi sự thuyết pháp nhân
duyên)
Kinh văn
1. Phiên
âm:
Nhĩ thời, Phật
quán chư Đại Phạm Thiên Vương võng la tràng, nhơn thị thuyết vô lượng thế giới
do như võng khổng, nhứt nhứt thế giới, các các bất đồng, Phật giáo môn diệc như
thị.
2. Dịch nghĩa:
Lúc bấy giờ,
nhân khi xem mành lưới bảo tràng của Đại Phạm Thiên Vương, Đức Phật vì đại
chúng mà giảng kinh Phạm Võng. Ngài dạy rằng: “Vô lượng thế giới dường như lỗ lưới.
Mỗi mỗi thế giới đều khác nhau, khác nhau đến số vô lượng. Giáo pháp của Phật
cũng lại như vậy”.
Lời giảng
Đoạn kinh văn
nói trên, nói rõ do nhân duyên nào Đức Phật khởi sự thuyết pháp. Điều này trong
phần giải thích đề mục đã nói rõ:
Nhân lúc ngự
trong cung của Đại Phạm Thiên Vương, Đức Phật giảng pháp môn Tâm Địa. Khi ấy,
quý Đại Phạm Thiên Vương mang mành lưới bảo tràng đến để cúng dường Đức Phật và
chư vị có ý muốn gần gũi Đức Phật để nghe tuyên pháp yếu.
Bấy giờ, Đức
Phật nhân dịp xem mành lưới bảo tràng của Đại Phạm Thiên Vương, Ngài phát sanh
cảm nghĩ sâu xa và vì đại chúng tuyên nói những sự sai biệt của vô lượng thế
giới trong mười phương giống như lỗ lưới.
Mỗi thế giới đều
khác nhau, khác nhau đến vô lượng. Sự an lập của các thế giới đều bất đồng. Có
thế giới ngửa, có thế giới úp, có thế giới thanh tịnh, có thế giới uế trược...
trong đồng có biệt, trong biệt có đồng. Đồng, biệt nương nhau mà an lập sát
võng.
- Chữ Sát thuộc
Pháp chỉ cho vô lượng quốc độ thanh tịnh, uế trược khác biệt nhau, không thể
dùng lời mà có thể giảng nói đến cùng tột.
- Chữ Võng thuộc
Dụ, nghĩa là mành lưới, là sự
an lập bất đồng của
vô lượng quốc độ trong
mười
phương cũng như
vô lượng lỗ lưới trong một mành lưới, nên gọi là Sát
Võng.
Ở đây về năng
dụ,
duy nhất chỉ có mành lưới
bảo tràng của
Đại Phạm Thiên Vương. Về sở dụ thì
có hai loại là
thế giới và
pháp môn của Phật.
Thế giới sở dụ ý
chỉ
căn cơ sở bị (
sở bị đồng nghĩa với “sở nhiếp”, ý chỉ
căn cơ của
chúng sanh
đã được
thu phục, đưa vào trong
giáo pháp của Phật).
Giáo pháp sở dụ
ý chỉ
pháp môn năng bị. Đứng về
phương diện pháp tánh bình đẳng mà nói, thì
không thể có các thứ sai khác. Nhưng vì
căn cơ thọ giáo của
chúng sanh có ngàn
muôn sai khác, nên
pháp môn của
Như Lai thi thiết đương nhiên cũng có nhiều thứ
bất đồng.
Về
căn cơ sở bị,
sở dĩ không gọi là
chúng sanh, lại gọi là
thế giới, vì
thế giới là
y báo của
chúng sanh.
Thế giới y báo này có thể trùm nhiếp cả
chúng sanh chánh báo trong
ấy.
Trong kinh thường
nói
Thập Giới là ý
bao gồm từ
Phật Giới đến
Địa Ngục Giới vậy.
Sở dĩ Đức Phật
đặc biệt dùng mành lưới
bảo tràng làm
thí dụ vì những lỗ lưới ở mành lưới này
rất nhiều, có thể nói là
trùng trùng muôn mắt,
vô lượng sự
sai biệt khác mà vẫn
xâu mắc được vào nhau một cách xuyên suốt không ngăn ngại.
Chư Phật
tùy
theo căn cơ của
chúng sanh mà thi thiết những
pháp môn sai khác
vô lượng, mà
vẫn giao suốt nhau không ngăn ngại.
Vô lượng thế giới trong
mười phương có
tịnh, có uế, có ngửa, có úp, nhưng nương theo các duyên
hòa hợp mà thành, mặc
dù có
vô lượng sai khác, nhưng vẫn giao suốt nhau không ngăn ngại.
Hoặc có nơi cho
rằng lỗ lưới của mành lưới
bảo tràng lớn, nhỏ, vuông, tròn, bất đồng, cũng như
thế giới cùng
chúng sanh thân tâm cũng sai khác, nên
Đức Phật dùng
pháp môn
giáo hóa, dẫn dắt
chúng sanh cũng phân ra
thành nhất thừa,
tam thừa sai khác
nhau.