KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương
III: CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT
THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.2.2. BIỆT
THUYẾT KHINH GIỚI
(riêng giảng các giới khinh)
B.2.2.15. TỊCH GIÁO GIỚI
(giới không được
dạy giáo lý)
Kinh văn:
1. Phiên âm:
Từ câu “nhược Phật tử tự Phật đệ tử cập ngoại đạo ác nhân...” cho đến câu “...phạm khinh cấu tội”.
2. Dịch nghĩa:
Nếu là Phật tử đối với những hạng người từ đệ tử Phật, lục thân, tất cả thiện tri thức, đến ngoại đạo, ác nhân, đều phải khuyên bảo họ thọ trì kinh luận Đại Thừa, nên giảng cho họ hiểu nghĩa lý, khiến họ phát Bồ Đề tâm, Thập Phát Thu Tâm, Thập Trưởng Dưỡng Tâm, Thập Kim Cương Tâm. Trong ba mươi tâm ấy, giảng cho họ hiểu rõ pháp dụng và tuần thứ của mỗi món. Nếu Phật tử vì ác tâm, sân tâm, đem kinh luật của Thanh Văn, Nhị Thừa cùng các bộ luận của ngoại đạo, tà kiến để dạy cho người một cách thiếu cân nhắc, Phật tử này phạm khinh cấu tội.
Lời giảng:
Giới “phóng
hỏa thiêu đốt” ở trước là để phòng ngừa sự tổn hại ở bên ngoài. Giới cấm giảng
dạy “tà tịch” này khuyên Phật tử phải nên đem Phật pháp giáo hóa, làm lợi ích,
ủng hộ bên trong nội tâm của hành giả tu học Phật pháp, tránh được những sự độc
hại của các tư tưởng khác, có thể sanh ra những hành vi chống trái. Đây là một
việc vô cùng trọng yếu.
Bồ Tát là người
tu học theo Đại Thừa, đã là một hành giả Đại Thừa, đáng lẽ phải đem giáo pháp
Đại Thừa truyền dạy cho chúng sanh, khiến cho chúng sanh noi theo pháp Đại Thừa
mà tu học, để được sự lợi ích rốt ráo thì mới phù hợp với tôn chỉ của Bồ Tát,
và xứng đáng được gọi là Bồ Tát. Cho nên trong kinh Duy Ma Cật, phẩm Phương
Tiện nói: “Khi vào những địa phương để diễn giảng, luận nghị, phải đem giáo
pháp Đại Thừa mà dẫn dắt chúng sanh” là để biểu lộ tinh thần này.
Kinh Pháp Hoa
cũng dạy: “Nếu đem giáo pháp Tiểu Thừa giáo hóa chúng sanh thì ta bị lỗi xan
tham, việc này là không thể được”.
Lời dạy trong
kinh là khuôn thước gương mẫu mà Phật tử Đại Thừa cần phải học tập.
Kinh Duy Ma Cật,
phẩm đệ tứ nói thêm: “Dùng tâm Đại Bi tán thán pháp Đại Thừa, nghĩ nhớ đền đáp
thâm ân của Phật, cần phải làm cho ngôi Tam Bảo không đoạn tuyệt, rồi sau mới giảng
nói chánh pháp”.
Bồ Tát không thể
không nói pháp, mà đã nói pháp thì phải tán thán công đức thù thắng của Đại
Thừa, khiến cho người nghe pháp phát tâm tín phụng pháp Đại Thừa để đạt đến kết
quả cứu cánh thành Phật.
Nếu người nào có
thể thuyết pháp như vậy, chẳng những có thể đền trả thâm ân của Phật, lại còn
làm cho ngôi Tam Bảo không đoạn tuyệt.
Bằng cách nào
khiến cho ngôi Tam Bảo không đoạn tuyệt?
Thường thuyết
pháp chính là làm cho ngôi Tam Bảo không đoạn tuyệt vậy!
Người nghe pháp
rồi, phát tâm xuất gia, hành Bồ Tát đạo, chính là làm cho Tăng Bảo không đoạn
tuyệt. Hành giả xuất gia hành Bồ Tát đạo kia, tương lai quyết sẽ thành Phật, là
làm cho Phật Bảo không đoạn tuyệt. Chúng ta thấy Bồ Tát đem chánh pháp giáo hóa
chúng sanh, cần phải tuyên nói pháp Đại Thừa là một điều hết sức trọng yếu. Nếu
không thực hành như thế, mà trái lại, đem giáo pháp Tiểu Thừa vì chúng sanh
thuyết pháp, điều đó, chẳng những trái với chân lý của Phật pháp, mà cũng trái
với bổn nguyện của chính mình.
Nên bất luận thế
nào, đều không thể làm như vậy được. Vì người nghe pháp, nghe bạn tuyên thuyết
giáo pháp Tiểu Thừa, sẽ hình thành một thứ thành kiến chủ yếu trước tiên, gây
chướng ngại cho việc tiến bước trên con đường Bồ Đề của họ; thậm chí còn làm
cho họ khởi tâm hủy báng pháp Đại Thừa.
Sự di hại này
không có pháp gì đánh giá được, nên kinh Đại Tập nói: “Khuyên dạy chúng sanh tu
học pháp Tiểu Thừa, đấy là ma nghiệp”. Đối với giáo pháp Tiểu Thừa, còn không
nên vì chúng sanh giảng nói, huống chi giảng nói các luận ngoại đạo, tà kiến
ư?
Người giảng nói
pháp Tiểu Thừa và các bộ luận ngoại đạo, tà kiến phải mắc tội khinh, trọng như
thế nào?
Việc này cần
phải xem xét động cơ thúc đẩy bạn như thế nào mới quyết định được.
Nếu động cơ phát
xuất từ sự hiểu lầm mà giảng nói, thì tội này rất nhẹ. Vì bạn không phải cố ý
giảng nói những lý luận ấy cho mọi người. Chỉ vì bạn lầm cho rằng những pháp
Tiểu Thừa hoặc lý luận ngoại đạo ấy đối với chúng sanh không gây tổn hại
chi.
Nếu do ác tâm mà
giảng nói cho người, thì tội có phần nặng hơn:
- Như trường hợp
nếu bạn biết rõ pháp Tiểu Thừa là không rốt ráo, các bộ luận của ngoại đạo, tà
kiến sẽ đoạn tuyệt huệ mạng của chúng sanh, nhưng vì tâm tật đố xui giục, bạn
cho rằng nếu người khác tu học Phật pháp Đại Thừa, sự tu hành sẽ siêu thắng hơn
mình. Vì thế, bạn chỉ giảng nói pháp Tiểu Thừa để cho người ấy vĩnh viễn không
thể tu học Phật pháp Đại Thừa, vĩnh viễn phải thua sút bạn.
- Hoặc do tâm
sân hận sai khiến, vì người kia có nhiều lỗi lầm đối với bạn, nhưng bạn lại
phải giảng nói chánh pháp cho người ấy, nên nội tâm bạn không thích giảng nói
pháp môn rốt ráo Đại Thừa. Bạn bèn giảng nói pháp Tiểu Thừa hay các bộ luận
ngoại đạo, tà kiến để cho người ấy không thể tiến lên con đường thành
Phật.
Những loại
thuyết pháp như vậy, tội lỗi đương nhiên sẽ rất lớn.
Đức Phật đối với
đại chúng dạy rằng: “Nếu là một Phật tử thọ Bồ Tát giới, khi muốn giáo hóa
chúng sanh, từ bậc đệ tử Phật nội chúng, đến ngoại đạo, người ác, ngoại chúng,
hoặc lục thân gồm cả nội ngoại chúng, và tất cả thiện tri thức có quan hệ với
mình đều phải mỗi mỗi khuyên bảo thọ trì kinh luật Đại Thừa nên giảng dạy cho
hiểu nghĩa lý.
Vì sao gọi Phật
tử là nội chúng? Vì Phật tử học nội giáo của Phật pháp, chuyên nghiên cứu nội
tâm của chính mình, không theo ngoại cảnh mà dong ruổi tìm cầu.
Vì sao gọi ngoại
đạo là ngoại chúng? Vì một phần trong bộ phận tư tưởng ngoại đạo không tin hệ
thống nhân quả do trước sau sanh nhau, không thừa nhận lý nhân quả thiện ác, dụ
dẫn chúng sanh vào con đường sai lầm. Cho nên, nếu không bị trượt té vào hố sâu
thường kiến cũng sa vào ao bùn đoạn kiến. Không thể dùng cáchh gì có thể từ hố
sâu ao bùn ấy mà thoát ra ngoài, đến nỗi đoạn mất hạt giống Như Lai, vĩnh viễn
bị trầm luân không bao giờ siêu thoát được.
Vì thế, trong
kinh Đức Phật từng dạy chúng ta rằng: “Tất cả chúng sanh vốn rất thuần thiện,
không có gì gọi là Tà. Sở dĩ đi vào con đường tà, hoàn toàn do sự dẫn dắt sai
lầm của của Thầy mà không biết, không hay nên bị đọa vào tam ác đạo. Thật là
đáng thương xót biết bao!”
Lục thân vì sao
bao gồm cả nội ngoại chúng? Vì lục thân có sự tín ngưỡng tôn giáo không đồng
nhau. Người thì tin theo giáo lý của Phật pháp, người lại tín ngưỡng giáo lý
của ngoại đạo. Không phải bản chất tín ngưỡng tôn giáo bất đồng, nhưng do cơ
duyên gặp gỡ của mỗi người một khác nên mới có sự tín ngưỡng sai khác.
Thiện tri thức
là những người có quan hệ với mình, như lương bằng, thiện hữu quen biết nhau,
nhưng chưa tiến vào trong Phật pháp, không phải là các vị sư phạm trong pháp
môn hay các vị pháp lữ đồng tu, hoặc các giáo thọ thiện tri thức.
Đối với tất cả
mọi người, hoặc nội ngoại chúng, hoặc lương bằng, thiện hữu như thế khi đem
Phật pháp giáo hóa, tuyệt đối không nên đem giáo pháp Tiểu Thừa giảng dạy, dẫn
dắt mà phải tuần tự giáo hóa dẫn dắt họ tu học từng bước một.
Trước tiên, phải
khuyên bảo họ thọ trì, đọc tụng kinh luật Đại Thừa, kế đó giảng dạy cho họ hiểu
rõ nghĩa lý trong kinh luật.
Kinh luật thuộc
về năng thuyên, nghĩa thuộc về sở thuyên.
Kinh luật Đại
Thừa khi họ chưa đọc tụng, dĩ nhiên phải dạy họ đọc từng chữ, từng câu. Khi họ
đọc tụng được rồi, phải vì họ giảng nói nghĩa lý trong ấy, giúp họ hiểu rõ một
cách minh bạch nội dung những vấn đề hàm chứa trong kinh luật một cách rốt
ráo.