KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương
III: CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT
THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.2.2. BIỆT
THUYẾT KHINH GIỚI
(riêng giảng các giới khinh)
B.2.2.37. MẠO NẠN DU HÀNH GIỚI
(giới cấm vào
nơi hiểm nạn)
Kinh văn
1. Phiên âm:
Từ câu “nhược Phật tử thường ưng nhị thời đầu đà...” cho đến câu “...phạm khinh cấu tội”.
2. Dịch nghĩa:
Nếu là Phật
tử mỗi năm phải hai kỳ hành Đầu Đà, mùa Đông và mùa Hạ. Trong thời ngồi thiền
kiết hạ an cư, thường dùng nhành dương, nước tro, ba y, bình bát, ngọa cụ, tích
trượng, hộp lư hương, đảy lược nước, khăn tay, dao, đá lửa, cái nhíp, giường
dây, kinh luật, tượng Phật, tượng Bồ Tát. Khi Phật tử hành Đầu Đà hạnh cũng như
lúc du phương trăm dặm, ngàn dặm, luôn mang theo bên mình mười tám món
này.
Hai kỳ hành Đầu
Đà hạnh trong mỗi năm: từ Rằm tháng Giêng đến Rằm tháng Ba và từ Rằm tháng Tám
cho đến Rằm tháng Mười. Trong hai kỳ hành Đầu Đà hạnh này phải luôn mang theo
mười tám món ấy bên mình như đôi cánh chim luôn gắn chặt vào thân chim.
Nếu đến ngày Bố
Tát, hàng tân học Bồ Tát cứ mỗi nửa tháng phải làm lễ Bố Tát tụng mười giới
trọng và bốn mươi tám giới khinh.
Lúc tụng giới,
nên ở trước tượng Phật và Bồ Tát mà tụng. Nếu chỉ có một người bố-tát thì một
người tụng. Nếu hai ba người hay đến trăm nghìn người thì cũng chỉ một người
tụng, còn những người khác thì lắng nghe.
Người tụng giới
thì ngồi cao hơn người nghe giới. Mỗi người đều đắp y hoại sắc chín điều, bảy
điều hoặc năm điều (điều là những nếp vải xếp trên y, để phân biệt thứ bậc
trong Tăng, Ni). Trong lúc kiết hạ an cư, cũng phải mỗi việc theo đúng theo
nghi thức quy định.
Lúc hành Đầu Đà
hạnh, chớ đi đến những chỗ có thể xảy ra tai nạn, những cõi nước hiểm ác, nhà
vua hung bạo, đất đai gập ghềnh, cỏ cây rậm rạp, chỗ có những ác thú: sư tử,
cọp, sói, cùng lụt, bão, hỏa hoạn, giặc cướp, đường sá có rắn rít... Tất cả noi
hiểm nạn ấy đều không được đi đến. Chẳng những lúc hành Đầu Đà hạnh, mà ngay
lúc kiết hạ an cư cũng không được đi vào những chỗ hiểm nạn ấy. Nếu cố đi vào
những nơi ấy, Phật tử này phạm khinh cấu tội.
1. Lời giảng
Bồ Tát vì
muốn hộ trì tịnh giới được trọn vẹn nên sẵn sàng nhẫn thọ những đau khổ nước
sôi, lò lửa v.v... Đấy là điều giới trước đã chỉ dạy.
Để bảo tồn sinh
mạng của chính mình, nhờ đó có thể trường kỳ tu học Phật pháp, nên đối với bất
cứ nơi nào có tai nạn, dù rất nhỏ, cũng phải hết sức tìm cách tránh xa, chính
là điểm giới này sẽ thuyết minh.
Việc tu học Phật
pháp không phải muốn làm gì thì có thể làm ngay tức khắc, mà cần phải có đầy đủ
các thứ trợ duyên mới có thể làm được. Nếu thiếu sức trợ duyên, muốn thực hành
Bồ Tát đạo một cách hoàn bị, thì thật là muôn phần khó khăn. Cho nên phải hết
sức chú ý và cẩn thận vấn đề tai nạn.
Nếu trái phạm
giới này thì phải mắc tội như thế nào?
Điều này cần
phải xem xét mức độ tai nạn ở nơi xảy ra nhẹ nhàng hay nặng, vấn đề bỏ bê sự tu
hành lâu hay mau, lời phê bình, chê bai nhiều hay ít mà quyết định. Nếu nạn xứ
nhẹ, sự bỏ bê tu hành ít, những lời phê bình, chê bai nhẹ thì mắc tội nhẹ. Nếu
ngược lại, thì tội mắc phải cố nhiên là nặng.
Những trường hợp
nào có thể nói là không vi phạm?
Điều ấy cần phải
xem tình hình thực tế lúc ấy như thế nào mà định đoạt?
- Trường hợp bạn
đi vào con đường hiểm nạn mà không hay biết, hoặc không còn con đường nào khác
thuận tiện hơn để tránh con đường hiểm đó, nên bắt buộc phải mạo hiểm đi vào. Như
thế thì không trái phạm.
- Hoặc vì hóa độ
chúng sanh, dù biết rõ con đường phía trước có nhiều hiểm nạn, nhưng vì chúng
sanh nên vẫn tiến bước, không nghĩ đến tai nạn để giúp chúng sanh được an ổn,
khỏi tai nạn, không bị thiệt mất thân mạng. Trường hợp này không trái phạm
giới.
- Hoặc trong
trường hợp mình đang trong trạng thái si mê, điên cuồng, không biết thế nào là
tai nạn, nên cứ ngớ ngẩn xông vào chỗ có tai nạn, như thế cũng không bị kết
tội.
Ai lại không
muốn tránh khỏi chỗ có tai nạn? Ai lại muốn đem sinh mạng mình rước lấy tai nạn
để làm trò cười cho nhân thế? Nhưng vì sự việc khẩn cấp không thể làm khác hơn
được. Trường hợp này không gọi là phạm giới.
Giới này thất
chúng Phật tử đều phải học và tuân hành, như trong kinh Thiện Sanh nói: “Nếu ưu
bà tắc một mình đi vào chỗ hiểm nạn, không có bạn đồng hành thì mắc tội thất
ý”.
Theo lời kinh
dạy trên, nếu trường hợp có nhiều người cùng đi, thì không phạm giới. Hành giả
Đại Thừa và Tiểu Thừa đều phải vâng giữ.
Riêng đối với
các đại sĩ Đại Thừa thì Phật chế định mười tám thứ phải mang theo bên mình, còn
hành giả Thanh Văn chỉ mang theo sáu món đồ vật tùy thân:
1. Y Tăng-già-lê
(đại y, từ 9 điều đến 25 điều).
2. Y Uất Đa La
Tăng (trung y, gồm có 7 điều).
3. Y An Đà Hội
(hạ y, gồm có 5 điều).
4. Thiết Đa La
(bình bát bằng sắt).
5. Ni-sư-đàn
(tọa cụ).
6. Đảy
lược nước.
Ngoài ra,
những điều khác không ở trong hạn lệ cấm chế. Đức Phật dạy đại chúng rằng: “Nếu
là một Phật tử đã thọ Bồ Tát giới, phải mỗi năm hai kỳ hành Đầu Đà hạnh. Mùa
Đông và mùa Hạ đều ngồi thiền, kiết hạ, an cư”.
Kinh văn nói hai
thời là chỉ hai mùa Xuân và Thu, vì hai mùa này khí hậu điều hòa thư thái,
không bị lạnh, nóng xâm tổn, vạn vật đều phơi phới tốt tươi. Là thời gian lý
tưởng cho đại sĩ du hành giáo hóa chúng sanh, để đem lại sự lợi ích cho mình
lẫn người. Nghĩa là đối với thân thể của mình không bị suy tổn, đối với thân
mạng chúng sanh không bị tổn hại. Vì thế trong khoảng thời gian hai mùa nói
trên, hành giả nên thường du hành trong nhân gian để hóa độ chúng sanh.
Đầu Đà là tiếng
Ấn Độ, Trung Hoa dịch là Đầu Tẩu, nghĩa là người Phật tử phải có tinh thần phấn
chấn, đại vô úy, phải bỏ tất cả phiền não ẩn tàng trong tâm từ vô thỉ, khiến
cho các công đức thiện căn ngày một tăng trưởng, để cầu thành tựu vô thượng
Phật đạo.
Thông thường
hạnh Đầu Đà theo các kinh nói, có mười hai thứ như sau:
1. Trụ A Lan
Nhã: ở nơi tịch tịnh xa xóm làng và người đời.
2. Khất thực:
mỗi sáng phải mang bát đi khất thực để tránh lỗi giải đãi.
3. Nạp y: chỉ
mặc áo phấn tảo.
4. Nhất tọa
thực: Mỗi ngày chỉ ăn một lần vào lúc đúng Ngọ.
5. Tiết lượng
thực: lúc thọ thực phải tiết chế, ăn vừa theo sức của mình.
6. Trung
hậu bất ẩm tương: sau giữa trưa không uống các thứ nước trái cây.
7. Trủng
gian tọa: ngồi nơi gò mả.
8. Thọ hạ
tọa: ngồi dưới gốc cây.
9. Lộ địa
tọa: ngồi nơi không che lợp.
10. Thường
tọa bất ngọa: thường ngồi chớ không nằm.
11. Thứ đệ
khất thực: lúc đi khất thực phải theo thứ tự không được lựa chọn.
12. Đản
tam y: chỉ chứa cất ba y, không được chứa dư.
Với mười
hai hạnh Đầu Đà trên, Đức Phật chủ ý là muốn cho hành giả đối với ba việc y
phục, uống ăn, và chỗ ở không sanh tâm tham trước, chỉ một mực dũng mãnh tiến
tu cho mau được giải thoát.
Hạnh Đầu
Đà không phải là giới điều của Phật chế lập, nên nếu vị nào có đủ khả năng
phụng hành thì giáo hóa càng được trang nghiêm, còn vị nào không đủ khả năng,
không thể thực hành được, cũng không phạm tội.
Lúc tiết Đông
thiên giá lạnh, trời Hạ lại quá nóng bức, nên Bồ Tát muốn đi du hành giáo hóa
chúng sanh thật có nhiều bất tiện. Thế nên cần phải ở yên một nơi, thúc liễm
thân tâm, tọa thiền, niệm Phật, tụng kinh v.v... không để tâm rong ruổi theo
cảnh trần bên ngoài, để được đắc Định, đắc Huệ. Kiết Hạ An Cư là pháp chánh
thức của Bồ Tát tỳ kheo cần phải thực hành.
Danh từ “an cư”
trong bộ Bồ Tát Sơ Tân, quyển bảy, nói:
“Thế nào gọi là
An Cư?
Là giữ gìn thân
tâm cho được tịch tịnh gọi là An, khắc định thời hạn an cư trú một nơi để tu
hành gọi là Cư”.
Đức Phật chế
định thời gian an cư là chín mươi ngày; hành giả phải ở yên một nơi, tinh tấn
dũng mãnh, gia công tu hành. Lúc Đức Phật còn tại thế, có nhiều vị nhờ an cư mà
đắc Định, hoặc có vị chứng thánh quả. Vấn đề An Cư có hai loại:
- Tiền An Cư: từ
mười sáu tháng Tư đến rằm tháng Bảy.
- Hậu An Cư: từ
mười sáu tháng Năm đến rằm tháng Tám.
Trong
khoảng thời gian này, về sinh vật vô tình thì cỏ cây rậm rạp, về hữu tình thì
trùng, kiến sản sanh quá nhiều, nên Đức Phật không cho phép tỳ kheo du hành bên
ngoài, vì e sợ gây tổn hại sinh mạng cho chúng sanh.
Từ hai chữ
“thường dùng” trở xuống là đề cập đến mười tám món tùy thân của Bồ Tát lúc du
hành giáo hóa, phải có đủ, không được thiếu một món nào. Mười tám món đó
là:
1. Nhành dương:
Dùng để cho miệng được sạch sẽ, tức là bàn chải đánh răng thời bấy giờ. Vì thời
xưa chưa có bàn chải nên dùng nhành dương thế cho bàn chải. Luật dạy dùng nhành
dương có năm điều lợi ích: chắc răng, sáng mắt, thanh tâm, tiêu bịnh phong, trừ
nhơ bẩn. Phật dạy tỳ kheo sau khi ăn uống phải dùng nhành dương, nếu không thì
phạm tội đọa.
2. Tháo
đậu (nước tro): dùng để làm cho thân thể sạch sẽ, giống như xà bông hiện nay.
Khi tắm gội phải dùng xà bông đã đành, mà sau khi đại tiểu tiện, cũng phải dùng
xà bông rửa tay cho sạch sẽ rồi mới được lạy Phật, tụng kinh v.v... nếu không
sẽ mắc tội.
3. Ba y: y
ngũ điều, thất điều và đại y. Tỳ kheo mặc ba y không giống với y phục thông
thường của người thế tục. Ý nghĩa tỳ kheo mặc ba y là diệt trừ tham, sân,
si.
4. Bình có
ba loại:
- Tịnh bình:
dùng đựng nước uống.
- Tùy dụng
bình: dùng đựng nước rửa mặt, rửa tay.
- Xúc bình
hay trược bình: dùng rửa chỗ đại, tiểu tiện. Trong Luật gọi là Tẩy Tịnh.
5. Bát:
gọi là Bát Đa La. Trung Hoa dịch là Ứng Lượng Khí. Nghĩa là thể, sắc, lượng, là
ba thứ đều ứng hợp với Luật Phật dạy. Thế thì dùng sành và sắt, không được dùng
thất bảo, kim, ngân, hoặc đồng, cây... Màu sắc thì dùng dầu mè đốt xông mà
thành. Lượng thì tùy theo lượng bụng của mỗi người mà ăn nhiều hay ít để phân
làm ba thượng, trung và hạ. Bát lớn nhất không quá ba thăng, bát nhỏ nhất không
quá một thăng rưỡi. Quý tỳ kheo chỉ dùng bát để thọ thực, cốt để tu dưỡng thân
mạng mà tu hành, không được có tâm tà vạy, mong cầu cho nhiều, cũng không được
sống theo lối tà mạng.
6. Tọa cụ:
Tiếng Phạn gọi là Ni Sư Đàn, Trung Hoa dịch là “ngọa cụ” (đồ nằm), tọa cụ (đồ
ngồi), phu cụ (như chiếu). Khi ngồi tọa thiền dùng Ni-sư-đàn trải làm bồ đoàn.
Khi ngủ dùng làm nệm nằm. Hiện nay chúng ta đem ni-sư-đàn để lễ Phật hoặc các
bậc tôn túc là hoàn toàn không đúng với ý của Phật chế lập và cũng không đúng
với cách dùng ni-sư-đàn, trong lúc niệm hương, cầm dâng lên trước Phật, thật là
đại bất kính!
7. Tích
trượng: Ấn Độ gọi là Khích Khí La. Trung Hoa dịch là Trí Trượng, Đức trượng
hoặc Tích trượng. Dùng tích trượng để tiêu biểu cho ý nghĩa dựng cao pháp tràng
của Như Lai, hoặc dựng cờ nêu của bậc hiền thánh. Tích trượng còn tượng trưng
cho trí huệ và đức hạnh của bậc thánh nhân.
8. Hộp lư
hương: Hương dùng tiêu biểu cho giới đức thơm tho bát ngát. Lư dùng để cắm
hương, cũng là tiêu biểu cho người Phật tử trì giới kiên cố. Hộp là vật để đựng
hương, đáy hộp bằng phẳng tượng trưng tâm địa của Bồ Tát bình đẳng.
9. Đãy
lược nước: Cái vợt lược nước may bằng lụa dày. Bồ Tát du hành giáo hóa trong
nhân gian, đôi khi phải dùng đến nước, nên phải dùng vợt lược nước để không làm
thương hại sinh mạng của những loại trùng nhỏ sống trong nước. Đây cũng là hành
vi biểu lộ lòng từ bi của người Phật tử.
10. Khăn
tay: Bồ Tát du hành giáo hóa trong nhân gian, tùy cảnh nhi an, không cần phải đem
khăn tay cũng được. Nhưng vì muốn giữ vệ sinh, phòng bệnh truyền nhiễm, nên đem
khăn tay tiện dùng khi rửa mặt, rửa tay, để khỏi dùng khăn của người. Hơn nữa
khăn tay là tượng trưng cho sự diệt trừ cấu nhiễm, xa lìa tâm không biết hổ
thẹn.
11 Dao cạo:
dùng để cạo râu tóc, vì Bồ Tát du hành giáo hóa nhân gian, hình tướng phải khác
người thế tục, cho nên phải thường cạo râu tóc để không bị người khác nhầm là
cư sĩ tại gia. Hơn nữa, con dao tượng trưng ý nghĩa hàng phục tử ma (phiền não
ma, ngũ ấm ma, thiên ma, tà ma).
12 Hỏa
loại: đồ dùng để lấy lửa, cũng gọi là hỏa thạch (đá lửa –
13. Cái
nhíp: dùng để nhổ gai, vì Bồ Tát hành Đầu Đà hạnh, phải đi chân không, không
được mang giày dép. Đôi khi vô ý đạp nhằm gai góc, phải dùng nhíp để nhổ gai
ra, không để gây trở ngại cho sự du hành. Nhíp còn tượng trưng cho sự nhổ gốc
rễ phiền não.
14. Giường dây:
loại giường làm bằng cách bện các thứ dây rồi đan lại mà thành. Bồ Tát đi du
hành giáo hóa, khi nào muốn nghỉ ngơi có thể mắc giường vào giữa hai gốc cây để
nằm nghỉ. Như thế, chẳng những tránh được hơi ẩm ướt của mặt đất, lại còn diệt
trừ tâm cống cao của mình, và cũng ngăn chặn tâm buông lung.
15. Kinh: lời
Phật dạy bảo, khai thị, chỉ đạo cho hàng Phật tử đúng như pháp tu hành để mở mang
trí tuệ, tăng trưởng phước đức.
16. Luật: lời
răn dạy của Phật, hàng Phật tử xuất gia lẫn tại gia phải lấy giới luật làm mô
phạm cho thân tâm. Nếu nghiêm trì ba nghiệp đúng như pháp, như luật, không trái
phạm thì sẽ được giải thoát.
17. Tượng Phật:
để chứng tỏ Phật tử từng giờ, từng phút đều không dám quên Đức Phật là đức Bổn
Sư đắc giới, cũng là bậc đạo sư tối cao của mình, hành giả lúc nào cũng mang
tượng Phật theo.
18. Tượng Bồ
Tát: Cũng để tượng trưng tinh thần không bao giờ quên bậc đồng học thiện hữu
của mình, những người tốt và quý báu nhất của mình, dù chỉ trong phút
giây.
Do đó, Bồ Tát du
hành giáo hóa chúng sanh, nhất định phải mang tượng Phật và Bồ Tát theo, để tùy
thời, tùy nơi thuận tiện mà cung kính cúng dường. Xem đó là tấm gương giúp mình
tu Bồ Tát hạnh, không vì bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào mà giải đãi.
Mười tám món kể
trên, đối với hành giả Bồ Tát không thể xa rời trong giây lát. Nếu xa lìa thì
không phải là người thực hành Bồ Tát hạnh. Do đó, chúng ta thấy rõ tính chất
trọng yếu của mười tám món này.
Cho nên kinh văn
dạy tiếp: “Khi Bồ Tát hành Đầu Đà hạnh, cùng khi du phương qua lại, dù là nơi
gần trăm dặm hay những địa phương xa nghìn dặm, mười tám thứ đồ vật này đều
phải luôn mang theo bên mình. Vì đó là những thứ thường dùng, nếu không luôn
mang theo bên mình, đến khi cần dùng mà không có thì thật là bất tiện”.
Kinh văn nói
hành Đầu Đà hạnh là chỉ thời gian nào?
Mùa Xuân từ Rằm
tháng Giêng đến Rằm tháng Ba; mùa Thu từ Rằm tháng Tám đến Rằm tháng
Mười.
Trong khoảng hai
thời gian này, khí hậu không nóng cũng không lạnh. Chính là thời gian thật lý
tưởng cho Bồ Tát du hành. Khi Bồ Tát phát tâm tu hành giáo hóa trong nhân gian,
phải luôn luôn ghi nhớ là mười tám món này là những vật bất ly thân, luôn luôn
phải có bên cạnh. Giống như chim bay trên không muốn tự do bay lượn, hoàn toàn
nhờ vào đôi cánh. Nếu không có đôi cánh thì không thể bay được. Phải biết rằng
Bồ Tát du hành giáo hóa nhân gian cũng như thế, nếu không mang theo 18 món này,
thì việc du hành sẽ gặp trở ngại không ít.
Nếu đến ngày bố
tát, hàng tân học Bồ Tát mới thọ giới, đối với nghi thức tụng giới thông thường
và những tội khinh hoặc trọng của giới tướng mà mình không biết, không rõ thì
cần phải tinh tấn Bố Tát. Mỗi nửa tháng tụng mười giới trọng, bốn mươi tám giới
khinh, cố gắng giữ gìn và luôn kiểm điểm những giới điều mình đã thọ, xem có vi
phạm hay không. Nếu có vi phạm thì phải đối trước tượng Phật, Bồ Tát phát lộ
sám hối, còn nếu không trái phạm thì phải càng thúc liễm thân tâm hơn nữa, để
tránh sự buông lung trái phạm cấm giới.
Đến ngày tụng
giới thì phải tụng ở nơi nào?
Khi Phật còn tại
thế thì chính kim khẩu của Phật tụng. Sau khi Phật diệt độ, Phật tử phải đối
trước hình tượng Phật, Bồ Tát để tụng. Nếu ở trong Tăng Già Lam, khi tụng giới
Tiểu Thừa thì toàn thể đại chúng phải tụ họp ở giới đường mà tụng.
Khi tụng giới
Đại Thừa thì đại chúng phải tụ họp ở trên điện Phật mà tụng, để tượng trưng có
Tam Bảo hiện tiền.
Hiện tại giới
này đề cập lễ Bố Tát của Bồ Tát khi đang du hành giáo hóa. Vì trong mười tám
món mang theo có kinh luật, tượng Phật và tượng Bồ Tát, nên lúc tụng phải ở
trước tượng Phật, tượng Bồ Tát mà tụng, để có Phật, Bồ Tát chứng minh, đồng
thời chứng tỏ đại sĩ tụng giới không khác với Phật và Bồ Tát. Cho nên không nên
tùy tiện tụng bất cứ ở nơi nào cũng được.
Trong lúc tụng
giới, pháp thức tụng giới như thế nào?
Nếu chỉ có một
người bố tát, thì đương nhiên một người tụng. Nếu hai, hoặc ba người, nhẫn đến
trăm nghìn người cùng tụ tập một chỗ để bố tát thì cử ra một người trong đó tụng
giới, còn bao nhiêu người còn lại chỉ lắng nghe, không nên đồng tụng để tránh
sự nhiễu loạn tâm ý của những người nghe.
Người tụng nên
ngồi trên cao, để cho âm thanh tụng giới đến tai người nghe được dễ dàng.
Người nghe giới
nên ngồi thấp để chứng tỏ tâm tôn trọng người và pháp, không có tâm khinh
người, mạn pháp.
Lại nữa, người
tụng lẫn người nghe giới, mỗi người đều đắp ca sa chín điều, bảy điều và năm
điều, không được mặc y phục thế tục mà trái với tăng thể.
(Ca-sa là tiếng
Ấn Độ, Trung Hoa dịch là Hoại Sắc Phục, là y phục của người xuất gia mặc. Bất
kỳ là đại y, thất y, ngũ y đều phải giản dị, không được quá cầu kỳ, hoa
mỹ).
Trong lúc tụng
giới đều mặc cả ba y, để thể hiện tinh thần tụng giới hết sức trang trọng,
không được chỉ mặc một y bảy điều hoặc năm điều (nếu chỉ mặc một tăng già lê
thì cũng được). Đó là đối với hàng Bồ Tát tỳ kheo, tỳ kheo ni.
Còn Bồ Tát thức
xoa ma na, Bồ Tát sa di, sa di ni, chỉ dùng mạn y. Đối với nam nữ tại gia thì
vào trong giới trường để tụng giới, trước tiên phải lễ Phật, lễ tăng, đến lúc
tụng giới cũng chỉ mặc mạn y. Sau khi tụng giới xong, phải xếp y cất, chớ không
được mặc.
Chẳng những lúc
tu Đầu Đà hạnh, du hành giáo hóa, phải theo đúng nghi thức trên để cử hành lễ
Bồ Tát, mà ngay lúc kiết hạ an cư cũng phải mỗi mỗi việc đều theo đúng pháp tắc
thực hành, không được sai phạm mảy may.
Du hành giáo hóa
nhân gian và kiết hạ an cư đều là việc rất tốt. Nhưng những nơi có tai nạn đều
không được du hành hoặc kiết hạ.
Lúc hành đầu đà
hạnh không nên đi đến chỗ có tai nạn, vậy những chỗ tai nạn nào không nên
đến?
1. Cõi nước hiểm
ác: Những nước gặp lúc hạn hán, mất mùa hay đang xảy ra những vụ tàn sát, đói
khát v.v... Những lúc ấy không thích hợp cho việc tu hành giáo hóa của Bồ Tát,
vì vậy không nên đi.
2. Nhà vua hung
bạo: ngày xưa, vua là vị lãnh đạo tối cao, nắm mọi quyền hành trong nước. Nếu
vị vua đó đối với Tam Bảo không tôn kính, không biết tu phước huệ, lại còn làm
những chuyện bạo ngược, hung ác. Nếu Bồ Tát đến đó để giáo hóa thì chẳng những
không đạt được kết quả, lại còn gặp nhiều khó khăn, cho nên Bồ Tát không nên
đi.
3. Đất đai gập
ghềnh: nói những nơi hiểm trở, không bằng phẳng, nếu đi đến những nơi đó, có
thể bị thiệt hại thân mạng, nên cũng không nên đi.
4. Cỏ cây rậm
rạp: Những nơi có nhiều chướng ngại qua lại, và có nhiều bất trắc, nên Bồ Tát
không nên đi.
5. Chỗ có sư tử,
cọp sói: Những nơi có nhiều ác thú, nếu du hành đến đó có thể gặp nguy hiểm,
nên Bồ Tát cũng không được đến.
6. Tai nạn
lụt bão, hỏa hoạn: những nơi phát sanh đại thủy, đại hỏa, phong tai.... Bồ Tát
không nên đi, vì dù có đi cũng không thực hiện được công hạnh độ sanh.
7. Giặc cướp:
Những nơi có nhiều bọn cường đạo, trộm cướp, cướp của giết người. Những chỗ như
thế đến để làm gì?
8. Đường sá có
rắn rít: Những nơi tuy không có tai nạn gì, nhưng nếu trên đường đi đến những
chỗ ấy có nhiều rắn độc v.v... thì cũng không nên đi.
Cuối cùng nói
tóm lại, tất cả những nơi hiểm nạn ấy, đều không được đến. Chẳng những lúc hành
Đầu Đà Hạnh, mà ngay lúc kiết hạ an cư cũng không được lui tới những nơi hiểm
nạn này. Vì kiết hạ an cư cốt để được an tâm tu niệm. Đối với những nơi có tai
nạn thì không thể an tâm được. Như vậy thử hỏi đến nơi đó để làm gì?
Sở dĩ Đức Phật
cấm Phật tử không được vào những nơi hiểm nạn, vì hàng tân học Bồ Tát nhẫn lực
chưa đầy đủ. Nếu cố cưỡng đi vào những nơi này, vạn nhất xảy ra tai nạn, thì
chẳng những chính mình bị bất lợi rất nhiều, mà lại còn làm cho mọi người sanh
tâm phỉ báng và thối thất tín tâm. Vì họ cho rằng người tu hành trì giới còn không
tránh khỏi tai bay họa gởi, huống chi là họ. Vì lý do ấy mà họ thối chí, ngã
lòng, đối với việc tu hành và tín tâm trong Phật pháp cũng bị hao tổn.
Nếu tự ỷ mình là
người có đức, không biết sợ những nơi có tai nạn, cố tình trái lời dạy của Như
Lai, đi vào những nơi hiểm nạn để du hành giáo hóa, thì Phật tử này phạm khinh
cấu tội.
Có người cho
rằng:
Đáng lẽ Bồ Tát
phải vì pháp mà quên mình, nên đi đến những chỗ hiểm nạn để hóa độ chúng sanh,
chuyện ấy có gì là không nên?
Đáp: Đúng thế!
Bồ Tát vì hóa độ chúng sanh có thể hy sinh tính mạng, nhưng sự hy sinh đó phải
là trường hợp cần thiết mới có giá trị, bằng không thì chớ nên đi vào những chỗ
hiểm nạn, như vậy mới là hợp lý vậy.
Lời
phụ:
Nhân tiện dịch
giả y trong kinh luật và các bộ truyện cung kính dịch thuật về cách thức rửa
tay và tẩy tịnh khử uế để quý đại sĩ y theo lời Phật dạy mà phụng hành thì được
tiêu tội, tăng phước. Còn khi đi đại tiện, sau khi đúng pháp khử uế, khi rửa
tay nên dùng phì tạo hoặc tro đốt (ngày nay dùng xà bông), rửa tay cho sạch
sẽ.