KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương
III: CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT
THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.2.2. BIỆT
THUYẾT KHINH GIỚI
(riêng giảng các giới khinh)
B.2.2.18. VÔ GIẢI TÁC SƯ GIỚI
(giới không hiểu
biết mà làm thầy)
Kinh văn:
1. Phiên âm:
Từ câu “nhược Phật tử ưng học thập nhị...” cho đến câu: “...phạm khinh cấu tội”.
2. Dịch nghĩa:
Nếu là Phật tử phải học mười hai bộ kinh, thường tụng giới luật, mỗi ngày sáu thời nghiêm trì Bồ Tát giới, hiểu rõ nghĩa của lý tánh, Phật tánh của giới luật. Nếu Phật tử không hiểu một kệ, một câu, cùng nhân duyên của giới luật mà bảo rằng đã thông hiểu, đó chính là tự dối gạt mình và cũng là dối gạt người khác. Không hiểu một pháp, không biết một luật, mà lại đi làm thầy truyền giới cho người, Phật tử này phạm khinh cấu tội.
Lời giảng:
Giới trước
ngăn cấm việc nương cậy các người có thế lực, địa vị ra oai bức bách, đoạt của
lấy người, giới trước nhấn mạnh về thân nghiệp.
Giới này ngăn
cấm việc nói dối là mình hiểu biết để đi làm thầy, truyền trao giới pháp cho
người, giới này chú trọng về khẩu nghiệp.
Lý luận của Phật
pháp cần phải tuyên dương. Giới hạnh trong Phật pháp cần phải truyền thọ.
Một vị Pháp Sư
muốn tuyên dương Phật pháp, hoặc truyền trao giới phẩm, phải có đầy đủ trí huệ
chơn thật, phải hiểu chính xác nghĩa lý Đại Thừa, Tiểu Thừa, quyền giáo, thật
giáo của Phật pháp, phải triệt để giảng giải minh bạch việc khai, giá, trì,
phạm của giới luật thì mới đủ tư cách để làm sư phạm cho người. Nếu chính mình
vẫn mờ mịt, lộn xộn thì nhất định không thể làm cho người khác đối với kinh
luật có chỗ hiểu biết rành rẽ. Nói thí dụ cho dễ hiểu như trường hợp các vị
dung y (thầy thuốc bất tài), tầm thường không biết rõ căn bệnh của bệnh nhân,
không biết bắt mạch và các phương thuốc, lại đi làm thầy trị bịnh cho người,
thì làm thế nào trị cho bệnh nhân được lành mạnh?
Lại như những
người đôi mắt đều mù mà lãnh trách nhiệm dẫn đường cho những người mù khác thì
không làm sao tránh khỏi thảm họa sa hầm sụp hố.
Vì thế, làm một
vị Bồ Tát giáo hóa chúng sanh, trước tiên tự mình phải thông đạt nội dung của
kinh luật, rồi sau mới đem chỗ hiểu biết ấy dạy bảo dẫn dắt chúng sanh, giúp
cho chúng sanh thực hành đúng theo pháp, theo Luật, để được sự lợi ích chân
thực.
Nếu tự mình
không có huệ giải, không thông đạt tánh tướng của các pháp, không rành rẽ văn
nghĩa kinh luật, lại đi lừa dối làm sư phạm cho chúng sanh, cứ gắng gượng
truyền trao giới pháp cho người, khiến người đời không thể thấm nhuần giới
phẩm. Như thế, đã không có chánh nhân tâm địa, thì sẽ mất hẳn cực quả thành
Phật. Thử hỏi việc làm ấy có tội hay không?
Làm người, đặc
biệt là một vị Bồ Tát, điều tối trọng là phải thành thật, không được giả dối.
Đối với vấn đề huệ giải, một học giả nơi thế gian còn phải thực hành, biết thì
nói biết, không biết thì nói không biết. Kiến thức trên thế gian này rất nhiều,
nên không một ai dám tự xưng không việc gì mình không biết, không việc gì mình
chẳng thông. Cho nên cứ thành thật thú nhận việc gì mình biết và việc gì mình
không biết. Một người thường trên thế gian còn như vậy, huống chi là một vị đại
sĩ xuất thế và mang danh là cứu nhân độ thế?
Là một vị Bồ Tát
sơ phát tâm, còn ở trong giai đoạn học hỏi, khi có những vấn đề gì không hiểu
rõ, cứ đem ra hỏi người khác, họ sẽ vui lòng giải đáp, chỉ giáo cho bạn. Với
vấn đề kia, bạn không hiểu, bạn cứ đi hỏi, người sẽ vui lòng vì bạn phúc đáp,
sẵn sàng chỉ giáo. Điều ấy không phải là một việc xấu, mà thực là một nhà đại
thông thái, không có việc gì chẳng biết.
Điều xấu nhất là
không biết mà cứ cho là biết. Tỷ như có một vấn đề mình không hiểu rành, nhưng
vì muốn làm thầy người, nên giấu chỗ không hiểu biết của mình, cố giả hiện ra
những cử chỉ ta đây cái gì cũng biết. Thế là chẳng những dối gạt người mà cũng
thật dối gạt cả chính mình. Tự dối gạt mình và dối gạt người như vậy là không
thật lòng dẫn dắt người, không đem lại lợi ích cho người, thì làm sao có đủ tư
cách làm sư phạm cho người?
Vì thế, Nho gia
Trung Quốc nói: “Nhân chi đại hoạn, tại hiếu vi nhân sư” (họa lớn của người
chính ở chỗ thích làm thầy người). Cho nên không thông hiểu mà muốn đi làm thầy
là mang tội lỗi rất lớn vậy!
Giới này, dù đối
với Đại hay Tiểu Thừa đều cấm chế, Tăng cũng như tục đều phải tuân giữ. Nói một
cách nghiêm túc hơn, khi làm một vị sư phạm Đại Thừa , quyết định phải là bậc
Bồ Tát xuất gia. Còn năm chúng Phật tử kia đều không đủ tư cách làm sư phạm,
nên không ở trong phạm vi cấm chế của giới này.
Tuy nhiên, trong
kinh Thiện Pháp có dạy: “Bồ Tát tại gia có thể nuôi dưỡng đệ tử tại gia”. Vì
vậy, điều đó cũng vẫn nằm trong phạm vi của giới cấm này. Nhưng Bồ Tát tại gia
dù có thể nuôi dưỡng, làm sư phạm cho đồ chúng tại gia, nhưng nhất quyết không
được truyền trao giới pháp. Vì đó là việc của Bồ Tát xuất gia.
Điều này nếu
không phân biệt rành rẽ, sẽ đưa đến việc Bồ Tát tại gia cũng truyền trao giới
cho người là điều sai phạm rất lớn. Vì thế, Bồ Tát tại gia nếu thông đạt Phật
lý, dù có thể vì người giảng nói các kinh luật, và được suy tôn làm thầy, nhưng
nếu có Phật tử phát tâm cầu thọ Tam Quy, Ngũ Giới phải thỉnh một bậc đại đức
xuất gia, truyền trao giới pháp mới được.
Nhưng không phải
bất cứ vị Bồ Tát xuất gia nào cũng đều có thể đảm nhận vai trò một vị sư phạm
Đại Thừa. Vì theo ngài La Thập Tam Tạng Pháp Sư, thì phải đầy đủ năm đức mới
đầy đủ tư cách làm sư phạm cho người. Năm đức đó là:
1. Phải giữ gìn
giới hạnh hết sức thanh tịnh, không được trái phạm một giới nào.
2. Giới lạp ít
nhất phải đủ mười năm, nếu chưa đủ thì chưa xứng với tư cách làm thầy cho
người.
3. Phải có sự
hiểu biết về Luật tạng thông suốt mới tránh khỏi nạn dạy bảo, dẫn dắt hàng hậu
học đi vào con đường sai lầm.
4. Phải thông
đạt thiền tứ cho sâu sắc. Nếu không có chút công phu thiền định nào thì không
thể làm sư phạm cho người.
5. Cần phải có
trí huệ sáng suốt, nghĩa là phải nghiên cứu đến chỗ cùng tột nghĩa lý u vi,
huyền diệu của Phật pháp. Đối với tánh tướng của các pháp, phải phân biệt được
một cách tinh tế và chính xác.
Tóm lại:
Năm giới đức
trên là chỉ cho sự thành tựu giới thanh tịnh, thành tựu Định và thành tựu Quán
Huệ. Đây là một chánh thuyết trong Phật giáo nước ta (chỉ nước Trung Hoa) xưa
nay lưu truyền lại. Những vị làm sư phạm cho người cần phải xem trọng vấn đề
này.
Theo Luật Tứ
Phần nói: “Muốn làm thầy truyền trao giới Cụ Túc cho người, phải thành tựu năm
pháp. Nếu năm pháp không thành thì không thể truyền trao giới Cụ Túc cho người,
cũng không được làm y chỉ cho người, cũng không được nuôi dưỡng thiếu niên sa
di.
Năm pháp
ấy:
1. Giới.
2. Định
3. Huệ.
4. Giải
thoát.
5. Giải thoát
tri kiến.
Năm pháp trên
đây là ngũ phần pháp thân của bậc chứng quả A La Hán, không phải là người xuất
gia thông thường có thể thành tựu được. Ở thời mạt pháp này, thiết tưởng muốn
tìm được một bậc thành tựu năm pháp ấy có thể nói là khó vô cùng. Vì thế vấn đề
truyền trao giới pháp, thông thường vì không thực hiện đúng theo pháp, nên
không thể làm cho người phát tâm thọ giới được đắc giới.
Vì nguyên nhân
trên nên cổ đức từng nói: “Mạt pháp thời đại, nan dĩ cầu toàn trách bị” (thời
mạt pháp này khó mà cầu tìm được bậc giới đức, trách nhiệm trọn vẹn đầy
đủ).
Trong Luật Tăng
Kỳ cũng nói như sau: “Thành tựu được mười pháp mới có thể độ người xuất gia thọ
giới Cụ Túc. Mười pháp:
1. Trì
giới.
2. Đa văn A Tỳ
Đàm (thông Luận Tạng).
3. Đa văn Tỳ Ni
(thông Luật Tạng)
4. Học
giới.
5. Học
định.
6. Học
huệ.
7. Có thể xuất
tội cho người và dạy người xuất tội (đệ tử khi có tội, vị thầy hiểu rõ giới
luật chỉ dạy cho đệ tử sám hối để được diệt trừ tội lỗi).
8. Có khả năng
khám bịnh hoặc nhờ người khám bịnh.
9. Lúc đệ tử có
nạn có thể giúp đưa đi nơi khác lánh nạn, hoặc nhờ người đưa đi.
10. Phải đủ mười
hạ lạp.
Hạn lệ ít nhất
cũng phải đủ mười hạ lạp và thông hiểu hai bộ luật tỳ kheo, tỳ kheo ni, thì mới
được độ người xuất gia, thọ giới Cụ Túc. Về việc y chỉ làm thầy cho người cũng
như thế. Do đó, làm sư phạm cho người không phải là việc dễ dàng.
Trường hợp đệ tử
mắc nạn, bổn phận làm thầy phải giúp cho đệ tử thoát nạn. Nếu không có thể giúp
đệ tử thoát ly khổ nạn, để đệ tử phải đắm chìm triền miên trong khổ nạn thì thử
hỏi bậc làm thầy làm thế nào yên tâm cho được?
Còn như đệ tử
phạm lỗi, bạn phải y theo giới luật xuất tội cho đệ tử, đúng như pháp, như
Luật, bảo đệ tử sám hối cho được thanh tịnh. Nên biết: việc này không phải dễ
dàng vì cần phải thấu triệt ý nghĩa Luật Tạng mới thực hành được.
Trong luật Tát
Bà Đa và Nhiếp Luận cũng nói: “Cần phải đầy đủ mười hạ mới được đứng vào địa vị
làm thầy. Lại phải thành tựu năm pháp sau đây:
1. Biết có
phạm.
2. Biết không
phạm.
3. Biết tội
khinh.
4. Biết tội
trọng.
5. Đối với kinh
biệt giải thoát (giới kinh) phải thấu hiểu rõ nghĩa lý.
Đối với
các học xứ (giới) chế, kiết, tùy, khai (Đức Phật tuy kiết giới nhưng tùy phương
tiện mà khai mở), nếu gặp nạn duyên cần phải khéo hiểu lý thông, tắc (khai,
giá), phải thường tụng giới bổn, có thể giải quyết sự nghi ngờ cho người, có
đầy đủ giới đức, kiến giải, đa văn, có thể làm lợi mình, lợi người, oai nghi
hạnh pháp không chỗ trái phạm.
Đầy đủ những đức
như thế mới được gọi là vị Thân Giáo Sư. Và vị thầy ấy có thể đích thân đem
pháp xuất ly dạy bảo, dẫn dắt cho đệ tử, nên mệnh danh là Thân Giáo Sư”.
Nếu không thực
hành được như vậy, thì dù cho bạn đã thọ giới Cụ Túc, nhưng vì đối với các học
xứ không hiểu rõ khinh, trọng, khai, giá, trì, phạm, và dù đã đủ mười hạ, bạn
cũng không được làm sư phạm cho người.
Đến như có đủ
tới sáu mươi hạ, bạn cũng vẫn phải y chỉ với bậc minh sư và phải suốt đời theo
bậc minh sư học tập giới luật. Dù rằng bậc minh sư ấy tuổi tác nhỏ hơn bạn
nhiều, thì trừ việc không phải đảnh lễ bực minh sư ấy, ngoài ra, tất cả những
việc khác đều phải theo bổn phận của người đệ tử, thay thế cho bậc minh sư mà
làm mọi việc, không được cho mình lớn tuổi hơn mà bỏ qua không làm.
Giới này không
phải Đức Phật ngăn cấm tăng chúng tuyệt đối không được làm sư phạm cho người,
mà là chủ ý quở trách những người không có trí huệ, không xứng đáng với tư cách
làm thầy người.
Phật giáo ngày
nay chẳng những hết sức lộn xộn, không phân biệt lớn nhỏ, lại thêm ai cũng muốn
lên địa vị làm thầy, ai cũng không có tâm hổ thẹn khi làm thầy người mà không
đủ giới đức. Thậm chí còn tự cho mình là bậc thầy siêu thắng hơn người trăm
nghìn vạn ức bội lần. Vì thế, họ xúm nhau tranh giành truyền trao giới
pháp.
Nói ra thì nghe
cũng kỳ, nghĩa là đối với việc làm thầy, dường như họ ham thích vô cùng, và cho
rằng nếu không từng trải qua giai đoạn làm thầy truyền trao giới pháp, thì họ
không có địa vị gì trong Phật giáo. Vì tranh nhau truyền giới, nên ai cũng nói
năng có vẻ đường hoàng lắm.
Có người nói:
“Tôi đây vì muốn dựng cao cây tràng giới pháp”. Có vị lại nói: “Tôi đây muốn
truyền pháp đăng của Phật”. Tựa hồ dường như không có quý vị truyền trao giới
phẩm, thì pháp đăng của Như Lai sớm bị tắt mất rồi, và cây tràng giới pháp sợ
rằng cũng sớm ngã đổ rồi. Công đức vĩ đại ấy biết dường nào?!
Thật ra, việc
làm ấy có ý kiến lập môn đình cho lớn rộng, dựng cây tràng ngã mạn cao chọc
trời, cho nên nói rằng người này, người kia... là đệ tử thọ giới của tôi, hoặc
người nọ, người kia... không phải theo tôi thọ giới. Từ đó, những môn phái khác
biệt đua nhau phát sanh và cùng nhau cạnh tranh nhân ngã.
Nên trong bộ
Phạm Võng Kinh Hợp Chú quyển 5 của Liên Tông Cửu Tổ Trí Húc đại sư nói: “Thật
đau thương cho thời mạt pháp, điên đảo nhiều bề! Có người nương nơi danh từ hóa
độ chúng sanh, làm sư phạm cho người một cách sai lầm. Không hiểu biết gì hết
mà dối xưng là hiểu biết, kiến lập môn đình cho cao rộng, tướng ngã mạn càng
lẫy lừng. Hoặc có người đối với việc học tập giới luật thì biếng nhác, thối
lùi, không chịu làm thầy. Hoặc có người tự cho mình là thông Tông Giáo (Tông là
thiền, Giáo là giáo lý), xem rẻ Luật học, dựng tràng ngã mạn rất cao. Thấy
người trì luật, học giới, sanh tâm chê bai hủy báng, ham thâu đồ chúng cho
đông.
Đến khi truyền
giới, chỉ truyền trao tên giới, tâm địa thì mê muội, mặt dạn mày dầy không còn
ai hơn những người này! Lại có người lầm cho rằng Đại Thừa là dung thông, không
câu chấp tiểu tiết, nên không cần học luật Tiểu Thừa. Họ đâu biết rằng: Tiểu
Thừa không bao gồm Đại Thừa, nhưng Đại Thừa lại bao gồm cả Tiểu Thừa. Ví như
các giòng sông không thể chứa đựng biển cả, nhưng biển cả lại dung nạp tất cả
trăm sông. Do đó, nếu không học cả Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa thì làm thế nào được
gọi là Bồ Tát tỳ kheo?”
Những lời của Tổ
trích dẫn bên trên có thể nói là những lời khái thán cực độ! Chẳng những ngày
nay như vậy mà thời quá khứ cũng có những vị ưa thích làm sư phạm cho người như
thế. Vì vậy, chúng ta không lạ gì khi tình trạng Phật giáo ngày một đi xuống,
và trong tương lai càng không còn gì để nói được. Thật không gì làm cho người
đau lòng, buốt óc hơn nữa!
Lại còn những
hiện tượng vô cùng quái lạ là các vị giới sư đích thân đi khuyến rủ đồ chúng
đến để truyền trao giới pháp, chứ không phải do tâm chí thành, khẩn thiết cầu
giới pháp của đồ chúng.
Thậm chí đôi khi
định mở giới đàn, nhưng không thấy một giới tử nào đến ghi tên thọ giới. Vị
truyền giới bèn mau mau xách dù đến các tự viện, am cốc, đối với các Phật tử
bất luận nam, nữ, có ý nguyện xuất gia hay không, đều vận dụng mọi thủ đoạn. Một
mặt khuyến hóa, một mặt lừa gạt, thậm chí cưỡng ép cạo tóc, để đến giờ lên giới
đàn bẩm thọ giới pháp, hầu đạt được thể diện cho mình. Vị chủ sự giới đàn tự
đắc rêu rao là khai giới đàn kỳ này rất long trọng, hàng giới tử được bao
nhiêu... lên trai đường thọ trai được mấy quả đường... Nhưng với việc giáo giới
và oai nghi như thế nào, nghĩa lý Phật pháp phải giảng giải ra sao, giới pháp
của giới tử bẩm thọ phải tuyên giải cách nào v.v... những việc ấy hoàn toàn
không quan tâm, cũng không nghĩ đến bổn phận làm sư phạm cho người. Chỉ cần
biết kỳ mở giới đàn này, ban thường trụ thâu được bao nhiêu, phần cúng dường
riêng mình được bao nhiêu. Có như vậy, tâm lý mới được thỏa mãn.
Điều này quả
thiệt không sai. Đang lúc cử hành giới đàn, khung cảnh thật là náo nhiệt. Nhưng
sau đó, các giới tử đã thọ giới liền phân chia tứ tán, mạnh ai nấy đi Đông, đi
Tây. Người nào cũng nói đã thọ đại giới rồi, nhưng nói đến điều gì trong giới
luật thì hoàn toàn không hiểu biết. Những người hơi hiểu biết đôi chút, chỉ
bình luận rằng vị Pháp Sư truyền giới kỳ này như thế này, thế kia... vậy
thôi!
Riêng các cô cậu
xuất gia thọ giới kia, vì không phải do tự nội tâm xuất phát, nên trải qua nếp
sống xuất gia một thời gian ngắn thì cảm thấy xuất gia không phải là việc như
vậy, rồi lăng xăng ai nấy đều ra đi mất hết. Chính khi các vị chưa xuất gia thọ
giới, còn qua lại lui tới chốn đạo tràng Phật giáo, nhưng sau khi xuất gia thọ
giới rồi thì mất tung mất tích luôn. Vì các cô cậu tự thấy việc xuất gia thọ
giới không có ý nghĩa gì tốt cả.
Trong giới Phật
giáo hiện nay, hiện tượng này được thấy thật rõ ràng. Thật tình tôi (Pháp Sư)
không hiểu việc thích làm sư phạm cho người rốt ráo là công đức hay tội lỗi? Là
hộ trì Phật pháp hay hủy diệt Phật pháp? Nam Mô A Di Đà Phật! Điều ấy không dám
nói nhiều, chỉ có Tam Bảo chứng minh cho!
Đức Phật đối với
đại chúng dạy rằng: “Nếu là một Phật tử đã thọ giới Bồ Tát, vì nhiệm vụ thượng
hoằng hạ hóa (trên hoằng truyền chánh pháp, dưới hóa độ chúng sanh), trước tiên
phải học mười hai phần kinh” (bổn chữ Hán là mười hai bộ kinh (1))
Nhưng ở đây vì
sợ quý đại sĩ tại gia kém giáo lý, nghe nói tới mười hai bộ kinh thì lầm tưởng
rằng chỉ có mười hai bộ như:
1. Kinh Di
Đà.
2. Kinh Pháp Hoa
v.v...
Hiểu như vậy là
hoàn toàn sai, nên Hòa Thượng dịch là “mười hai phần kinh” tức là mười hai phần
giáo; nghĩa là Tam Tạng thánh giáo của Phật gồm tạng Kinh, tạng Luật, tạng
Luận, không biết bao nhiêu bộ, nhưng không ra ngoài mười hai phần giáo, nghĩa
là tất cả kinh chi làm mười hai loại.
Căn cứ theo Đại
Trí Độ Luận, quyển thứ ba mươi ba của tổ Long Thọ thuyết minh như sau:
“Tam thừa đều
học tập và cả Đại Thừa, Tiểu Thừa đều phải thọ trì. Vì thế, Luật dạy tỳ kheo
phải thông hiểu Tam Tạng thánh điển, giới lạp phải đủ mười hạ, mới làm thầy
người”.
Do đó, có thể
thấy việc làm sư phạm cho người không phải là sự đơn giản. Nếu ai thật sự muốn
truyền pháp độ sanh, phải học tập 12 bộ kinh để làm cơ bản hóa độ chúng sanh.
Nếu không được như vậy thì không nên nói lan man: “Tôi muốn làm thầy
người".
Nếu không thể
thông Kinh tạng và Luận tạng thì ít nhất cũng phải hiểu biết Luật tạng. “Phải
thường tụng giới mỗi ngày sáu thời, nghiêm trì Bồ Tát giới, hiểu rõ ý nghĩa của
lý tánh, Phật tánh của giới”. Có trí huệ thông đạt kinh luật, cố nhiên đó là cơ
bổn của việc truyền pháp lợi sanh. Nhưng giới hạnh làm cho thân tâm thanh tịnh
lại càng là cơ bổn của đại sĩ nhập thế độ sanh.
Vì thế, kinh dạy
mỗi ngày phải sáu thời nghiêm trì Bồ Tát giới. Sáu thời là ban ngày ba thời,
ban đêm ba thời đều phải trì tụng giới tạng.
Đối với giới
luật không thể có một phút giây sanh tâm biếng nhác. Thông thường, người tụng
trì giới luật, lúc chưa được thông lợi, rất dễ sanh tâm biếng nhác, thậm chí
còn quên mất tâm Bồ Đề. Nếu muốn cho đọc tụng thuần thục, thông lợi, phát sanh
kiến giải, phải ngày đêm sáu thời tinh tấn cần chuyên.
Nếu thường trì
tụng giới luật suốt thời gian lâu dài thì với việc khai, giá, trì phạm mỗi mỗi
đều có thể thông hiểu rõ ràng, như Khuy Cơ đại sư là bậc thông suốt Tam Tạng.
Đại sư đã khắc định mỗi ngày phải tụng một biến giới kinh.
Nếu thông hiểu
những pháp khai, giá, trì, phạ của giới luật, đương nhiên sẽ được phần trợ giúp
rất nhiều cho giới hạnh thanh tịnh của chính mình. Nhưng nếu không hiểu rõ chỗ
chỉ quy của giới hạnh, thì cũng không thể rốt ráo đến quả vô thượng Bồ Đề. Chỗ
chỉ quy là điểm duy nhất của sự trì giới, đưa đến những thắng lợi gì? Tức giải
thoát thành Phật vậy.
Cho nên, tiến
thêm một bậc nữa, kinh dạy cần phải hiểu rõ ý nghĩa lý tánh, Phật tánh của
giới. Về ý này, kinh Niết Bàn đề cập theo lối liên hoàn như sau:
Phật tánh: Đệ
Nhất Nghĩa Không,
Đệ Nhất Nghĩa
Không gọi là Trung Đạo.
Trung Đạo gọi là
Phật tánh,
Phật tánh gọi là
Đại Niết Bàn.
Chú
thích:
(1) Mười hai bộ
kinh: Trong Đại Trí Độ Luận, quyển ba mươi ba của tổ Long Thọ giải thích như
sau:
1. Tu Đa La:
Trung Hoa dịch là Khế Kinh, tức là loại văn trường hàng trong các kinh, giảng
nói ý nghĩa của các pháp. Khế Kinh là kinh điển hợp chân lý của các pháp và khế
hiệp căn cơ của chúng sanh.
2. Kỳ Dạ: Trung
Hoa dịch là Ưng Tụng, cũng dịch là Trùng Tụng. Đúng ra phải gọi là Ứng Tụng.
Nghĩa là ứng theo văn trường hàng ở trước mà tuyên thuyết lại nghĩa lý và viết
theo thể văn tụng, tức là lối văn có số chữ và số câu đặt theo quy định (tương
tự văn vần).
3. Dà Đà: Trung
Hoa dịch là Phúng Tụng, còn gọi là Cô Khởi Tụng, tức là thuộc về văn kệ tụng,
không theo lối văn trường hàng, chỉ gồm những câu kệ tụng mà thôi, giống như
kinh Pháp Cú.
4. Ni Đà Na:
Trung Hoa dịch là Nhân Duyên. Tức là nói những nhân duyên được thấy Phật, được
nghe pháp và những nhân duyên Phật thuyết pháp giáo hóa, như trường hợp các
phẩm Tựa trong các kinh.
5. Y Đế Mục Đa:
Trung Hoa dịch là Bổn Sự, nghĩa là kinh văn trong đó Đức Phật nói những nhân
của các đệ tử trong thời quá khứ, như phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự trong kinh
Pháp Hoa.
6. La Đà Dà:
dịch là Bổn Sanh, chỉ những kinh văn Đức Phật nói về những nhân duyên trong
thời quá khứ của ngài.
7. A Phù Đạt Ma:
dịch theo lối mới là A Tỳ Đạt Ma, Trung Hoa dịch là Vị Tằng Hữu, tức là những
kinh tuyên thuyết việc Phật thị hiện các thứ thần thông và những sự việc không
thể nghĩ bàn.
7. A Ba Đà Na:
Trung Hoa dịch là Thí Dụ, nghĩa là vì những chúng sanh căn tánh ám độn, không
thể hiểu rõ được những ý nghĩa thậm thâm vi diệu nên Đức Phật khéo léo vận dụng
những thí dụ để giúp chúng sanh hiểu rõ những ý nghĩa đó. Như thế, trong các
kinh chỗ nào nói thí dụ đều thuộc về phần giáo trong loại này.
9. Ưu Ba Đà Xá:
Trung Hoa dịch là Luận Nghị, là những kinh viết theo lối vấn đáp để luận nghĩa.
10. Ưu Đà Na:
Trung Hoa dịch là Vô Vấn Tự Thuyết. Gồm những kinh không đợi người thỉnh cầu mà
do Đức Phật tự động giảng nói, như trường hợp kinh A Di Đà.
11. Tỳ Phật
Lược: Trung Hoa dịch là Phương Quảng, ý chỉ kinh điển Đại Thừa phương đẳng,
nghĩa lý rộng lớn dường như hư không.
12. Hòa Đà La:
Trung Hoa dịch là Thọ Ký. Nghĩa là trường hợp Đức Phật thọ ký các vị Bồ Tát
trong tương lai sẽ được thành Phật.
Trong mười hai
bộ kinh trên:
Tu Đa La, Kỳ Dạ,
Dà Đà thuộc về các thể tài trong kinh văn (hình thức trình bày theo thể văn
trong kinh). Còn chín loại kia gồm những sự sai biệt từ trong kinh văn chép ra.
Căn cứ theo đó mà lập nên tên của 12 bộ kinh. Như thế, chúng ta thấy rõ 12 bộ
kinh tức là 12 thể loại, không phải mang ý nghĩa số lượng là 12 bộ theo nghĩa
thông thường.
(2) Vô Tác Giới
Thể: còn gọi là Vô Giáo, dịch theo lối mới là Vô Biểu. Giới thể gồm hai
loại:
1. Tác giới: lúc
ở tại giới đàn làm lễ thọ giới, ba nghiệp Thân, Khẩu, Ý đúng theo Pháp và Luật
mà tạo nên. Nghiệp ấy có thể nghe thấy. trường hợp này khi những động tác của
thân, khẩu diệt rồi thì nó cũng diệt theo.
2 Vô tác giới:
Nương theo duyên tác giới trong lúc này mà tạo nghiệp và loại nghiệp này không
thể nhận thấy ở trong thân. Loại duyên nghiệp này khi mới phát sanh, dù do tác
động của ba nghiệp (tức tác giới), nhưng một khi đã phát sanh rồi, thì không
cần sự tạo tác của thân, khẩu, ý nữa và chúng luôn luôn tương tục nên gọi là Vô
Tác. Trường hợp này trong một đời thường tương tục mà phát sanh công năng ngăn
ngừa lỗi lầm, dứt trừ tội ác. Giới thể này dùng đối cảnh để ngăn chặn mọi việc
sai quấy. Căn cứ vào thể năng phòng mà lập nên Vô Tác giới, căn cứ vào cảnh sở
phòng mà phân biệt thành ra có tướng của 250 giới v.v...
- Thể năng
phòng: chỉ giới thể có công dụng ngăn chặn tất cả mọi tội ác.
- Cảnh sở phòng:
chỉ cho các giới tướng như Đại Giới, tỳ kheo, bốn pháp Ba La Di: Dâm, đạo, sát,
vọng v.v... vì phát sanh Vô Tác Giới cho nên phải thực hành tác giới.