KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương III:
CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.1.1.6. THUYẾT TỨ CHÚNG QUÁ GIỚI
(Giới cấm rao
nói lỗi của tứ chúng)
Kinh văn:
1.
Phiên âm:
Từ câu “nhược
Phật tử tự thuyết xuất gia, tại gia Bồ Tát...” cho đến câu “thị Bồ Tát Ba La Di
tội”.
2. Dịch
nghĩa:
Nếu Phật tử
miệng tự rao nói tội lỗi của Bồ Tát xuất gia, Bồ Tát tại gia, tỳ kheo, tỳ kheo
ni, hoặc bảo người rao nói những tội lỗi ấy; nhân rao nói tội lỗi, duyên rao
nói tội lỗi, cách thứ rao nói tội lỗi, nghiệp rao nói tội lỗi. Là Phật tử khi
nghe những kẻ ác ngoại đạo, cùng người Nhị Thừa nói những điều phi pháp, trái
luật trong Phật pháp, thời phải luôn có lòng từ bi giáo hóa những kẻ ác ấy,
khiến họ sanh tín tâm lành đối với Đại Thừa. Nếu trái lại, Phật tử lại tự mình
rao nói tội lỗi trong Phật pháp, Phật tử này phạm Bồ Tát Ba La Di tội.
Lời giảng:
Mười giới trọng
trong kinh Phạm Võng này, bốn giới trước giống với giới căn bổn của Thanh Văn.
Bốn giới sau giống với giới trọng trong Du Già Bồ Tát Giới Bổn. Chặng giữa,
thêm hai giới bán rượu và “rao nói tội lỗi” hợp thành mười giới.
Trong hai giới
giữa này, vì giới bán rượu mang tính chất thô phù, rõ ràng hơn nên giảng trước,
giới rao nói tội lỗi có phần vi tế hơn nên giảng sau.
Giới thuyết tứ
chúng quá này quan trọng nơi chữ Thuyết, tức là lời nói. Vì lời nói là công cụ
diễn đạt tư tưởng và tình ý. Nếu như không có công cụ này thì tình ý và tư tưởng
của chúng ta không cách gì biểu đạt ra được.
Nhưng đồng là
lời nói, có người khi nói ra được mọi người cảm mến, thân thiết cao độ, có
người nói ra khiến mọi người cảm thấy khó chịu và ẩu tâm vô hạn (Ẩu là nôn ói.
Ám chỉ người đối diện khi nghe lời nói đó, trong tâm khó chịu, không muốn
nghe). Vì thế, đối với lời nói chúng ta phải cực lực chú ý và thận trọng.
Tục ngữ Trung
Hoa có câu:
Đao tử cát
thương dung dị thủ,
Ngôn ngữ thương
tâm hận nan tiêu.
Dịch:
Dao cắt bị
thương lành lại dễ,
Lời nói thương
tâm hận khó tiêu.
Lúc nói chuyện
với người không suy nghĩ, vọt miệng nói quàng, nói xiên, bướng bỉnh, dù không
phạm tội lỗi cũng làm thương hại tâm tự tôn của người. Vì thế có rất nhiều
người hoạt động trong xã hội không được mọi người hoan nghênh lắm.
Nguyên nhân dù
rất nhiều, nhưng đại khái là do cao đàm khoát luận, không biết tự thẹn. Trong
khi nói chuyện, nói quàng, nói xiên, miệng phun nước miếng lung tung, nói hay,
nói dở buông lung, không chút nể sợ. Đây có thể nói là một nguyên nhân trọng yếu.
Vì ngoài việc
nói chuyện ra, không có gì ảnh hưởng lớn đến hành vi của nhân loại hơn là lời
nói. Như khi bạn mở miệng nói ra những lời làm cho người như bị kim đâm vào
tai, hay những lời nhảm nhí không căn cứ, đương nhiên khó làm cho người sanh
hảo cảm tốt đẹp.
Nhưng thật bất
hạnh thay, mọi người, nhất là nữ giới, khi có cơ hội gặp nhau, họp lại thường
nói những chuyện hay của nhà bên Đông, chuyện dở của nhà bê Tây không ngừng.
Như ai có tin gì xấu thì các bà, các cô như một phát ngôn viên truyền bá tin
tức ấy ra rất nhanh. Và đáng ghét nhất là mấy bà cố ý thêm dầu, thêm tương vào
những việc nhỏ nhặt, nói cho thành việc nghiêm trọng phi thường khiến người nghe
không thể tin. Có người còn ưa đem những sự việc không căn cứ, rao nói thành
một sự thật có hình có tiếng, làm lan ra khắp trong thiên hạ.
Vì thế nếu bạn
nói những lời nhảm nhí, không duyên cớ gán cho người thật đáng sợ biết dường
nào! Vì có người khi nghe lời nói nhảm ấy, không đè nén nổi lòng tức giận, khiến
cho tình bạn hữu đột nhiên biến thành thù địch. Giữa người với người đang đối
xử nhau tốt đẹp, đột nhiên biến thành kẻ oán thù. Hai bên oán hận nhau mãi
không thôi. Việc ấy chính do những lời nói nhảm, không căn cứ tạo nên.
Thế nên, kẻ rao
nói tội lỗi của người là một nhân vật nguy hiểm, đáng sợ cho mọi người biết
chừng nào! Cho nên làm người bất cứ thuộc giai cấp nào trong đời này, ngàn lần,
muôn lần, không nên dưỡng thành tập quán xấu rao nói tội lỗi của người, để bị
mọi người xem là kẻ nhiều miệng lưỡi, vĩnh viễn sẽ bị mọi người oán giận và
chán ghét.
Rao nói tội lỗi
của tứ chúng, theo trong kinh này, chỉ sự hư vọng, luận bàn lỗi lầm của hai
chúng tại gia và hai chúng xuất gia.
Phàm làm người
trong thế gian, dù là một bậc có hàm dưỡng đến đâu, đều không tránh khỏi có ít
nhiều lỗi lầm (“hàm dưỡng” là đem đạo đức, học vấn để chuyển đổi mình từ người
xấu trở nên tốt, hung ác trở nên hiền từ...)
Nho thi có câu:
“Nhân phi thánh hiền, thục năng vô quá”, nghĩa là: người chưa phải thánh hiền,
mấy ai khỏi lầm lỗi.
Vì thế, chẳng
những mình không biết rõ họ có lỗi hay không thì không nên tùy tiện, mặc ý nói
vọng ngữ. Thậm chí mình biết rõ người có tội lỗi, cũng phải nhắm vào tâm từ bi
trong Phật pháp, dùng những phương tiện thật thiện xảo, khuyên nhủ, giảng nói
cho họ một cách khéo léo, nhã nhặn, khiến cho họ tự biết lỗi mình mà chừa bỏ.
Hoặc dùng phương pháp sám hối để giúp họ trở lại thành một cá nhân mới tốt đẹp,
được Phật hóa, không nên trở lại rao nói tội lỗi của người với những kẻ
khác.
Rao nói tội lỗi
của tứ chúng, chẳng những làm cho người có tội khó chịu, mà còn làm nhục cho
danh dự pháp môn, khiến cho thánh đạo của Như Lai không lưu hành mang lợi ích
cho thế gian. Tội này lớn biết dường nào!
Vì muốn hộ trì
sự thanh tịnh trong pháp môn, vì muốn ái hộ danh dự của tứ chúng, nên Phật răn
cấm nghiêm nhặt việc vọng rao tội lỗi của tứ chúng. Hơn nữa, chẳng những tứ chúng
thông thường không khỏi có những lỗi lầm, mà hàng Bồ Tát mới phát tâm, đa số
cũng không tránh khỏi những hành vi lỗi lầm vì vẫn còn là phàm phu Bồ
Tát.
Nhưng các vị đã
phát tâm Bồ Đề, học Bồ Tát đạo, thật rất hiếm có và khó được. Đáng lẽ chúng ta
cần phải tán thán công đức của quý vị, khích lệ việc làm vì pháp, vì người của
quý vị, khiến cho quý vị tiến bước mãi trên con đường vô thượng Bồ Đề. Như thế
mới là hành vi cần có của một Phật tử trong Phật pháp.
Hiện tại, chẳng
những không tán thán công đức của Bồ Tát, lại còn dùng tâm bất chánh bới lông
tìm vết, kiếm chỗ sở đoản của người, rao nói tội lỗi của người. Như thế, đối
với đạo làm người còn không được, hà huống là một Phật tử tu học Phật
pháp!
Chúng ta nên
biết rao nói tội lỗi của người chưa chắc đã được, mà tự mình vì đó tạo khẩu
nghiệp nặng nề. Như vậy, cần chi phải đi làm việc tổn người hại mình như
vậy?
Tứ chúng trong
Phật giáo, dù tại gia hay xuất gia, đều cùng ở trong Tam Bảo; cùng là thiện
hữu, pháp lữ với nhau, cùng ẩn nấp dưới bóng từ bi của Tam Bảo gia bị; cùng nhờ
sự phòng hộ thân tâm của giới pháp; cùng lo tu học không gián đoạn để tăng tiến
công đức cho mình và người, để mong cầu thù thắng xuất thế, để hoàn thành mục
đích của người học Phật.
Xin quý vị thử
nghĩ: Nếu chúng ta không nương nhờ đức từ bi oai lực của Tam Bảo gia hộ, không
có sự phòng hộ thân tâm của giới pháp, thì làm sao đạt đến mục đích học Phật
của chúng ta? Là người trong cửa Tam Bảo, chúng ta hãy đem hết những năng lực
của mình có thể làm được, hộ trì ngôi Tam Bảo, để giữ gìn chánh pháp của Như
Lai, khiến chánh pháp của Phật Đà được cửu trụ vĩnh viễn nơi thế gian, mang lại
lợi ích rộng lớn cho chúng sanh.
Muốn được như
vậy, trong hàng đệ tử Tam Bảo, chúng ta phải tôn kính lẫn nhau, tán thán cho
nhau, sách tấn nhau. Mình cùng người phải tinh tấn, lo trau giồi giới hạnh để
phát khởi tín tâm cho chúng sanh. Như thế mới hợp với đạo lý.
Nếu đã không
thực hành như thế, trái lại, bạn còn nói lỗi lầm của tôi, tôi đi rao tội ác của
bạn. Hai bên cùng nói những sở đoản của nhau, tự mình giở lưng chỉ sẹo cho người.
Như thế, trái với sơ tâm của người học Phật, lại vi phản với ân đức từ bi của
Tam Bảo. Tội này rất nặng, không tội nào hơn. Vì thế, Phật ngài đặc biệt chế lập
giới điều này để cho hàng Phật tử xuất gia và tại gia nghiêm cẩn giữ gìn.
Thật ra, không
phải chỉ riêng hàng Phật tử phải đặc biệt thận trọng khi thốt lời, mà mọi người
ở thế tục, thông thường cũng không nên “tín khẩu khai hà, hồ ngôn loạn thuyết” (mở
miệng không thận trọng, nói quàng xiên bướng bỉnh) mà quyết định cần phải có
thái độ thận trọng như cổ đức từng dạy:
Hàm dưỡng nộ
trung khí,
Đề phòng thuận
khẩu ngôn,
Khiêm cung nguyện
ích kỷ,
Khinh bạc dị
chiêu khiên.
Dịch:
Trong khi tức
giận nên hàm dưỡng,
Lời nói thỏa
miệng phải đề phòng,
Khiêm nhường cung
kính ích lợi cho mình,
Khinh khi, xem
rẻ dời họa lại.
Tuyệt đối đừng
nói những lời làm người chán ghét, và làm tổn thương lòng tự tôn, tự ái của
người. Nếu lỗ miệng cứ thường thốt ra những lời nói xấu người, hoặc đàm tiếu những
việc lỗi lầm của người thì chính là làm thương tổn đến hậu đạo và sanh nhiều
tội ác.
Đức Phật đối với
đại chúng dạy rằng: “Nếu là một Phật tử đã thọ Bồ Tát giới mà đi rao lỗi của
tức chúng, nghĩa là: tự mình đi rao lỗi của Bồ Tát xuất gia, Bồ Tát tại gia, tỳ
kheo, tỳ kheo ni”.
Trong tứ
chúng:
* Bồ Tát xuất
gia chỉ ngũ chúng Phật tử xuất gia đã phát Bồ Đề, thọ tâm địa đại giới:
- Tỳ kheo.
- Tỳ kheo
ni.
- Thức Xoa Ma
Na.
- Sa Di
- Sa Di
Ni.
* Bồ Tát tại gia
là chỉ hai chúng đã phát Bồ Đề tâm, thọ Bồ Tát giới:
- Ưu bà
tắc.
- Ưu bà
di.
* Hai chúng xuất
gia thọ Cụ Túc Giới, nhưng chưa phát tâm Bồ Đề, thọ Bồ Tát giới:
- Tỳ kheo.
- Tỳ kheo
ni.
Tội là chỉ những
việc trong giới khinh đã phạm.
Quá là chỉ pháp
thập ác, ngũ nghịch đã làm.
Bất luận là tội
khinh hay ác nặng, đều không được đi rao nói. Mặc dù những tội ác ấy, mọi người
cũng như trong hàng tứ chúng không tránh khỏi vi phạm, nhưng chúng ta tuyệt đối
không được tùy tiện đi rao nói tội lỗi của người mà kết thành trọng tội cho
chính mình.
Về hàng Bồ Tát
thì gồm có Bồ Tát cao cấp và Bồ Tát hạ cấp. Bồ Tát cao cấp như chư Bồ Tát đã
chứng đắc bậc Nhị Địa trở lên. Đối với những giới hết sức vi tế đều hoàn toàn
không hủy phạm, thì với tội trọng ngũ nghịch, thập ác, không bao giờ có. Nhưng
vì muốn lợi ích chúng sanh nên lắm lúc các Ngài cố ý thị hiện những nghịch hạnh
để bức bách chúng sanh đi trên con đường lớn quang minh của Phật pháp.
Phàm phu không
biết đây là việc đại nguyện thị hiện của Bồ Tát, cho là Bồ Tát thật sự điên đảo
tạo những nghịch hạnh như vậy. Bấy giờ, khởi tâm xem rẻ Bồ Tát và đi đến đâu
cũng nói Bồ Tát là không đúng. Rao nói tội lỗi của Bồ Tát để vừa lòng, khoái ý
cho cá nhân mình, không ngờ rằng chính mình đã tạo ra ác nghiệp cực trọng, thật
vô cùng bất lợi cho chính mình.
Vì vậy, dù chúng
ta biết hay không biết người ấy là đại Bồ Tát, cốt yếu là người ấy làm những
việc lợi ích cho chúng sanh, chúng ta phải mỹ tán các Ngài, không nên rao nói
tội lỗi của các ngài.
Bồ Tát ở địa vị
Tam Hiền cùng với thánh nhân trong Tứ Quả, tuyệt đối không bao giờ vi phạm các
tội trọng; nhưng với những lỗi lầm vi tế vẫn không tránh khỏi. Đặc biệt là Bồ
Tát sơ phát tâm vì các ngài còn là phàm phu, vẫn có những điểm không đúng pháp.
Chỉ cần các Ngài noi theo con đường chính của Bồ Tát, thì không chóng thì chầy,
các ngài sẽ bước lên Chánh Đạo trong Phật pháp. Chúng ta không thể vì hiện tại
các ngài còn có những lỗi lầm, rồi đi đến đâu cũng rao nói các ngài không đúng,
mà tự mình tạo ra khẩu nghiệp vô biên.
Đến chư vị Hòa
Thượng mà mình nương theo Ngài xuất gia, hoặc chư đại đức cao tăng trụ trì
chánh pháp của Như Lai, hoặc các pháp hữu đồng tu tịnh hạnh, đều không nên đi
rao nói tội lỗi của các ngài.
Chúng ta nên
biết, trong các ngài, có vị vẫn có các tội lỗi, có vị hoàn toàn không có lỗi
chi. Nhưng dù có hay không, chúng ta đều không được tự đi vọng rao nói tội lỗi
của các bực sư trưởng, thượng nhân, cùng chư đại đức cao tăng. Đó là điều quyết
định không được làm.
Tỳ kheo, tỳ kheo
ni dù là hành giả tu học theo Tiểu Thừa, nhưng quý vị là Tăng Bảo trụ trì Phật
pháp, quan hệ với pháp môn không phải nhỏ. Vì ở đời này, người thông đạt được giáo
lý mà vào Phật pháp thật là rất hiếm.
Thông thường, đại
đa số người nhận thức Phật pháp, đi vào Phật pháp do hành vi của Phật tử xuất
gia. Nếu thấy tăng nhân giới hạnh thanh tịnh, oai nghi nghiêm chỉnh, cử chỉ trang
nghiêm, đối với Phật pháp, họ liền sanh khởi tín tâm cao độ.
Giả như bản thân
của chúng tăng có quá nhiều khuyết điểm thì không hấp dẫn được sự tôn kính của
thế nhân. Do đó, sự tồn tại của Phật pháp cũng thành đại vấn đề rất khó.
Vì muốn trụ
trì Phật pháp, vì muốn cho Phật pháp được phát triển, vì muốn cho việc hoằng
dương Phật pháp được phổ biến v.v... cho nên, dù ở khía cạnh nào, cũng đều
không được đi rao nói tội lỗi của hai chúng xuất gia tỳ kheo, tỳ kheo ni. Vì
chẳng những ảnh hưởng cho cá nhân của các vị, lại còn ảnh hưởng rất lớn cho
Phật pháp!
Nhưng tình hình
Phật pháp hiện tại thật bất hạnh và đáng buồn thay! Đến đâu cũng nghe những lời
chỉ trích tỳ kheo, tỳ kheo ni. Dường như toàn thể chúng xuất gia đều nhiều
khuyết điểm và tội lỗi. Quan trọng nhất là bên này, bên kia xúm lại nói tội lẫn
nhau. Chẳng những tỳ kheo rao nói tội lỗi của tỳ kheo, tỳ kheo ni; tỳ kheo ni
rao nói tội lỗi tỳ kheo ni; tỳ kheo ni rao nói tội tỳ kheo... khiến kẻ sơ phát
tâm vừa bước chân vào cửa các tự viện, am cốc, chỉ nghe vị Hòa Thượng này không
đúng, vị Ni kia rất xấu!
Đến chùa này
cũng là phải quấy, đi tự viện kia cũng là phải quấy. Bấy giờ, những đạo tràng
của Phật pháp dường như không còn chút gì thanh tịnh. Nên tôi (Pháp Sư) thường nói:
Người xuất gia này nói xấu kẻ xuất gia kia, người xuất gia kia nói việc xấu của
cá nhân này, khiến mọi người nghe được, tự nhiên cảm thấy người xuất gia vốn
như thế. Không vị nào đúng pháp, đúng luật. Như thế chúng ta cần chi đến các tự
viện?
Chúng ta vào các
tự viện vốn mong được thanh tịnh, hy vọng được thấm nhuần chút ít Phật pháp cho
tâm điền khô khan của mình bấy lâu. Ngờ đâu bước vào tự viện chỉ nghe việc thị
phi như thế!
Những người tín
tâm chưa vững chắc, do đây bị thối tín tâm. Còn những vị tín tâm kiên cố cũng
thấy đi chùa là một việc đáng buồn! Trong Phật giáo ngày nay, hiện tượng này ở
khắp nơi, có thể nói là vô cùng phổ biến!
Người xuất gia
đối đáp, nói lỗi của nhau đã là một việc rất sai lầm; thêm vào đó, Phật tử tại
gia góp phần làm cho làn sóng càng dâng lên cao. Vì muốn tán thán công đức của sư
phụ mình, mà đi rao nói tội lỗi của những vị xuất gia khác. Bạn như vậy, tôi
cũng như vậy, mọi người đều như thế. Bấy giờ đến chỗ nào cũng nghe dư luận cho
rằng tất cả người xuất gia đều không tốt...
Thật ra, sự việc
không phải hoàn toàn như vậy, cũng có nhiều vị xuất gia có tu, có chứng, ở đâu
cũng đều có những vị đứng đắn. Nhưng chẳng qua, những vị thật có tu chứng trong
Phật pháp không muốn tùy tiện phô bày mà thôi.
Nói một cách
nghiêm túc, bậc xuất gia có đức hạnh, có học vấn, có tu hành, có chứng đắc, là
phước điền cho nhân thiên, là người trụ trì Phật pháp. Chúng ta không nên tùy tiện
đi rao nói tội lỗi của các ngài, mà sự thật thì các ngài cũng không có bất cứ
lỗi lầm gì để chúng ta đi rao nói. Dù cho có vị tỳ kheo, tỳ kheo ni phá giới đi
nữa, chúng ta cũng không nên tùy tiện đi rao nói tội lỗi của quý vị. Vì dù sao
thì các vị đã xuất gia, so sánh với những người thế tục thông thường thì các vị
vẫn hơn rất nhiều. Nên trong kinh từng dạy:
Đởm bặc hoa tuy
nuy,
Do thắng chư dư
hoa,
Phá giới chư tỳ
kheo,
Do thắng chư
ngoại đạo.
Dịch:
Hoa đởm bặc dù
héo,
Vẫn hơn các thứ
hoa.
Vẫn hơn các
ngoại đạo.
Trong kinh lại
nói:
Hữu phạm danh Bồ
Tát,
Vô phạm danh
ngoại đạo.
Dịch:
Dù có phạm tội
vẫn gọi là Bồ Tát,
Không phạm tội
vẫn gọi là ngoại đạo.
Ý nghĩa hai câu
kinh văn trên là nói bậc Bồ Tát xuất gia, dù hủy phạm giới cấm, nhưng vẫn làm
lợi ích cho chúng sanh. Dù bản thân mình giới pháp không trọn vẹn, nhưng vẫn
đem chánh pháp lợi lạc quần sanh, làm một đối tượng trong Phật pháp để cho
người nương theo.
Bằng chứng hiển
nhiên là những tăng nhân có vợ con, chính cá nhân quý vị ấy vẫn tự biết hổ
thẹn; nhưng các Phật tử tại gia khi hữu sự, như khi cúng kiếng, cầu an, cầu siêu...
đa số đều nhờ quý vị ấy. Trái lại, hàng ngoại đạo dù khổ hạnh, thanh tịnh,
không phạm lỗi chi, nhưng chính bản thân các vị đã đi vào con đường tà lại dẫn dắt
người vào con đường tội ác của mình.
Vì thế, không
riêng tỳ kheo, tỳ kheo ni không phạm giới, chúng ta không được khinh thị và rao
nói lỗi lầm của quý vị, mà ngay chính những tỳ kheo phạm giới, chúng ta cũng
không nên khinh thị và đi rao nói những lỗi lầm của quý ngài.
Chúng ta nên
biết, một vị xuất gia thật sự rất khó có. Chẳng hạn như con bò dù đã chết,
nhưng vị ngưu hoàng của nó vẫn hữu ích cho mọi người (ngưu hoàng là một vị
thuốc lấy từ chất vàng trong thân con bò mà chế tạo ra). Vị tỳ kheo phá giới
cũng thế, xem thấy rất là tầm thường, nhưng vẫn hơn hàng nhân thiên thông
thường, vì những hạng này vẫn thuộc về thế gian.
Tỳ kheo phá
giới, giới hạnh dù không thanh tịnh nhưng đã có sự huân đào trong Phật pháp, đã
gieo trồng thiện căn xuất thế. Việc này trong kinh Đại Bi nói rất rõ: “Những
người xuất gia tay tả bồng con trai, tay hữu bồng con gái, từ quán rượu này đến
quán rượu khác, tuy nhiên các vị ấy không ngoài Hiền kiếp này sẽ nhập Niết
Bàn”.
Không thể chấp
nhận người xuất gia ẵm con trai, con gái, ra vào các quán rượu. Đương nhiên
việc đó không thể được, vì hoàn toàn không giống với bậc xuất gia trong Phật
pháp, lại còn làm cho người tạo khẩu nghiệp. Chúng ta không thể che giấu, bào
chữa cho việc làm ấy là hợp pháp, hợp luật. Có điều là dù quý vị ấy như vậy,
nhưng không thể nói quý vị ấy đối với Phật pháp không có chút cống hiến, đem sự
lợi ích cho mọi người. Chỉ cần các vị ấy có chút cống hiến cho Phật pháp, chúng
ta cũng phải tán thán các vị ấy, khiến cho quý vị ở trong Phật pháp càng tăng tiến.
(Những lời trên
của pháp sư Diễn Bồi rất là thật tế. Vì đối với những vị xuất gia không tâm tàm
quý, ở đây tạm gác qua, không bàn đến; còn những vị biết tàm quý, trong khi chính
mình giới hạnh không được trọn mà được tín đồ cung kính, cúng dường, nội tâm tự
hổ thẹn, nhờ đó mà có thể xa lìa mọi lỗi lầm, ở trong Phật pháp tu hành tinh tấn
để trở thành một tăng nhân có giới đức).
Ở đây, cần phải
nói rõ tội rao nói tội lỗi của tứ chúng trong Phật pháp khinh hay trọng, căn cứ
vào đối tượng nào mà bạn đi rao nói để phán đoán?
Như đối với các
vị lãnh đạo tối cao trong quốc gia mà bạn đi rao nói tội lỗi của tứ chúng thì
bạn mắc tội rất nặng. Tại sao vậy?
Vì người lãnh
đạo tối cao của quốc gia đều có tâm hy vọng các tôn giáo trong nước mình góp
sức gánh vác trách nhiệm giáo hóa nhân dân, để bổ sung những chỗ không hoàn hảo
của pháp luật, chính trị quốc gia. Nhưng bản thân của quý vị trong tôn giáo
không kiện toàn, khiến các vị lãnh đạo quốc gia cảm thấy tôn giáo này vô ích
cho nhân dân xã hội. Để tôn giáo này lưu hành trong nước chẳng ích lợi gì, chi
bằng tiêu diệt nó cho xong. Trong lịch sử, các bạo quân phá diệt Phật pháp, đa
số đều do động niệm này mà sinh ra.
Nếu bạn đối
trước kẻ ác, ngoại đạo, rao nói tội lỗi của tứ chúng, tội ấy dù không nặng như
nói đối với quốc vương, nhưng cũng không phải nhẹ. Vì kẻ ác, ngoại đạo, từng
giờ từng phút tìm kiếm những lỗi lầm của tứ chúng để giúp thêm tài liệu bài
báng Phật pháp. Bấy giờ, họ không cần tìm kiếm mà chính chúng ta tự động cung
cấp tài liệu cho họ, giúp cho họ mạnh mẽ bài báng Phật pháp. Nếu bạn trách họ,
hỏi họ: “Tại sao các ông đi bài báng Phật pháp như vậy?” họ sẽ đáp ngay không
chậm trễ: “Điều ấy không phải chúng tôi cố ý làm như vậy, mà chính người học
Phật của các ông tự đi rao nói. Người học Phật của các ông đều không đúng, thì
thấy rằng giáo pháp hay lý luận của Phật pháp không thể tĩnh hóa nhân tâm. Như
thế, trên thế gian này, cần chi phải có Phật pháp?” Chúng ta hãy tưởng tượng sự
tổn thất của đối với Phật pháp lớn biết dường nào!
Nếu bạn đối với
Phật tử tại gia rao nói tội lỗi của hàng xuất gia thì vị Phật tử tại gia trước
đây trong tâm bao giờ cũng cung kính tôn trọng các vị xuất gia như một vị Bồ
Tát. Giờ đây, do bạn nói với các Phật tử ấy tội lỗi của các vị xuất gia này,
tội lỗi của người xuất gia kia, khiến các Phật tử ấy đối với người xuất gia có
ấn tượng không tốt. Từ đó, thối thất tín tâm đối với ngôi Tam Bảo. Do đó, tội
của bạn đương nhiên cũng không phải nhẹ.
Không nói tội
lỗi của người khác là một mỹ đức rất lớn của tư cách làm người. Ở thế gian này
rất ít người có được. Đa số người đều bị kẹt vào cái tội đi rao nói tội lỗi của
người khác, không nhiều thì ít, không cách gì tránh được.
Như trong tình
đồng đạo, mà đi rao nói người ấy thế này, người kia khác, đúng lý mà nói là
không nên, nhưng vì không phải nói với ngoại đạo, nên tội cũng không nặng lắm, chỉ
kết thành tội phương tiện.
Còn trong tăng
đoàn, nếu trước khi cử hành lễ, Bồ Tát được phép công khai kiểm điểm cử tội
chúng tăng, đôi khi còn cực lực quở trách. Trường hợp này hoàn toàn không phạm.
Hoặc vì thiện ý, đem tội lỗi của một đồ chúng nói cho sư phụ của người ấy nghe,
để đúng pháp dạy bảo họ, khiến họ cải hối lỗi lầm, theo Phật pháp tu tập.
Trường hợp này hoàn toàn không phạm.