KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương III:
CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.2.2. BIỆT THUYẾT KHINH GIỚI
(riêng giảng các
giới khinh)
B.2.2.1. BẤT KÍNH SƯ HỮU GIỚI
(giới không kính
thầy - bạn)
Kinh
văn:
1. Phiên
âm:
Từ câu “nhược
Phật tử nhược thọ quốc vương vị thời...” cho đến câu “nhược bất nhĩ giả, phạm
khinh cấu tội”.
2. Dịch
nghĩa:
Nếu Phật tử lúc
sắp lãnh ngôi quốc vương, ngôi Chuyển Luân Vương, hay sắp lãnh chức quan, trước
nên thọ giới Bồ Tát. Như thế tất cả quỷ thần sẽ cứu hộ thân vua và thân các
quan. Chư Phật cũng đồng hoan hỷ.
Khi đã đắc giới
rồi, Phật tử nên có lòng cung kính. Nếu thấy có bực thượng tọa, hòa thượng, a
xà lê, những bậc đại đức đồng học, đồng kiến, đồng hạnh đến nhà, phải đứng lên
tiếp rước, lạy chào, hỏi thăm. Mỗi sự đều đúng như pháp dạy mà cúng dường, hoặc
tự bản thân cho đến quốc thành, con cái, cùng bảy thứ báu, trăm vật để cung cấp
cho các bậc ấy. Nếu Phật tử lại sanh lòng kiêu mạn, sân hận, ngu si, không chịu
tiếp rước, lạy chào. Cho đến không chịu y theo pháp mà cúng dường. Phật tử này phạm
khinh cấu tội.
Lời giảng:
Đương thời, Đức
Phật ở trước đại chúng dạy như vầy: Nếu làm một vị Phật tử trong hàng học Phật
tại gia, trong lúc sắp lãnh ngôi quốc vương, hoặc giả lúc lãnh ngôi Chuyển Luân
Vương, hoặc là bá quan văn võ, lúc thọ lãnh chức vụ, việc duy nhất và tối yếu
là trước nhất nên thọ giới Bồ Tát.
Quốc Vương
là vị thủ trưởng hành chánh tối cao, có quyền thống lãnh nhân dân như các chức
vị Tổng Thống, Chủ Tịch, Quốc Trưởng... trong các quốc gia hiện nay.
Chuyển
Luân Vương là vị thánh vương, ngự trên kim luân, đi giáo hóa chúng sanh (Kim
Luân là chiếc xe của Chuyển Luân Vương bằng vàng ròng). Chuyển Luân Vương có
bốn loại:
1. Kim Luân
Vương: có oai đức chấn động 4 châu.
2. Ngân Luân
Vương: có oai đức chấn động 3 châu.
3. Đồng Luân
Vương: có oai đức chấn động 2 châu.
4. Luân Vương:
có oai đức chấn động 1 châu.
“Bá quan” là
toàn thể các quan văn võ, cấp bậc lớn nhỏ không đồng, giúp vị nguyên thủ quốc
gia giáo hóa thống nhiếp nhân dân, như bộ trưởng, tỉnh trưởng, quận trưởng... hiện
nay.
Các vị Quốc Vương,
Chuyển Luân Vương... có bổn phận trực tiếp giáo hóa cai trị nhân dân, có quan
hệ mật thiết với nhân dân. Nếu các vị ấy là bậc hiền minh, biết thương dân yêu
nước, xem dân chúng như con mình, ở đâu cũng vì nhân dân, nghĩ suy phương cách
làm cho nhân dân được yên vui, lúc nào cũng mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, thì
nhân dân sẽ được lợi ích rất lớn.
Ngược lại, nếu
các vị ấy là người cường bạo, xem nhân dân như kẻ thù, coi trăm họ như rơm rác,
cỏ cây, lúc nào cũng chuyên bóc lột nhân dân, ở đâu cũng hà hiếp dân chúng, làm
cho họ bị điêu đứng, lâm vào cảnh dầu sôi lửa bỏng thì dân chúng sẽ bất lợi
muôn phần.
Do đó, vào thời
quân chủ, người dân luôn khao khát có được những bậc thánh quân, hiền thần xuất
hiện. Nhưng muốn làm một vị thánh quân hay hiền thần, điều kiện tối yếu là hành
vi của bản thân mình cần phải hết sức kiện toàn.
Vì thế trước nên
thọ giới Bồ Tát để được thấm nhuần giới hạnh. Nhờ đó sẽ thương yêu giúp đỡ nhân
dân, sẽ trở thành một vị lãnh tụ muôn dân đều kính mến ủng hộ. Quốc gia nhờ đó
được cảm ứng điềm lành như phong điều vũ thuận, nhân dân được an cư lạc nghiệp.
Từ vua quan đến nhân dân đều sống trong không khí thái hòa thạnh trị.
Quốc vương, đại
thần khi đã thọ giới Bồ Tát, nhờ nơi sức oai đức của tịnh giới, phước đức sẽ
cảm hóa được tất cả quỷ thần, cho nên mới được chư thiện thần hộ pháp đến cứu
hộ thân vua, giúp cho thân tâm quốc vương được vui vẻ, khang kiện, vĩnh viễn hộ
trì địa vị tôn quý của quốc vương, tránh khỏi họa xâm lăng của nước ngoài. Đồng
thời thân của bá quan cũng được sự hộ vệ của hộ pháp thiện thần, chẳng những
thân thể của họ được khang kiện, tinh thần được thư thái an lạc, lại được tăng
gia quan chức, mọi việc đều thuận lợi.
Trong kinh nói
người Phật tử thọ trì năm giới sẽ được sự ủng hộ của hai mươi lăm vị thiện thần,
tức là mỗi giới sẽ có năm vị thiện thần ủng hộ. Thọ trì ngũ giới còn được như
vậy, huống chi thọ giới Bồ Tát, dĩ nhiên được sự ủng hộ của chư Bồ Tát thiện
thần.
Giới Bồ Tát là
bổn nguyên của chư Phật, các ngài luôn mong muốn mọi người đều bẩm thọ giới
này. Hiện tại quốc vương, đại thần đã phát tâm Bồ Đề, phát nguyện thọ giới này,
khiến cho Quang Minh Kim Cương Bửu Giới được miên viễn không đoạn tuyệt. Thế
nên chư Phật tự nhiên sanh tâm đại hoan hỷ, vì hiện tại phước đức tăng trưởng,
tương lai diệu quả được chắc chắn thành tựu.
Bồ Tát giới gồm
cả hai chúng xuất gia và tại gia, luôn cả những người có đủ tư cách thọ Bồ Tát
giới. Nhưng tại sao ở đây chỉ đề cập đến các vị quốc vương, chuyển luân vương
và bá quan?
- Chúng xuất gia
đối với sư trưởng, huynh đệ, rất ít khi sanh tâm kiêu mạn, bất kính, nên ở đây
không đề cập đến hàng Bồ Tát xuất gia.
- Bồ Tát tại gia
thì rất dễ sanh tâm kiêu mạn, nhất là những người có địa vị cao quý đặc biệt
như quốc vương, đại thần v.v... đều tự cho mình là cao tột, mọi người đều phải
cung kính, tôn trọng và họ không có ý nguyện tự thân phải cung kính tôn trọng
mọi người. Vì lẽ ấy, Phật đặc biệt dạy hàng quốc vương, đại thần phải thọ giới
Bồ Tát đầu tiên.
- Hàng thứ dân,
thông thường họ đều bắt chước những việc làm của người bề trên như quốc vương,
đại thần, bá quan... Nếu người bề trên thực hành, dân chúng tự nhiên sẽ tùy
thuận thực hành theo. Vì thế nên nơi đây cũng chẳng những không đề cập chúng
Phật tử tại gia, mà luôn cả những hạng bình dân đều không nói đến. Vì nhân dân
đã được hàm nhiếp trong ảnh hưởng của quốc vương và bá quan.
Khi đã thọ giới
rồi, người thọ giới đương nhiên là “đắc giới thể”. Như thọ Ngũ Giới thì đắc
giới thể của Ngũ Giới. Thọ Thập Giới thì đắc giới thể của Thập Giới. Hiện tại
thọ Bồ Tát giới thì đắc giới thể của Bồ Tát giới.
Như đã nói trước
đây, khi đắc giới sẽ được chư thiện thần, hộ pháp hộ vệ và chư Phật hoan hỷ. Do
đâu mà được sự lợi ích ấy? Không phải do sự khuyên răn, dạy bảo của thầy, bạn
mà được hay sao?
Nếu không có sự
khuyên răn, dạy dỗ của thầy, bạn thì làm sao được giới và đắc giới thể. Cũng
như làm sao được sự lợi ích thù thắng như trên? Cứ triển chuyển suy luận thì có
thể nói tất cả lợi ích thù thắng hoàn toàn do nơi thầy, bạn ban cho mình.
Thầy bạn đã ban
cho chúng ta sự lợi ích vĩ đại như thế, chúng ta cần phải biết ơn đức và đền
trả ân đức. Đối với thầy, bạn phải sanh tâm hiếu thuận và cung kính.
Cha mẹ sanh
thành, dưỡng dục xác thân của chúng ta. Chúng ta cần phải hiếu thuận với song
thân. Đây là sự thật mọi người đều biết.
Sư trưởng truyền
trao giới pháp cho chúng ta, sanh trưởng Pháp Thân của chúng ta, là bậc phụ mẫu
Pháp Thân của chúng ta. Thế nên, chúng ta cũng phải hiếu thuận với sư trưởng
cũng như đối với cha mẹ, không được trái nghịch mảy may.
Thiện hữu giúp đỡ
chúng ta, ủng hộ mọi việc và khích lệ trên đường tu học, khiến cho đạo nghiệp
hoặc huệ nghiệp của chúng ta được tăng trưởng liên tục, cũng như vị huynh
trưởng trong gia đình thế tục. Vì vậy, chúng ta phải hết lòng cung kính, xem họ
như bậc huynh trưởng trong gia đình, không nên có chút tâm niệm kiêu
ngạo.
Nếu có đủ lòng
cung kính và hiếu thuận như vậy, mới gọi là Phật tử chân chánh, nghĩ đến Phật
pháp mà nhập đạo.
Nho gia có câu:
“Thành ư trung, hình ư ngoại” (lòng thành kính có ở trong tâm sẽ hiện hình
tướng bên ngoài). Nếu chỉ có lòng hiếu thuận cung kính bên trong mà không thể
hiện thái độ bên ngoài thì cũng không hoàn toàn là sự cung kính.
Do đó, Phật dạy
phải có thái độ lễ mạo bên ngoài: “Thấy thượng tọa phải đứng dậy, tiếp rước,
lạy chào, hỏi thăm. Thấy hòa thượng phải đứng dậy, tiếp rước, lạy chào, hỏi
thăm. Thấy A Xà Lê phải đứng dậy, tiếp rước, lạy chào, hỏi thăm. Cho đến thấy
những bậc đại đức đồng kiến, đồng hạnh, cũng đều phải đứng dậy, tiếp rước, lạy
chào, hỏi thăm”.
Thượng Tọa là
đối với Hạ Tọa mà nói. Chức vị này ở trong chúng xuất gia của Phật giáo phân
biệt rất là nghiêm cách. Kinh Tỳ Ni Mẫu thuyết minh: “Các vị xuất gia từ bậc
chưa có hạ nào đến khi có chín hạ được liệt vào Hạ Tọa; từ mười hạ đến mười
chín hạ là Trung Tọa; từ hai mươi hạ đến bốn mươi chín hạ là Thượng Tọa; từ năm
mươi hạ trở lên hàng trưởng lão kỳ cựu, tất cả sa môn, quốc vương đều phải tôn
kính”.
Nói theo giới
luật, phải thọ Cụ Túc hai mươi hạ trở lên mới có tư cách là Thượng Tọa, hai
mươi hạ trở xuống gọi là Trung Tọa, mười hạ trở xuống gọi là Hạ Tọa. Hàng Hạ
Tọa phải lễ bái Trung Tọa, Trung Tọa phải lễ bái Thượng Tọa.
Đồng là Thượng
Tọa, nhưng lại chia ra mấy loại như sau:
1. Sanh niên
Thượng Tọa: vị niên kỷ đã cao, như hai mươi tuổi thọ Cụ Túc giới, ở trong tăng
đoàn trải qua mấy mươi năm, nay tuổi đã năm mươi, sáu mươi, hoặc bảy mươi, tám mươi.
Vị này không có chi đặc sắc, nhưng vì tuổi tác cao, hạ lạp nhiều nên được suy
tôn Thượng Tọa.
2. Phước đức
Thượng Tọa: vị này không căn cứ vào niên kỷ lớn nhỏ. Do pháp duyên hưng thạnh
(nhân duyên hoằng truyền Phật pháp được lan rộng), phước báo rất lớn, đến nơi nào
cũng được hàng Phật tử ủng hộ, kính trọng. Tùy theo nơi nào thuận lợi cũng đều
có thể kiến lập đại đạo tràng, để có chỗ cho hàng Phật tử lễ bái, cúng dường, tu
phước. Vì thế nên được suy tôn là phước đức Thượng Tọa.
3. Trí huệ
Thượng Tọa: vị này cũng không phân biệt theo niên kỷ già trẻ, lớn nhỏ. Vị này
hai mươi tuổi thọ Cụ Túc, vì trí huệ cao siêu nên lảu thông Tam Tạng Thánh Giáo
rất nhanh, đến đâu cũng hoằng dương Phật pháp, tiếp dẫn nhân quần tín phụng
Phật pháp, nên được suy tôn là trí huệ Thượng Tọa.
4. Pháp tánh
Thượng Tọa: đây là bậc thánh nhân đã chứng ngộ pháp tánh, đắc thành quả La Hán,
là bậc Thượng Tọa thù thắng nhất trong các thượng tọa.
Bất luận Thượng
Tọa thuộc loại nào, chỉ cần thấy chư vị từ nơi khác đến, chúng ta phải liền
đứng dậy ra ngoài nghinh tiếp, dắt vào điện Phật. Sau khi Thượng Tọa lễ Phật
xong, nên đến trước quý ngài lễ bái, sau đó hỏi thăm: “Thượng Tọa đi đường có
khổ nhọc lắm không? Tứ đại khinh an hay không? Chúng sanh dễ độ không?” Những cử
chỉ như thế là biểu lộ lòng hiếu thuận cung kính.
Đối với bậc
Thượng Tọa như thế, lúc thấy Hòa Thượng cũng thực hành như vậy.
Hòa Thượng còn
gọi là Ô Bà Đa Gia, là phiên âm theo tiếng Ấn Độ, Trung Hoa dịch là Lực Sanh.
Hòa Thượng có ba loại:
- Hòa Thượng
truyền Thập Giới.
- Hòa Thượng
truyền Cụ Túc Giới.
- Hòa Thượng
truyền Bồ Tát Giới.
Hòa Thượng truyền
Bồ Tát Giới chính là chư Phật. Cho nên hai chữ Hòa Thượng trong Phật pháp là
một địa vị rất tôn trọng, không phải bất cứ người nào cũng có thể tùy tiện xưng
hô. Nhiều người không hiểu ý nghĩa chữ Hòa Thượng, rồi cho rằng Hòa Thượng
không có ý nghĩa gì quan trọng cả, thật là sai lầm rất lớn.
Hòa Thượng dịch
là Lực Sanh, ý nói năng lực của Thầy có thể sanh trưởng các công đức cho mình,
nên gọi là Lực Sanh. Về việc thọ giới thì nhờ năng lực thọ giới nơi thầy mà
sanh trưởng Pháp Thân vô lậu diệu giới cho mình. Đây là một việc rất khó được
và đáng tôn quý biết dường nào! Cho nên Hòa Thượng là danh xưng rất tôn trọng,
không nên xem thường và không nên kêu gọi trong hàm ý khinh thị.
A Xà Lê còn gọi
là A Giá Lê Gia, có năm loại:
- Yết Ma A Xà
Lê.
- Giáo Thọ A Xà
Lê.
- Tôn Chứng A Xà
Lê.
- Thọ Kinh A Xà
Lê (giảng dạy kinh, luật, luận).
- Y Chỉ A Xà Lê
(bậc thầy mình nương theo để tu học).
Luật dạy rằng:
“Sa Di không
được xa thầy một đêm, tỳ kheo đủ năm hạ, có trí huệ, thông hiểu kinh luật mới
được lìa Thầy. Nếu là người độn căn phải suốt đời nương theo Thầy”.
A Xà Lê: Trung
Hoa dịch là Quỹ Phạm Sư, nghĩa là vị thầy có khả năng dạy bảo, dẫn dắt chúng ta
những oai nghi, cử chỉ cần phải thực hành. Dạy chúng ta những gì nên làm hoặc
không nên làm. Dạy chúng ta nhận thức những ý nghĩa sâu nhiệm trong Phật pháp
để tu hành. Địa vị A Xà Lê đồng với vị Giáo Giới Sư, trong phần sau sẽ giảng
rõ.
Đại đức: danh
xưng thông thường của chúng xuất gia, biểu thị chúng xuất gia là người có công
đức rất lớn.
Đồng học: chỉ
những người đã thọ giới Bồ Tát, những người cùng học chung một thầy, học tập
đạo pháp xuất thế, học tập Bồ Tát Tạng.
Đồng kiến: chỉ
những người thọ Bồ Tát giới, có cùng tư tưởng, kiến giải, và cùng lấy pháp Đại
Thừa Bồ Tát Tạng làm tư tưởng, kiến giải cho mình.
Đồng hạnh: chỉ
những người thọ giới Bồ Tát, cùng thực hành Bồ Tát đạo, và hành vi đạo đức
giống nhau.
Nếu lúc trông
thấy bất cứ vị đại đức nào hay các vị đồng học, đồng kiến, đồng hạnh... đến chỗ
mình, phải liền đứng dậy tiếp rước, lạy chào, hỏi thăm, thể hiện tâm hiếu
thuận, và cung kính một cách cụ thể, không nên có thái độ lơ là, biếng nhác, dù
chỉ thể hiện một cách hết sức vi tế.
Tất cả những
điều nói trên hợp lại đầy đủ ba nghiệp kiền thành:
- Tâm hiếu thuận
là ý nghiệp kiền thành.
- Đứng dậy, tiếp
rước, lạy chào là thân nghiệp kiền thành.