KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương
III: CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT
THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.2.2. BIỆT
THUYẾT KHINH GIỚI
(riêng giảng các giới khinh)
B.2.2.20. BẤT HÀNH PHÓNG CỨU GIỚI
(giới không thực
hành phóng sanh cứu độ)
Kinh văn:
1. Phiên âm:
Từ câu “nhược Phật tử dĩ ác tâm cố...” đến câu “phạm khinh cấu tội”.
2. Dịch nghĩa:
Nếu là Phật
tử nên vì tâm từ bi mà làm việc phóng sanh. Tất cả nam tử là cha ta, tất cả nữ
nhân là mẹ ta. Từ nhiều đời ta đều thác sanh nơi đó. Vì lẽ ấy nên chúng sanh
trong lục đạo đều là cha mẹ ta. Nếu giết chúng để ăn thịt thời chính là giết
cha mẹ ta, mà cũng chính là giết những thân cũ của ta. Tất cả thân tứ đại đều
là bổn thân, bổn thể của ta, cho nên thường phải làm việc phóng sanh và khuyên
bảo người làm. Nếu lúc thấy người đi sát sanh nên tìm cách cứu hộ cho chúng
được thoát khỏi nạn khổ. Thường đem giới Bồ Tát giảng dạy để cứu độ chúng sanh.
Đến ngày cha mẹ hay anh em chết, nên thỉnh Pháp Sư giảng kinh luật Bồ Tát giới.
Người chết nhờ phước ấy hoặc được vãng sanh Tịnh Độ ra mắt chư Phật, hay thác
sanh trong cõi trời người. Nếu không làm các điều trên, Bồ Tát này phạm khinh
cấu tội.
Mười giới như
thế cần nên học tập, kính trọng, phụng trì như trong phẩm Diệt Tội đã giảng rõ
mỗi giới.
Lời giảng:
Thấy người
hiền sanh tâm khi báng đều là tuyệt đối không được, cho nên giới trước đã cực
lực ngăn cấm. Thấy bị khổ nạn mà không cứu tế cũng không được. Đây là điều ngăn
cấm của giới này.
Bổn nguyện của
Bồ Tát là phải cứu độ những chúng sanh bị khổ nạn. Nếu không cứu độ chúng sanh
bị khổ nạn thì thử hỏi bạn làm một vị Bồ Tát để làm gì?
Trong kinh dạy:
“Thấy chúng sanh đau khổ mà phát tâm Bồ Đề” là biểu lộ tinh thần này. Vì thế,
một vị Bồ Tát phát tâm Bồ Đề chân chính, với bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải cứu
độ chúng sanh, kể cả việc hy sinh tính mạng chính mình. Nếu hiện tại thấy chúng
sanh đang chịu các thống khổ mà bạn vẫn an nhiên ngồi xem, không lo cứu tế, thử
hỏi tâm từ bi của bạn ở chỗ nào?
Bồ Tát hạnh là
phải lấy tâm từ bi làm căn bản, nên không cho phép bạn trông thấy cảnh khổ mà
không lo cứu tế. Thấy chúng sanh bị khổ nạn mà không lo tìm phương tiện cứu tế là
trái với đạo từ bi của Bồ Tát. Thấy thân tộc của mình tử vong mà không xiển
pháp Đại Thừa, là trái với tâm hiếu thuận của Bồ Tát.
Giới này có tác
dụng ngăn chận những tội lỗi như vậy, nên gọi là giới “cấm việc không chịu thực
hành việc phóng sanh cứu độ”.
Trong Phật pháp,
việc độ sanh không phải chỉ trong phạm vi riêng độ những chúng sanh sinh tiền
mà còn phải độ cả những vong linh đã chết. Độ chúng sanh sinh tiền là thực hành
tâm từ bi, độ vong linh quá cố là thiện cử báo ân.
Phần thứ nhất
của giới này là phóng sanh để cứu khỏi nạn chết.
Phần thứ hai của
giới này dạy về việc trai táng, giảng kinh để tư trợ cho người chết. Phật pháp
sở dĩ siêu thắng hơn các tôn giáo khác là chính ở điểm này.
Làm lễ siêu độ
cho vong linh sau khi chết, sự việc này mang ý nghĩa thâm áo bên trong. Vì sinh
mạng thể này sau khi kết thúc, ngoại trừ phái Đoạn Diệt Luận không thừa nhận sự
tiếp tục của tân sinh mạng, còn đại đa số các tôn giáo khác đều thừa nhận có sự
tiếp tục sinh tồn của một sinh mạng mới.
Nhưng tân sinh
mạng này sanh tồn trong hoàn cảnh nào, hoàn toàn tùy thuộc vào nghiệp lực của
người chết như thế nào mà phán đoán rốt ráo. Vì không muốn cho người chết bị
đọa lạc, chịu sự thống khổ vô cùng nên cần phải tụng đọc kinh, giảng kinh để
vong linh nương nhờ được sự tư trợ của pháp lực.
Trong Phật pháp,
nhờ nhận chân được sự lợi ích của việc tụng đọc kinh, giảng kinh cho vong linh,
khiến cho người chết có thể giảm nhẹ được sự thống khổ, giúp cho họ được siêu
sinh Tịnh Độ, nhờ vào việc cầu siêu giảng kinh.
Cho nên lễ tiến
vong trong Phật pháp nhất định không phải là mê tín, theo như chỗ nghĩ tưởng
của những người thông thường. Giới này triệt để ngăn cấm tất cả thất chúng Phật
tử, nhưng hành giả Đại Thừa và Tiểu Thừa dù đều vâng giữ, nhưng không hoàn toàn
giống nhau.
Hành giả Tiểu
Thừa lấy tự độ làm bổn nguyện của mình, nên việc không cứu độ khổ nạn cho chúng
sanh cũng không phạm giới. Riêng đối với quyến thuộc của mình cần phải tùy phần,
tùy sức tận tâm tế độ. Nếu đối với quyến thuộc mà làm ngơ như không có quan hệ
gì với mình, không tận tâm tế độ thì trái với tinh thần của giới này.
Hành giả Đại
Thừa vốn lấy việc lợi tha làm nhiệm vụ chính yếu. Dù chúng sanh có quan hệ với
mình hay không, đều phải tận tâm tận lực cứu tế. Nếu không cứu tế là trái phạm giới
hạnh này.
Đức Phật đối với
đại chúng dạy rằng: “Nếu làm vị Phật tử đã thọ giới Bồ Tát, trong lúc thực hành
lục độ, vạn hạnh, nhân vì lấy tâm từ bi làm cơ bản nên cần phải thường làm việc
phóng sanh”.
Phóng sanh là
đối với những chúng sanh sắp chết, phải cứu hộ một cách hiệu quả, đừng để chúng
sanh bị sự thống khổ như cắt cổ, nhổ lông v.v... Đây chính là sự lưu lộ tâm hạnh
từ bi của người Phật tử.
Chúng ta nên
biết: những sinh mạng có đủ tâm thức hoạt động, bất cứ là loại cao cấp hay hạ
cấp đều mong ước sinh mạng của mình được tồn tại mãi, không bị đoạn tuyệt. Không
ai muốn bị cắt cổ, sát hại làm tổn hại sinh mạng của mình.
Vì thế, nếu đem
một sinh mạng chúng sanh đang sống, cắt cổ, nhổ lông, lột da, cạo vảy v.v.. bỏ
vào nồi nước sôi nấu, hoặc vào chảo dầu sôi chiên, thử hỏi sự thống khổ ấy chúng
sanh làm sao chịu nổi?
Trung Hoa có câu
tục ngữ: “Thố tử hồ bi, vật thương kỳ loại”. Chồn và thỏ là hai động vật khác
loài nhau, nhưng đến lúc thỏ mất, chồn cũng buồn đau, thương tiếc.
Nhân loại chúng
ta cũng thuộc về một trong các loài sinh vật, lại còn được suy tôn là vật tối
linh trong muôn loài. Trong tinh thần thương yêu sanh mạng sinh vật, chẳng lẽ
lại không bằng một con chồn hay sao? Nếu quả như vậy, thẳng thắn mà nói, con
người không bằng súc sanh, mà đã như vậy thì còn tư cách chi để gọi là vật tối
linh trong muôn vật?
Ở đây xin trích
một truyện ngắn trong bộ Vật Do Như Thủ kể chuyện một con cọp dữ biết thương
người cô độc.
Thuở xưa, tại
Trung Hoa, huyện Vụ Châu, thôn Căn Khê, có bà lão họ Lý, tuổi ngoài sáu mươi.
Bà có mấy người con, nhưng họ kế tiếp nhau qua đời vì bệnh dịch, chỉ còn một
đứa cháu bảy tuổi. Hai bà cháu nương nhau sống qua ngày.
Bấy giờ, nhằm
tiết trời Xuân, hai bà cháu dắt nhau lên đồi hái trà. Lúc ấy, bà đang chăm chú
hái trà thì bỗng một con mãnh hổ từ trong rừng chạy ra, vồ lấy đứa bé tha đi. Bà
lão không hề sợ hãi, chạy theo, một tay bà vịn thân cọp, vừa đi vừa than khóc
thảm thiết.
Bà kể lể nỗi cô
độc của mình và kêu lớn lên: - Cọp ơi! Hãy thả cháu tôi ra. Nếu muốn ăn thịt
thì cứ ăn tôi. Già này rất cảm ơn.
Cọp nghe nói
dừng lại, đôi mắt hơi nhắm, nghiêng tai nghe, biểu lộ tâm trạng dường như hối
hận, đoạn để đứa bé xuống và đi vào rừng. Bà lão vui mừng dắt cháu về
nhà.
Lý Tư Nghĩa bình
luận chuyện trên rằng: “Truyện ấy lời lẽ cũng như ý tứ thật bi ai, thống thiết.
Dữ như cọp mà vẫn còn cảm động, không nỡ ăn người!”
Theo truyện trên,
hàng Phật tử chúng ta, đối với sinh mạng loài vật cần phải gia tâm ái hộ gấp
bội. Phải tùy thời tận lực cứu độ sanh mạng chúng sanh, phóng thích và dành
sanh lộ cho chúng được sống còn, không nên để cho chúng bị hy sinh một cách vô
tội!
Trong Phật giáo
thừa nhận việc phóng sanh là việc làm có công đức thật vĩ đại. Vậy mỗi Phật
giáo đồ, nhất là các vị Bồ Tát lấy việc độ sanh làm trách nhiệm của mình cần
phải thực hành việc phóng sanh thật nhiều, để thế gian này bớt đi một phần nào
sát nghiệp.
Thuở xưa tại
Trung Hoa, có một chủ nhân quán rượu thịt. Ngày nọ, người ấy bỗng nhiên phát
tâm đại nhân, đem tất cả loài thủy tộc như tôm, cá, lươn, trạch, rùa v.v... đã
mua về để làm thức ăn cho khách ra sông phóng sanh.
Mọi người thấy
vị chủ quán làm việc phóng sanh như vậy đều cảm động, hoan hô vang dậy. Từ đó,
tiệm rượu thịt cũng đóng cửa.
Một số người
thấy việc làm rất lạ kỳ này, bèn kéo đến hỏi chủ quán tại sao bỗng nhiên phát
đại tâm như vậy? Chủ quán đáp:
- Từ lâu ở tiệm
tôi có cậu học trò làm công. Mỗi ngày trông thấy sự đau khổ vì cắt cổ, nhổ lông,
bằm xắt trên thớt, dưới dao của loài thủy tộc, tâm cậu cảm thấy bất nhẫn vô
cùng. Vì vậy, cậu hằng ngày lén bắt những con vật còn sống và mạnh đem ra sông
phóng sanh. Một thời gian sau tôi biết được.
Một hôm như
thường lệ, cậu lén đem các thứ ra phóng sanh. Tôi ở phía sau rình xem. Khi tới
sông, cậu thả từng con xuống sông và ra vẻ hoan hỷ vô cùng, còn tôi thì lại bất
mãn cực độ, cho việc làm ấy thật phi lý. Tại sao cậu ta dám đem những con cá,
con tôm... của tôi mua mà đi thả?
Lúc ấy, tôi quá
giận, liền đem một nồi nước sôi tưới xả trên lưng cậu học trò. Cậu ngã nhào
xuống đất, quá đau đớn dường như sắp chết. Lưng cậu bị bỏng nước sôi, lột da
lòi thịt trông như heo luộc.
Mục kích sự đau
khổ của cậu học trò như vậy, tôi chẳng những không thèm ngó đến, mà cũng không
có một niệm xót thương. Lại còn nghĩ rằng chết cho đáng kiếp. Tự tạo nhân phải tự
chịu tội báo.
Chốc lát sau,
cậu học trò tỉnh lại, quá đau đớn không chịu nổi, cậu kêu la thảm thiết. Lúc ấy
bỗng nhiên có vô số loài thủy tộc ở dưới sông, nhảy lên lưng cậu. Chúng nằm lăn
trên những vết thương như người dùng thuốc thoa phết. Cậu học trò cảm thấy mát
mẻ tận xương tủy. Thân tâm khỏe khoắn dị thường, bao nhiêu thống khổ đều hết
hẳn.
Sau khi chứng
kiến cảnh ấy, tôi lấy làm lạ và tự nghĩ rằng:
- Cứu hộ sanh
mạng loài vật được báo ân như vậy, thì sát hại loài vật không thể nào tránh
khỏi báo thù. Tại sao ta ngu si nhẫn tâm làm việc sát sanh để kết vô lượng vô biên
nỗi oán hận?!
Suy nghĩ như
vậy, tôi liền đem tất cả sanh mạng loài thủy tộc đã mua đến sông phóng sanh, và
tôi quyết định nguyện chấm dứt sự sinh sống với nghề bán rượu thịt này, tìm nghề
chánh đáng khác để nuôi sống. Đây chính là nguyên nhân tôi đem tất cả loài thủy
tộc đã mua về phóng sanh vậy.
Vì thế, chúng ta
thấy phóng sanh là một việc làm rất tốt và cũng là một mỹ đức không gì sánh
bằng. Là Phật tử, chúng ta mỗi người cần phải phát tâm cùng nhau cổ động việc phóng
sanh để mong chấm dứt những tai nạn rối ren đưa đến cho nhân loại.
Phóng sanh là
một việc làm có công đức vĩ đại, toàn thể Phật tử đều phải công nhận. Nhưng
muốn tâm niệm phóng sanh được kiên cố, không thối chuyển phải thực hành pháp
chánh quán.
Thực hành pháp
chánh quán bằng cách nào?
Tức là y theo
trong kinh Phật dạy quán: “Tất cả nam tử là cha ta, tất cả nữ nhân là mẹ
ta”.
Tại sao biết tất
cả nam tử và nữ nhân là cha mẹ của ta?
Vì nhiều đời đều
thác sanh ở đó. Biết đích xác như vậy, đem ý niệm trên mà suy rộng ra thì thấy
“tất cả chúng sanh trong lục đạo”, có thể nói rằng bất cứ chúng sanh nào “cũng
đều là cha mẹ của ta”.
Như trong kinh,
Phật từng dạy rằng: “Ta thấy tất cả hữu tình không có một hữu tình nào ở trong
trường dạ mà chẳng từng làm cha mẹ của các ông”. Lời Phật dạy trên, nói theo
luật nhân quả thì tất cả hữu tình từ vô thỉ trở lại, đích xác triển chuyển làm
cha mẹ lẫn nhau.
Luận Du Già,
quyển chín, đức Bạc Già Phạm nói rằng: “Các ông ở trong đêm dài sanh tử, máu
huyết trong thân còn nhiều hơn nước bốn biển. Sự sanh tử không nhất định. Giả
sử lấy tất cả gốc, rễ, thân cây, cành, nhánh v.v... của tất cả cây cỏ trên quả
đất này, chặt nhỏ ra làm thẻ nhỏ chừng bằng 4 ngón tay. Các ông ở trong đêm dài
sanh tử đắp đổi làm cha mẹ lẫn nhau. Chúng sanh từng làm cha mẹ ta, ta cũng
từng làm cha mẹ chúng sanh. Như thế, cứ tính kể số lượng thì những thẻ còn mau
hết, chứ với biên tế số lượng các ông làm cha mẹ lẫn nhau ta không thể nói
hết”.
Đức Phật lại dạy
rằng: “Ta xem quả đại địa này, không có một chỗ nào, dù là rất nhỏ, mà các ông
không từng trải qua và thọ vô lượng sanh tử”.
Đức Phật cũng
dạy: “Ta quán sát tất cả hữu tình trên thế gian này, ở trong trường dạ lưu
chuyển sanh tử, đều làm hoặc cha, hoặc mẹ, hoặc anh em, chị em, hoặc Quỹ Phạm
Sư, Thân Giáo Sư, hay các bậc tôn trọng của nhau”.
Theo lời Đức
Phật dạy trên, chúng ta thấy rõ chúng sanh trong lục đạo đều từng làm cha mẹ
của chúng ta. Điều đó chúng ta không thể không tin. Nếu như đối với lời Phật dạy
mà không tin, nơi đây xin y theo kinh Pháp Cú dẫn ra một sự thật để chứng
minh.
Khi Phật còn tại
thế, nơi thành Xá Vệ có một vị đại phú trưởng giả, tài bảo vô lượng. Nhưng
trưởng giả ấy tánh tình rất xan tham, keo kiết, không bao giờ chịu xả thí dù một
sợi lông cho bất cứ ai.
Một ngày nọ vợ
chồng trưởng giả cùng nhau dùng cơm trưa trên bàn ăn. Đứa con cưng như bảo bối
của hai người được ngồi ở giữa. Bữa cơm trưa ấy đặc biệt là giết một con gà
trống tơ. Hai ông bà cứ ăn một miếng thịt gà thì đút cho đứa bé một
miếng.
Đức Phật dùng
Phật nhãn quan sát biết nhân duyên đắc độ của trưởng giả đã thuần thục. Ngài
đặc biệt hóa làm một vị Sa-môn, đi ngay đến trước mặt trưởng giả mà nói rằng: -
Xin trưởng giả bố thí cho bần đạo ít nhiều, có thể khiến cho ngài được phước
báo rất lớn.
Trưởng giả chẳng
những không chịu bố thí cầu phước, trái lại, không chút kính nể sa môn, cất
tiếng mắng rằng: “Ông là người xuất gia, Đại Thừa của Phật, tại sao lại không có
tâm hổ thẹn như vậy? Vợ chồng tôi đang dùng cơm, đã không mời ông đến, sao ông
lại đường đột, suồng sã như vậy? Không giữ oai nghi của người xuất gia, không
khỏi mất tư cách và bổn phận của người xuất gia hay sao?”
Vị sa môn cũng
không vị nể đáp lại rằng: - Chính ông mới là người ngu si, không biết hổ thẹn
gì hết, mà trở lại nói tôi đường đột, suồng sã vào nhà ông thật là vô lý.
Trưởng giả nói
rằng: - Đây là nhà tôi, vợ chồng tôi ở đây dùng cơm, cùng nhau hưởng thú vui
thiên luân (đạo luân thường tự nhiên), có gì đáng gọi là hổ thẹn?
Sa môn tiếp: -
Xin ông đừng buồn, giờ đây tôi cứ sự thật chỉ ra minh bạch cho ông rõ: Chính
ông giết cha để ăn thịt, lấy mẹ để làm vợ, ông lại nuôi kẻ cừu địch ở trong nhà,
thì thử hỏi tâm hổ thẹn của ông ở chỗ nào, và việc làm ấy không ngu si thì gọi
là gì?
Nghe sa môn nói
như vậy, lửa sân của trưởng giả bùng dậy, ông bèn nói rằng: - Người xuất gia
này nói năng thật bậy bạ, ông nói cái gì nghe kỳ quá vậy?
Sa môn không bối
rối, lộ vẻ từ nhân, ôn tồn bảo trưởng giả rằng: - Ông hãy nghe tôi nói đây,
thịt gà ông đương ăn là phụ thân đời trước của ông. Vì ông ấy lúc sanh tiền xan
tham không hề xả thí nên sau khi bỏ thân, vì tiếc của, sanh làm gà trong nhà
ông cho ông ăn thịt. Cô vợ hiện tại là mẫu thân đời trước của ông. Vì tâm luyến
ái đối với ông chưa dứt nên trở lại làm vợ ông. Đứa con cưng như bửu bối hiện
tại đây, vào thời quá khứ nó từng làm quỷ La Sát. Lúc ấy, ông là người khách
buôn, đi thuyền vào bể cả, bị gió thổi trôi giạt vào nước quỷ La Sát nên bị quỷ
La Sát ăn. Như thế, trải qua năm trăm đời, thọ mạng của quỷ ấy kết thúc, chuyển
sanh trong nhân gian làm con ông Vì quả báo của tội nghiệp dư thừa chưa trả hết
nên nó đặc biệt đến làm con ông để mưu sát hại ông. Hiện tại dù ông đối đãi tử
tế với nó cách nào, ngày cuối cùng sinh mạng của ông về tay nó giải
quyết.
Dù sa môn nói
như vậy, nhưng ông trưởng giả không thể nào tin được. Phật bèn dùng thần thông
cho ông trưởng giả thấy, để trưởng giả tự mình quan sát biết rõ túc mạng của
mình. Bấy giờ, trưởng giả thấy lời của Phật chân thật không sai, liền đối trước
Phật cầu ai sám hối, và cầu Phật vì mình truyền Tam Quy Ngũ Giới.
Phật truyền quy
giới cho trưởng giả xong bèn thuyết pháp. Ngay lúc ấy, trưởng giả chứng sơ quả
Tu Đà Hoàn.
Chúng sanh trôi
lăn trong vòng sanh tử, xoay vần qua lại trong sáu đường đâu ai biết được! Có
điều chúng ta phải thừa nhận là từ vô thỉ kiếp trở lại, chúng ta đã trôi lăn trong
sanh tử, tự nhiên mới tin chắc được tất cả chúng sanh đều từng làm cha mẹ của
chúng ta. Chúng ta cũng từng làm cha mẹ của chúng sanh.
Tất cả những
loài chúng sanh có rất nhiều, chủng loại không đồng nhau, đều đã là cha mẹ của
chúng ta. Chúng ta đối với cha mẹ cần phải hết lòng hiếu thuận, cung kính không
hết, đâu nên trở lại giết hại mà ăn? Như hiện tại “đi giết hại chúng sanh kia”
để ăn thịt (bổn Việt văn dịch là “nếu giết chúng để ăn thịt”) ấy chính là không
khác gì “giết cha mẹ nhiều đời, nhiều kiếp” của chúng ta.
Vì vậy, xin hãy
lắng lòng một phen để suy nghĩ: Sinh mạng của cha mẹ có thể tùy tiện giết hại
hay sao? Nhục thể của cha mẹ có thể tùy tiện thọ dụng hay sao? Lại đi giết hại để
ăn, đó chẳng phải là đại bất hiếu và trái với tâm từ bi của người Phật tử hay
sao?!
Cho nên bất cứ
phương diện nào, giết hại cha mẹ mà ăn thịt đều là chuyện bất thành. Việc này
trong Phật pháp cố nhiên là ngăn cấm, mà chính luân thường đạo lý trong thế
gian cũng không cho phép.
Điều đáng tiếc
là những người thông thường trên thế gian, vì tầm nhãn quan quá ngắn và sự nhận
thức cũng không xa, nên chỉ nhận biết cha mẹ hiện đời mới thực là cha mẹ. Họ không
biết rằng cha mẹ nhiều đời, nhiều kiếp rất nhiều và chỉ vọng nhận sắc thân tứ
đại hiện tiền là thân mình, nên đối với chí lý “vạn vật đồng nhất thể” họ hoàn
toàn không hiểu rõ.
Chú
thích
1. Ba loại từ
bi:
- Sanh duyên từ:
gọi đủ là Chúng Sanh Duyên Từ Bi. Dùng tâm từ bi xem xét, quan sát tất cả chúng
sanh trong lục đạo ở mười phương đều là cha mẹ, chị em, con cháu của mình. Nương
theo đó mà nghĩ suy tìm cách cứu khổ nên gọi là Chúng Sanh Duyên Từ Bi tâm.
Nghĩa là tâm từ bi do nơi chúng sanh mà sanh khởi. Tâm từ bi này đa số ở những
hành giả còn ở địa vĩ phàm phu, hoặc bậc Hữu Học, chưa đoạn diệt phiền não mà
sanh khởi.
- Pháp duyên từ:
Gọi đủ là Pháp Duyên Từ Bi tâm, là hàng thánh nhân trong tam thừa đã đoạn phiền
não, thông đạt đến lý Pháp không (các pháp duyên sanh như huyễn, không thực có),
đã phá trừ được ngã tướng (phá tướng chấp có ngã), phá tướng nhất dị (không
thấy có tướng giống và khác, nghĩa là không còn thấy mình và người khác nhau),
diệt tướng nhất dị. Thấy chúng sanh không hiểu rõ lý pháp này, sanh lòng thương
xót, nhứt tâm, nhứt ý muốn cứu khổ ban vui cho chúng sanh. Luôn luôn tùy thuận
tâm ý của mỗi chúng sanh mà cứu độ, nên mệnh danh là Pháp Duyên Sanh Từ Bi (tâm
từ bi duyên nơi các pháp mà phát sanh).
- Vô duyên từ:
gọi đủ là Vô Duyên Từ Bi tân. Tâm từ bi này chỉ có chư Phật mới có. Vì tâm từ
bi của chư Phật không an trụ trong các pháp hữu vi hoặc vô vi, cũng không an trụ
trong ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai. Biết các duyên không thật có, đều là
điên đảo, hư vọng. Cho nên tâm của chư Phật không có cảnh sở duyên. Nghĩa là
không duyên vào một pháp nào cả. Chư Phật vì thấy chúng sanh không đạt được
Thật Tướng của các pháp nên bị luân hồi trong lục đạo, tâm thường đắm trước các
pháp thủ xả, phân biệt, nên tâm chư Phật không duyên nơi chúng sanh, mà khiến
cho tất cả chúng sanh tự nhiên được sự lợi ích bởi sự cứu khổ, ban vui, nên gọi
là Vô Duyên Từ Bi Tâm (tâm từ bi của chư Phật không duyên vào một pháp
nào).
Ba loại tâm từ
bi này được giải thích rõ trong Đại Trí Độ Luận, quyển hai mươi và trong kinh
Đại Niết Bàn.
Năm thứ lợi ích
của tâm từ bi theo kinh Đàn Đặc Ca:
1. Không bị đao
gươm làm hại sanh mạng.
2. Không bị tất
cả các thứ độc dược làm hại.
3. Không bị lửa
cháy.
4. Không bị chết
vì nạn nước.
5. Những người
hung ác, sân hận khi trông thấy liền phát khởi thiện tâm.
Mười hai lợi ích
của tâm từ bi theo kinh Pháp Cú:
1. Phước đức
thường theo bên mình.
2. Khi nằm ngủ
được an ổn.
3. Lúc thức cũng
được an ổn.
4. Lúc ngủ không
thấy những điềm ác mộng.
5.
6. Mọi người đều
mến thương.
7. Không bị tất
cả thú độc làm hại.
8. Không bị đao
binh làm hại.
9. Không bị chết
vì nạn nước.
10. Không bị
chết vì nạn lửa.
11. Ở nơi nào
cũng được nhiều lợi ích.
12. Sau khi xả
thân được sanh lên cõi trời Phạm thiên.
(Nếu những người
tu hạnh từ bi mà kiêm tu pháp môn Tịnh Độ thì lúc sanh tiền được những điều lợi
ích như trên, sau khi xả thân được sanh về Cực Lạc).
Là Phật tử đã
thọ Tâm Địa đại giới, tu Bồ Tát hạnh, thì hiện tiền được nhiều lợi lạc. Phải
nên chuyên tâm niệm Phật, đem những công hạnh thực hành tâm từ bi hồi hướng về
Tây Phương Cực Lạc thì chẳng những hiện tiền được hưởng những lợi ích như trong
kinh đã nói, khi xả báo thân được vãng sanh về Cực Lạc, được thấy Phật, nghe
pháp, được phẩm vị cao. Sau đó, tiếp tục tu hành cho đến khi viên thành Phật
quả, thành một bậc đại phước, đại trí, hiện thân trong vô lượng thế giới, cứu
độ chúng sanh.