KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương
III: CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT
THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.2.2. BIỆT
THUYẾT KHINH GIỚI
(riêng giảng các giới khinh)
B.2.2.39. BẤT TU PHƯỚC HUỆ GIỚI
(giới không tu
phước huệ)
Kinh văn
1. Phiên âm:
Từ câu “nhược Phật tử thường ưng giáo hóa nhứt thiết chúng sanh” cho đến câu “phạm khinh cấu tội”.
1. Dịch nghĩa:
Nếu là Phật
tử thường phải khuyến hóa tất cả mọi người kiến tạo tăng phường nơi núi rừng,
vườn ruộng, xây dựng Phật tháp, chỗ an cư, tọa thiền trong mùa Đông, mùa Hạ.
Tất cả những cơ sở hành đạo đều nên kiến tạo.
Người Phật tử
phải giảng thuyết kinh luật Đại Thừa cho tất cả chúng sanh trong lúc tật bịnh,
nước có giặc giã, có nạn, ngày cha mẹ, anh em, hòa thượng, A Xà Lê khuất tịch
và mỗi tuần thất, nhẫn đến bảy tuần thất cũng nên giảng thuyết kinh luật Đại
Thừa. Tất cả những trai hội cầu nguyện, những lúc đi làm ăn, những khi có tai
nạn, bão lụt, hỏa hoạn, ghe thuyền trôi giạt nơi sông to, biển lớn, gặp quỷ La
Sát v.v... đều cũng đọc tụng kinh luật Đại Thừa. Nhẫn đến tất cả tội báo, tam
ác, bát nạn, thất nghịch, gông cùm, xiềng xích trói buộc tay chân, hoặc người
nhiều dâm, nhiều sân, nhiều ngu si, nhiều tật bịnh đều nên giảng kinh luật Đại
Thừa này. Nếu hàng tân học Phật tử không thực hành những điều trên đây thời
phạm khinh cấu tội.
Lời giảng
Một vị Phật
tử dù là Đại Thừa hay Tiểu Thừa đều phải xem trọng giới hạnh của mình. Điều ấy
đương nhiên không sai. Nhưng đó chỉ là những lễ nghi thuộc phạm vi cá nhân mà
thôi. Do đó, phải quyết tiến lên một bậc nữa, tự tu phước huệ và dẫn dắt tất cả
chúng sanh đồng tu phước huệ, giải trừ tất cả khổ nạn cho chúng sanh. Như thế
mới xứng đáng với tư cách của một vị Bồ Tát Đại Thừa.
Đem chánh pháp
cứu độ chúng sanh như thế nào? Giúp chúng sanh trừ những tai nạn hiện tại và vị
lai bằng cách nào?
Về số lượng pháp
mình và người cần phải tu, nói ra thì rất nhiều nhưng đại khái cũng không ngoài
tu phước và tu huệ,
- Nếu phước báo
không có thì sẽ thường gặp nhiều chướng duyên, khiến cho bạn không thể đúng như
pháp mà tiến tu.
- Nếu trí huệ
thiển bạc thì rất dễ bị đi vào con đường sai lầm, khiến cho bạn vĩnh viễn không
thể nào về đến nhà.
Vì thế, Phật
pháp chủ trương “phước huệ song tu” như chim cần hai cánh và như hai bánh của
chiếc xe, nếu thiếu một không thể bay hay chạy đưọc. Cũng vậy, hai món phước và
huệ nếu thiếu bất cứ món nào, cũng khó mà thành tựu thắng quả.
Trong kinh có kể
một truyện cổ như sau:
Có một vị thánh
nhân đã chứng quả A La Hán, là một bậc phước điền thù thắng trên thế gian, xứng
đáng thọ nhận sự cúng dường của nhân thiên, nhưng vì trong thời quá khứ, khi tu
học Phật pháp, Ngài chỉ chuyên tu tập trí huệ, xem thường việc vun bồi phước
đức, nên trong đời hiện tại dù đã chứng quả A La Hán, nhưng việc cúng dường của
Phật tử đối với Ngài hết sức thiếu thốn, thậm chí cơm không đủ no lòng.
Trái lại có một
con đại tượng, cùng thời với Ngài, được người nuôi dưỡng rất đầy đủ. Dù chỉ là
súc sanh, nhưng nó chẳng những được ăn uống rất ngon, rất thừa thãi, mà lại còn
được mang chuỗi anh lạc rất quý báu trên thân. Đại tượng ấy sở dĩ bị đọa trong
loài súc sanh, vì trong đời quá khứ từng vun bồi phước đức rất nhiều, nhưng lại
xem thường việc tu tập trí huệ, nên không thể phân biệt thiện ác, phải quấy đến
nỗi si mê, tăm tối, làm những chuyện trái giới luật nên phải cảm thọ quả báo
mang thân súc sanh.
Theo truyện
trên, chúng ta thấy làm một người Phật tử quyết định phải đồng thời phước huệ
song tu. Đức Bổn Sư Thích Ca sở dĩ thành Phật chẳng qua là phước huệ của Ngài
đã viên mãn mà thôi. Chúng ta tu học theo Phật, sao không lấy hình ảnh Phật làm
tấm gương sáng cho mình, để cố gắng phước huệ song tu?
Nhưng tu phước
và huệ như thế nào?
Chính trong kinh
văn có dạy rõ là Tài Thí và Pháp Thí.
- Tài thí là vun
bồi phước đức.
- Pháp thí là
tăng ích trí huệ.
Như thế việc tu
phước huệ không phải là một điều khó khăn, chỉ cần chịu thực hành tài thí và
pháp thí là được.
Pháp thí là vì
người giảng giải kinh luật Đại Thừa, vì Phật pháp nếu không có người giảng giải
thì không thể hiểu rõ được, vì thế cần phải giảng giải.
Tài thí là cứu
giúp những người trong cảnh nghèo khổ khó khăn, hoặc kiến tạo chỗ nơi để người
tu hành có thể an tâm hành đạo.
Thực hành như
thế nào mới gọi là phước huệ song tu.
Đức Phật dạy đại
chúng rằng: “Nếu là một Phật tử đã thọ Bồ Tát giới, việc giáo hóa chúng sanh
không phải chỉ làm một lần là xong, mà cần phải thường khuyến hóa tất cả chúng
sanh”.
“Thường
khuyến hóa” nghĩa là làm việc khuyến hóa liên tục không gián đoạn. Những chúng
sanh có nhân duyên hóa độ với mình, nếu ngày nào hóa độ chưa xong, thì ngày ấy
không được đình chỉ sự giáo hóa. Điều tối yếu là phải dẫn dắt chúng sanh đúng
như pháp tu hành. Hơn nữa, người tu hành phải có nơi, có chỗ an tu, không phải
bất cứ chỗ nào cũng tùy tiện mà ở tu được. Vì thế, Bồ Tát cần phải khuyến hóa
chúng sanh làm những việc sau đây để cho các vị tu hành nương thân hành
đạo:
1. Kiến lập tăng
phường: để cho chúng tăng tập họp lại một nơi an tâm tu niệm.
2. Kiến tạo núi
rừng: Để cho đại chúng nhờ chỗ mát mẻ của rừng núi mà thân tâm được an lạc, để
tu niệm, không bị cảm giác nóng bức khó chịu.
3. Kiến tạo vườn
tược: để trồng các thứ rau cải, cây ăn trái, để cung cấp cho đại chúng thọ dụng
trong khi tu hành.
4. Kiến tạo
ruộng nương: Để thâu hoạch ngũ cốc dồi dào, làm lương thực cung cấp cho đại
chúng, giúp đại chúng an tâm khỏi phải để tâm đến việc sinh sống hằng
ngày.
5. Xây dựng tháp
Phật: Để cho chúng sanh có nơi chiêm lễ và cũng là nơi thiên nhân vun bồi phước
điền thù thắng. Tháp là nơi thờ linh cốt thánh nhân (xá lợi của Phật và Bồ
Tát), trong kinh gọi là “sanh thân tháp”. Nếu thành tâm chiêm bái, cúng dường
tháp Phật, phước đức không thể tính kể, so lường được.
Như trong kinh A
Hàm nói: “Vào thời quá khứ, sau khi Phật Tỳ Bà Thi nhập diệt, có một tỳ kheo
hiệu là Phạm Ni Thi. Một ngày nọ, ngài đem hết tâm hoan hỷ thành kính tuyệt
đỉnh của mình cầm chiếc đèn soi vào trong tháp của Phật. Nhờ phước đức ấy, khi
đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất thế, tỳ kheo Phạm Thi Ni được phước báo quang minh
trên thân rực rỡ, so với quang minh trên thân của chư thiên hai mươi tám từng
trời thì quang minh của chư thiên không thể sánh kịp.
Ngài còn được
gặp đức Bổn Sư Thích Ca, và được đắc quả. Nhờ tâm thành kính hoan hỷ, dùng đèn
soi vào trong tháp Phật, còn được công đức thù thắng như thế, huống chi xây
dựng tháp Phật, đương nhiên được công đức không thể nghĩ bàn.
6. Kiến tạo chỗ
an cư, tọa thiền trong mùa Đông, mùa Hạ: để cho chúng tăng có chỗ an cư trong
tiết Hạ và tọa thiền trong tiết Đông thiên. Trong khoảng thời gian hai mùa này,
chúng tăng nhờ những phương tiện đó mà sách lệ tiến tu, không đến nỗi biếng
nhác, giải đãi, luống trôi giờ vàng ngọc của người xuất gia hành đạ.
7. Tất cả những
cơ sở hành đạo đều nên kiến tạo: Câu kinh văn này chứng tỏ nơi hành đạo không
phải là một nơi có rất nhiều nơi. Vì thế phàm những nơi nào có lợi cho việc tu
hành, đều nên kiến tạo cơ sở, để cho chúng chúng tăng đến nơi nào cũng có chỗ
để an tâm, chuyên lo tu niệm.
Giáo hóa tất cả
chúng sanh như thế, bất cứ trường hợp tự mình khuyến hóa hay nhờ người khác
khuyến hóa, đều được hưởng phước báo nhân thiên và thiện căn xuất thế. Vì thế,
tuyệt đối không được xem thường vấn đề này.
Có điều cần phải
đặc biệt lưu ý là khi kiến tạo những cơ sở nói trên, tuyệt đối phải tránh xa
những chỗ sau đây:
- Chỗ đình miễu
thờ quỷ thần.
- Gần xóm
làng.
- Gần chỗ mãi
dâm.
- Gần quán
rượu.
- Gần nhà đồ tể.
- Gần bọn cướp
lâu la.
Có tránh
xa những nơi ấy, mới không bị sự xúc não không cần thiết và tránh khỏi sự chê
bai, dị nghị của hàng nhân sĩ trong xã hội. Nhờ vậy, đại chúng mới được hoàn
cảnh, môi trường thuận tiện cho việc an tâm tịnh tu đạo nghiệp.
Trong luật
Tiểu Thừa, Đức Phật dạy quý tỳ kheo khi lập tự viện hay am thất còn phải tránh
xa hai nơi: nạn xứ và phòng xứ, huống chi Bồ Tát là người thực hành công hạnh
tự lợi, lợi tha, lẽ đương nhiên, càng phải xa lìa nạn xứ và phòng xứ.
Trong Luật dạy,
nạn xứ là nơi có ác thú, rắn độc, muỗi mòng, kiến trùng v.v... Các thứ ấy
thường gây sự não loạn, khiến người không thể hành đạo.
Còn phòng xứ là
chỉ phạm vi trong vòng một dặm chung quanh tự viện, am cốc, nếu có giếng nước
nơi mọi người thường lui tới múc nước hay đường sá nơi mọi người qua lại, hoặc
gần sườn núi cheo leo, hay hầm sâu hố thẳm, hoặc gần chỗ nha môn, quan quyền,
chỗ ngoại đạo, chỗ chùa tỳ kheo ni v.v... Những chỗ như vậy thường có chướng
ngại to lớn cho việc tu hành thanh tịnh nên phải tránh xa.
Sau khi tìm được
nơi không có nạn xứ và phòng xứ thì nên tìm vị chủ nhân cuộc đất ấy, giảng nói
Phật pháp, khiến cho họ hoan hỷ phát tâm xả thí, sau đó mới được kiến lập tăng
phường nơi đó. Tuyệt đối không được cưỡng ép, lui tới thường xuyên khuyến hóa
chủ nhân chấp thuận, khiến cho họ thối thất tín tâm đối với Phật pháp.
Thế nên cổ đức
có hai câu răn dạy như sau:
Văn thí như tỵ
trái,
Kiến tăng do
phùng thù.
Dịch:
Nghe nói bố thí
như trốn nợ,
Thấy Tăng đến
nhà tợ kẻ thù.
Nếu đi quyên góp
làm cho thí chủ cảm thấy khó chịu đến mức độ như hai câu diễn tả bên trên thì
làm sao có thể kiến tạo các cơ sở hành đạo được?
Khi Phật còn tại
thế, trong thành Khoáng Dã có rất nhiều tỳ kheo. Vì muốn tạo lập phòng xá để có
nơi cư trú tu hành, các tỳ kheo cùng nhau đến nhà thí chủ khất cầu. Các thí chủ
không thể đáp ứng nên mỗi khi trông thấy quý tỳ kheo từ đằng xa, họ liền vào
nhà đóng cửa, để tránh sự cầu xin của quý thầy. Ngài Ca Diếp thấy vậy bèn đem
việc ấy bạch lên Phật. Đức Phật triệu tập chư tỳ kheo đến quở trách, rồi dạy
rằng:
Vào thời quá khứ
ở bên sông Hằng, có người phạm chí ở đấy tu niệm. Ông thường bị một con rồng ở
dưới sông leo lên quấn quanh thân ông, khiến ông không thể an tâm hành đạo. Ông
quá buồn rầu đến nỗi sanh bệnh.
Ta thấy ông đáng
thương như vậy, bèn đến bảo rằng: - Việc gì mà ông phải buồn rầu đến sanh bệnh
như vậy? Nếu ông muốn rồng đừng quấy phá nữa chỉ cần xin nó viên ngọc dưới cổ
là được.
Phạm chí nghe
lời làm như vậy, quả nhiên rồng không còn đến quấn thân ông nữa.
Phật lại dạy
tiếp rằng:
- Vào thời quá
khứ có quý tỳ kheo tọa thiền trong rừng, mỗi đêm thường bị chim đến kêu la, làm
náo động khiến các thầy không thể tọa thiền.
Quý thầy bị
chướng ngại như vậy, không biết làm thế nào để ở yên được. Phật biết thế bèn
đến bảo quý thầy rằng: “Chim kêu có gì đáng ngại. Các ông muốn chim đừng đến
kêu, chỉ cần xin nó hai cái cánh là được”. Quả nhiên, đàn chim không còn đến
kêu la, làm rối loạn việc tọa thiền của các thầy nữa.
Các ông thử
tưởng, loài điểu thú kia còn không muốn kẻ khác đến cầu xin nó cái gì, huống
chi các ông là người tu hành mà cứ luôn đến nhà người cầu xin thứ này, thứ kia
cho nhiều, làm sao tránh khỏi sự chán ghét của mọi người, họ sẽ không còn muốn
thấy các ông đi khất hóa nữa.
Kinh
văn
1. Phiên
âm:
Như thị cửu giới
ưng đương học, kính tâm phụng trì. Phạm Đàn phẩm đương giảng minh.
2. Dịch
nghĩa:
Chín giới như
thế cần phải học, hết lòng kính trọng phụng trì, trong phẩm Phạm Đàn có giảng
rõ.
Lời giảng
Ba câu kinh văn
trên là tóm lược kết khuyến chín giới trên. Hành giả đối với chín giới này cần
phải đúng như pháp tu học, từng giờ, từng khắc phải hết lòng kính trọng phụng
trì.
Trên đây chỉ là
lược giảng, nếu muốn biết thêm, nên xem trong phẩm Phạm Đàn có giảng rõ.